Bản án số 22/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 22/2025/DS-PT ngày 21/01/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 22/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vợ chồng ông Nguyễn L khởi kiện vợ chồng ông Phạm Văn T về việc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
Bn án s: 22/2025/DS-PT
Ngày 21 - 01 - 2025
V/v Tranh chp quyn s dụng đất
và tin bồi thường, h tr
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
Độc lp - T do - Hnh phúc
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TNH BÀ RA - VŨNG TÀU
- Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán - Ch ta phiên tòa: Ông Cao Xuân Long
Các Thm phán: Bà Đào Thị Huệ
Ông Cao Minh Vỹ
- Thư ký phiên tòa: Bà H Th Tâm - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà Ra
- Vũng Tàu.
- Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Ra - Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Bà Bùi Th Doan - Kim sát viên.
Trong các ngày 14, 21 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
221/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất và tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm s81/2024/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm s327/2024/QĐ-PT ngày
15/11/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 314/2024/QĐ-PT ngày 10/12/2024,
Thông báo mở lại phiên tòa số 207/2024/TB-TA ngày 16/12/2024 giữa các đương
sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn L, sinh năm 1964 (có mặt) và Lê Thị Xuân
H, sinh năm 1966 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ C, ấp B, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Hữu L1, sinh
năm 1990; địa chỉ: thôn X, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông (có mặt).
- Bị đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1966 (vắng mặt) Nguyễn Thị
Kim L2, sinh năm 1969 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ C, ấp B, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Hoàng V, sinh năm 1992;
địa chỉ: Số A, đường B, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện X, Xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh H1 Chủ tịch (vắng mặt).
2. Ủy ban nhân dân huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
Địa chỉ: Số A Quốc lộ E thị trấn P, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật:Lê Thị Trang Đ Chủ tịch (vắng mặt).
3. Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
Địa chỉ: Số A Quốc lộ E thị trấn P, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Thế H2 Giám đốc (vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Ngô Thị N, sinh năm 1957; địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu (vắng mặt).
2. Ông Phạm Văn H3, sinh năm 1958; địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện X, tỉnh
Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị Kim L2; là bị đơn
trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khi kiện đề ngày 10/4/2023, đơn thay đổi bổ sung yêu cầu khi
kiệ và quá trnh tham gia t tụng, nguyên đơn - ông Nguyễn L, Thị Xuân H
trình bày:
Vào khoảng năm 1998, vợ chồng ông L, H và ông Phạm Văn H3 cùng
nhận sang nhượng đất của Ngô Thị Ngọc T1 đất 331, diện tích 335m
2
thửa
đất 887, diện tích 86m
2
(Đất lộ giới) tờ bản đồ số 10 (Bề ngang 22m).
Vợ chồng ông L và ông H3 thỏa thuận mi bên bỏ ra 1m để mở rộng đường
tổ và chia đôi mỗi người được 10m để sử dụng, sau đó phần của ông H3 (anh ruột
của ông T) chia đôi với ông T mỗi người 5m. Phần đất của ông L sử dụng thì giáp
ranh với ông T. Khi nhận chuyển nhượng, ranh giới phân chia đất được các bên
làm hàng rào dây kẽm gai. Đến năm 2000, ông L ông T thống nhất xây tường
rào chung, cao khoảng 1,2m, hàng rào này vợ chồng ông L, bà H và vợ chồng ông
T, L2 cùng bỏ tiền chung nhau để xây, tường rào này đã ổn định từ năm 2000
đến nay, không ai tranh chấp. Đến khoảng năm 2007-2009, thì ông L bỏ tiền riêng
xây cao thêm 50cm, lúc xây hàng rào cao thêm phía ông T, L2 cũng không
ý kiến gì.
3
Đến năm 2022, Nhà nước chính sách mở rộng đường tỉnh lộ 328 giai đoạn
2 đi qua H, Nhà nước có chủ trương đo đạc lại, vợ chồng ông L mới phát hiện
ra diện tích đất ông L sử dụng cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông Phạm Văn
T và Nguyễn Thị Kim L2, cụ thể là phần diện tích đất 77,9m
2
thuộc thửa đất số
331, 887, tờ bản đồ số 10 (bản đồ số hóa năm 2005). Trong đó bao gồm diện tích
đất thu hồi 14,5m
2
thuộc thửa đất số 887, tờ bản đồ số 10 (bản đồ số hóa năm
2005) và diện tích đất không thu hồi là 63,4m
2
thuộc thửa đất số 887, tờ bản đồ số
10 (bản đồ số hóa năm 2005). Diện tích đất bị thu hồi ở phía trên giáp đường tỉnh
lộ, còn diện tích đất hiện nay không thu hồi nằm phía dưới; đều thuộc phần đất
tranh chấp.
Thời điểm kiểm kê đất thu hồi thì diện tích đất 14,5m
2
ông L và H đang
sử dụng, trên đất một phần hàng rào móng đá, sân lát xi măng, cống, nhà tạm
móng đá, sân xi măng. Toàn bộ tài sản đều do ông L bà H xây dựng. Hiện trạng
hiện nay đã bị quan nhà nước tháo dỡ để thu hồi làm đường. Còn phần diện ch
còn lại 63,4m
2
hiện nay vợ chồng sử dụng ổn định, không tranh chấp trong 20
năm qua. Toàn bộ tài sản trên diện tích đất này đều do vợ chồng ông L tạo lập.
Trong quá trình giải quyết vụ án, vợ chồng ông L yêu cầu Tòa án giải quyết
buộc ông Phạm Văn TNguyễn Thị Kim L2 trả lại diện tích đất là 63,4m
2
thuộc
một phần thửa số 331 tờ bản đồ số 10 (bản đồ 2005), tương ứng với một phần thửa
đất số 186, tờ bản đồ số 39 (bản đồ số hóa năm 2020) H, huyện X, tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu. Đồng thời giải quyết cho vợ chồng ông L được nhận số tiền bồi thường
đối với diện tích đất 14,5m
2
thuộc thửa đất số 887, tờ bản đồ số 10 28.354.750đ,
theo Quyết định số 5252/-UBND ngày 04/10/2022 của UBND huyện X.
Tại phiên tòa, ông L, bà H có đơn xin thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện:
- Yêu cầu Tòa án công nhận cho vợ chồng ông L được quyền sử dụng hợp
pháp đối với diện tích đất 63,4m
2
, thuộc một phần thửa số 331 tờ bản đồ số 10 (bản
đồ 2005), tương ứng với một phần thửa đất số 186, tờ bản đồ số 39 (bản đồ số hóa
năm 2020) xã H, huyện X, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Đồng thời giải quyết cho vchồng ông L được nhận số tiền bồi thường đối
với diện tích đất 14,5m
2
thuộc thửa đất số 887, tờ bản đồ số 10 28.354.750đ,
theo Quyết định số 5252/QĐ-UBND ngày 04/10/2022 của UBND huyện X.
2. Quá trnh tham gia t tụng tại Tòa án, ông Phạm Quc H4 người đại
diện theo ủy quyền của bị đơn – ông Phạm Văn T, bà Lê Thị Xuân H trình bày:
Ông H4 con ruột của ông T L2. Hiện nay ông T L2 đang sử
dụng thửa đất diện tích 245m
2
, thuộc thửa số 331, 887 tờ bản đồ 10 tọa lạc tại
ấp B, H (trong đó 50m
2
đất thổ 126m
2
đất nông nghiệp). Đã được điều
chỉnh sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 05/9/2013 cho ông T
L2. Ngày 05/9/2022, Nhà nước đã thu hồi 26,5m
2
thuộc thửa 887 và 0,6m
2
thuộc thửa 331 để mở rộng Tỉnh lộ 328. Nguồn gốc thửa đất này cha mẹ ông nhận
chuyển nhượng của bà Ngô Thị N.
4
Ông Nguyễn L sử dụng đất giáp ranh với bị đơn, phần đất ông L đang sử
dụng cũng nhận chuyển nhượng từ N. Sau khi bị đơn nhận chuyển nhượng đất
thì cùng ông L bỏ đất chung và chung tiền để làm hàng rào hơn 20 năm nay, hàng
rào hiện nay vẫn đang còn. Hiện nay trên thực tế hàng ranh các bên đã sử dụng ổn
định không tranh chấp. Nguyên nhân ông L khởi kiện phía bị đơn ông L
cho rằng diện tích đất bđơn được cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất
nhiều hơn đất thực tế mà bị đơn đang sử dụng. Khi mở rộng đường C thì mới phát
sinh tranh chấp. Tại biên bản hòa giải tranh chấp đất đai của UBND xã H, nguyên
đơn xác định không tranh chấp ranh giới hiện hữu với bị đơn. Biên bản hòa giải
tranh chấp đất đai do UBND H lập không đúng với nội dung tại buổi hòa giải
nên bị đơnkhông đồng ý. Văn bản này các bên không phải kí vào ngày 13/3/2023
mà kí sau ba ngày hòa giải.
Nay bị đơn không đồng ý với toàn byêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,
cho rằng đất các bên đã sử dụng ổn định trên 20 năm không tranh chấp, việc
nguyên đơn khởi kiện bị đơn là không có cơ sở.
Đến ngày 13/5/2024, ông T L2 nộp đơn yêu cầu phản t với nội
dung:
Vào khoảng năm 1993, vợ chồng ông T liên hệ mua đất của bà Ngô Thị
N, nhưng lúc đó chưa sổ đỏ nên hai bên chỉ hợp đồng giấy tay. Đến ngày
07/9/2010 thì Ngô Thị N được UBND huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BC 475780, số vào sổ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH
00013 -2940/QĐ-UBND, các thửa đất số 331, 887 tờ bản đồ số 10, tổng diện tích
421m², đất tọa lạc tại H, huyện X, tỉnh Rịa - Vũng Tàu. Ngày 13/8/2013,
thực hiện theo Quyết định số 2924/QĐ-UBND ngày 13/8/2013 của UBND huyện
X đã tách thửa đất số 331, 887 tờ bản đồ số 10 thành 03 thửa đất mới là thửa 1073,
diện tích 176m² (TC: 50m², CLN: 126m²), thửa 331 còn lại diện tích 195m² (TC:
50m², CLN: 145m²), thửa 887 còn lại diện tích: 50m² đất lộ giới Tổng diện tích
421m² (TC: 100m², CLN: 321m²).
Ngày 14/08/2013, vợ chồng ông T mới cùng bà Ngô Thị Ngọc K hợp đồng
chuyển nhượng tại văn phòng C1.
Đến ngày 05/9/2013 thì vợ chồng ông T được cập nhật chỉnh lý sang tên tại
trang 4 với nội dung: Chuyển nhượng quyền sdụng đất hết diện tích cho ông
Phạm Văn T Nguyễn Thị Kim L2, phần diện tích nhận chuyển nhượng 245m²
(TC: 50m², NN: 195 m²) thửa 331, 887 tờ bản đồ số 10 thuộc Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BC 475780 cấp ngày 07/9/2010.
Ngày 22/9/2022, Nhà nước thu hồi 26,5m² đất thuộc thửa 887 và 0,6m² đất
NN thuộc thửa 331 để nâng cấp mở rộng Tỉnh lộ 328. Nên diện tích còn lại
217,9m².
Hiện nay, sau khi đo vẽ lại thửa đất thì ông T bà L2 mới phát hiện rằng ông
Nguyễn L Thị Xuân H được sử dụng thửa đất 266, tờ bản đồ s39 với
diện tích 312,4m² (theo bản đồ năm 2020), nhưng trên thực tế ông L và H lại sử
5
dụng diện tích đất là 394,5m². Sự chênh lệch diện tích khoảng 82,1m², trong phần
diện tích này có 62,1m² thuộc thửa 331, 887 tờ bản đồ số 10 đã được cấp giấy
Chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 475780 ngày 07/9/2010 cho ông bà. Việc
ông L và bà H chiếm giữ 62,1m² thuộc thửa 331, 887 tờ bản đồ số 10 đã được cấp
giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 475780 ngày 07/9/2010 cho ông T, bà
L2 là trái pháp luật, không có căn cứ.
Tại đơn phản tố, bị đơn ông T, bà L2 yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn L
Thị Xuân H phải trả lại cho ông T, L2 diện tích đất 62,1m
2
thuộc
thửa đất số 331, 887 tờ bản đồ số 10, đã được Ủy ban nhân dân huyện X cấp Giấy
chứng nhận quyền sdụng đất số BC 475780 ngày 07/9/2010, cập nhận biến động
ngày 05/9/2013 cho ông T, bà L2.
Tuy nhiên tại phiên tòa, bị đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu phản tố nsau:
Yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn L và bà Thị Xuân H phải trả lại cho ông T,
L2 diện tích đất là 63,4m
2
thuộc thửa đất số 331, 887 tờ bản đồ số 10, đã được
Ủy ban nhân dân huyện X cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 475780
ngày 07/9/2010, cập nhật biến động ngày 05/9/2013 cho ông T, L2. Buộc
nguyên đơn phải tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng và di dời cây trồng trên đất
để hoàn trả lại phần đất trên cho ông T, L2. Đồng thời yêu cầu được sử dụng
bức tường chung là ranh giới trên đất hiện nay, bức tường này do vợ chồng bà L2,
ông T ông L, H cùng xây dựng nên sẽ hoàn trả lại giá trị ½ bức tường trên
cho ông L, bà H.
3. Tại Công văn s 514/UBND-ĐC ngày 11/4/2024, người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan UBND xã H, huyện X có ý kiến:
Diện tích đất tranh chấp 63,4m² là phần đất chồng lấn giữa hồ địa chính
và hiện trạng sử dụng đất thực tế của 02 hộ dân ông Nguyễn L, Lê Thị Xuân H
ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2. Ranh giới hiện trạng đất giữa ông
Nguyễn L, Thị Xuân H và ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2 đã ổn
định.
Ngày 10/02/2023, UBND nhận được hồ đề nghị giải quyết tranh
chấp đất đai của hộ dân ông Nguyễn L, Thị Xuân H đối với diện tích tranh
chấp một phần thửa đất số 186 tờ bản đồ số 39 (bản đnăm 2020). Từ thời điểm
12/02/2023 trở về trước, UBND xã không ghi nhận việc tranh chấp quyền sử dụng
đất giữa ông Nguyễn L, Thị Xuân H ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị
Kim L2.
Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn L vào ngày
11/6/2021 không bao gồm diện tích đất tranh chấp nêu trên là do sai sót trong
công tác đo đạc, tách thửa đối với thửa đất số 331 tờ bản đồ số 10 (bản đồ ) để
thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Ngô Thị N với ông
Nguyễn L và ông Phạm Văn H3 (anh ông Phạm Văn T). Trên sở kết quả tách
thửa chuyển quyền sdụng đất trên, đến năm 2020 tổ chức đo đạc sở dliệu
đất đai và thành lập bản đồ mới 2020, ông Nguyễn L đã thực hiện thủ tục cấp đổi
giấy Chứng nhận theo quy định (có ký đơn cam kết) và UBND đã thực hiện thủ
6
tục cấp đổi giấy Chứng nhận cho ông Nguyễn L theo hồ sơ địa chính qua các thời
kỳ; Từ những nguyên nhân trên dẫn đến việc hồ sơ địa chính và hiện trạng sử dụng
đất của hộ ông Nguyễn L, Thị Xuân H không trùng khớp. Do đó, Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn L vào ngày 11/6/2021 không bao
gồm diện tích đất nêu trên.
Đối với phần diện tích thu hồi 14,5m² trước khi thu hồi, giải phóng mặt bằng
phục vụ Công trình: nâng cấp, mở rộng tỉnh lộ 328 giai đoạn 2 (đoạn qua H)
hiện trạng đất do ông Nguyễn L, Thị Xuân H trực tiếp sử dụng pháp
thuộc giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị
Kim L2 đứng tên; vị trí đất thu hồi thuộc phần chồng lấn giữa hai hộ ông Nguyễn
L, bà Lê Thị Xuân H và ông Phạm Văn T, bà Nguyễn Thị Kim L2.
4. Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trung tâm phát triển quỹ đất huyện
X: Công văn số 154/TTPTQĐ ngày 07/3/2024 cung cấp các tài liệu liên quan,
đồ vị trí đất bồi thường đối với diện tích 14,5m
2
, thuộc thửa đất số 39, tờ bản đồ s
186 xã H.
5. Người làm chứng trnh bày:
5.1. Bà Ngô Thị N trình bày:
Bà N và ông Nguyễn L, bà Lê Thị Xuân H và ông Phạm Văn T, bà Nguyễn
Thị Kim L2 không có mối quan hệ gì, bà chỉ chuyển nhượng đất cho ông L, bà H
và ông H3 (anh ruột của ông T, bà L2).
Năm 1998, N chuyển nhượng đất cho ông L, bà H ông H3 22m
chiều ngang đất tại ấp B, H, thửa đất hiện nay đang tranh chấp. Ông L, H,
ông H3 mua chung tchia nhau sử dụng. Ông H3 không đủ tiền nên chuyển
nhượng lại cho ông T, L2 sử dụng. Sau này ông L, H, ông H3 ông T,
L2 chia nhau sử dụng mỗi người bao nhiêu mét thì bà không nhớ rõ. Sau này ông
L, bà H và ông T, bà L2 tự đi làm thủ tục tách thửa cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhờ đi hợp đồng chuyển nhượng, thời gian đã quá lâu rồi,
chuyển nhượng cho ai bao nhiêu mét vuông tkhông nhớ. Thời điểm đi làm
thủ tục tách thửa thì các bên không tiến hành đo đạc lại trên thực tế.
Năm 1998, sau khi chuyển nhượng xong thì ông L, H ông T, L2
làm nsử dụng ổn định cho tới nay. Vách tường ranh giới đất giữa ông L,
H ông T, L2 do hai gia đình ông L, bà H và ông T, bà L2 xây dựng cũng hơn
20 năm rồi, thời gian cụ thể không nhớ. Từ năm 1998 đến nay hai gia đình sử
dụng đất không phát sinh tranh chấp gì, hiện tại vách tường xây ranh giới đất
vẫn còn, ranh giới hiện trạng không ai tranh chấp chỉ tranh chấp trên sổ đỏ. Bà chỉ
biết do nhầm lẫn diện tích đất bên sổ đnên ông L muốn chỉnh lại sổ đỏ nhưng
ông T, L2 không đồng ý nên mới tranh chấp, thời gian các bên phát sinh tranh
chấp cũng mới từ khi ông L đi làm thủ tục cấp đổi số liệu, ông L mới phát hiện ra
sai sót trên giấy tờ.
7
Đất bà N đã chuyển nhượng lâu rồi, bà N không có yêu cầu gì. Việc ông L,
H ông T, L2 tranh chấp thì tự giải quyết với nhau. N không liên
quan gì.
5.2. Ông Phạm Văn H3 trình bày:
Ông T em ruột của ông H3, L2 em dâu, còn ông L, bà H hàng xóm
láng giềng. Vào năm 1998, bà Ngô Thị N nhu cầu bán đất, nên ông H3 và ông
L liên hệ hỏi mua, lúc đó ông T, bà L2 biết nên xin mua chung. Thời điểm đó lâu
rồi nên ông T, bà L2 ông L, bà H mỗi người mua bao nhiêu mét thì ông H3
không nhớ rõ. Ông H3 chỉ nhớ sau khi mua xong thì ông H3ông L, H, ông
T, bà L2 kéo hàng ranh bằng dây kẽm gai sử dụng ổn định từ năm 1998 đến nay
không phát sinh tranh chấp. Nhà ông H3 sát ranh đất của ông T, L2 cũng ổn
định không tranh chấp. Về sau, hộ ông T, L2 và ông L, H thỏa thuận xây
dựng bức tường chung làm ranh giới, cụ thể ai bỏ tiền xây dựng bức tường này thì
ông không biết. Bức tường này đã tồn tại rất lâu rồi.
6. Tại Bản án dân sự sơ thẩm s 81/2024/DS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quyết định:
6.1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn L,
Lê Thị Xuân H đối với bị đơn ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2 về việc
Tranh chấp quyền sử dụng đất và tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng”.
6.2. Công nhận cho ông Nguyễn L, bà Lê Thị Xuân H được quyền sử dụng
hợp pháp diện tích đất 63,4m
2
thuộc thửa đất số 186, tờ bản đồ số 39 (bản đồ số
hóa năm 2020), tương ứng với một phần thửa đất số 331, tờ bản đồ số 10 (bản đồ
số hóa năm 2005). Vị trí diện tích đất nói trên thuộc lô B có toạ độ 1-2-3-4-1, theo
Mảnh trích đo điạ chính (Phục vụ giải quyết tranh chấp) do Chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai huyện X lập ngày 23/01/2024.
Ông Nguyễn L, Thị Xuân H được quyền liên hệ với quan Nhà nước
thẩm quyền đđăng chỉnh lý, điều chỉnh biến đối với diện tích đất 63,4m
2
nêu trên theo quy định của pháp luật.
Buộc ông Phạm Văn T Nguyễn Thị Kim L2 phải giao Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để chỉnh lý, đăng ký
biến động theo hướng giảm diện tích đất 63,4m
2
nêu trên theo quy định của pháp
luật. Trường hợp ông Phạm Văn T Nguyễn Thị Kim L2 không tự nguyện
giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quan nhà nước thẩm quyền được
quyền căn cứ Bản án của Tòa án để chỉnh lý, đăng ký biến động theo quy định của
pháp luật.
6.3. Ông Nguyễn L, Thị Xuân H được quyền liên hệ với quan
thẩm quyền để nhận số tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng 28.354.750đ
(Hai mươi tám triệu, ba trăm năm mươi bn nghn, bảy trăm năm mươi đồng), theo
Quyết định số 5252/QĐ-UBND ngày 04/10/2022 của UBND huyện X.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo.
8
7. Nội dung kháng cáo:
Ngày 30 tháng 7 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận được
đơn kháng cáo của bị đơn - ông Phạm Văn T Nguyễn Thị Kim L2 nội
dung yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
8. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các đương sự không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới; nguyên đơn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và yêu cầu phản
tố.
9. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu
phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại phiên tòa, Thẩm phán,
thành viên Hội đồng xét xử những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật
Tố tụng Dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn T
Nguyễn Thị Kim L2 giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 81/2024/DS-ST ngày
18/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên; Hội
đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Đơn kháng cáo của ông Phạm Văn T và Nguyễn Thị Kim L2 đảm bảo
đúng thủ tục, nội dung và nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273
của Bộ luật Tố tụng dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem
xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị Kim L2
thì thấy:
[2.1] Xác định diện tích đất tranh chấp:
Căn cứ vào yêu cầu của đương sM trích đo địa chính của Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đất đai huyện X lập ngày 23/01/2024 đủ cơ sở đxác định:
Diện tích đất tranh chấp là 63,4m
2
ký hiệu lô B có toạ độ (1, 2, 3, 4, 1) thuộc một
phần của thửa đất số 186, tờ bản đồ số 39 (bản đồ số hóa năm 2020), tương ứng
với một phần thửa đất số 331, tờ bản đồ số 10 (bản đồ số hóa năm 2005) diện
tích đất 14,5 m
2
đã bị thu hồi tại Quyết định 5252/QĐ-UBND ngày 04/10/2022 của
UBND huyện X được đền bù 28.354.750 đồng.
9
Căn cứ vào Biên bản thẩm định xem xét tại chỗ ngày 19/12/2023 của Tòa
án nhân dân huyện Xuyên Mộc thì tài sản trên đất tranh chấp gồm : Bức tường
gạch làm ranh giới, có 04 chòi tạm xây gạch không tô, mái tôn, nền xi măng, mái
che lợp tôn, trụ sắt và có một số cây như: phát tài, tùng bách, cau, xanh.
[2.2] Xác định ranh giới giữa thửa đất số 266, tbản đồ số 39 (hiện do
nguyên đơn đang sử dụng) thửa đất số 186, tbản đsố 39 (hiện do bị đơn đang
sử dụng) thì thấy:
Theo ghi nhận tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 07/6/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc sự thừa nhận của các đương sự thì: Giáp
ranh của hai thửa đất của nguyên đơn, bị đơn tồn tại một bức tường rào làm ranh
giới. Bức tường này nguyên đơn, bị đơn góp tiền chung để xây, ban đầu xây khoảng
năm 2000 - 2001 cao khoảng 1,2m đến 1,3m; đến năm 2006-2007, thì ông L, bà H
bỏ tiền nối cao thêm khoảng 50cm đến năm 2019-2020, ông T, bà L2 bỏ tiền
nối cao thêm đkhông bị nước mưa vào nhà. Việc nguyên đơn, bị đơn lần lượt xây
nối thêm tường rào thì bên còn lại đều biết và không có ý kiến phản đối.
Đồng thời, trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm, nguyên đơn -
ông L, H, người làm chứng ông Phạm Văn H3, Ngô Thị N ng xác nhận:
Vào năm 1998, ông L, ông H3 cùng nhận chuyển nhượng đất của Nguyễn Thị
Ngọc C ngang 22m; ông H3 cho ông T, bà L2 mua chung. Sau khi được N
giao đất, tcác bên phân chia ranh giới bằng hàng dâm bụt, dây kẽm gai. Đến năm
2000 2001 thì xây tường gạch chung làm ranh giới ngăn cách hai thửa đất. Các
ông, sử dụng theo ranh giới được xác lập từ năm 1998 đến nay không ai tranh
chấp về tranh giới. Điều này cũng phù hợp với lời khai của ông Phạm Quốc H4
con ruột của ông T, bà L2, cũng là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn tại cấp
sơ thẩm về chung tiền để xây hàng rào và hai gia đình đã sử dụng đúng ranh giới,
không có tranh chấp hơn 20 năm.
Mặt khác, tại công văn số 514/UBND-ĐC ngày 11/4/2024 của UBND xã H
cũng xác định ranh giới trên thực tế của nguyên đơn, bị đơn đã sử dụng ổn định từ
trước đến nay không có tranh chấp việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
có sai sót do công tác đo đạc, tách thửa.
Như vậy đủ sở xác định, ranh giới giữa hai thửa nguyên đơn bị đơn
sử dụng đã được chính vợ chồng ông L và vợ chồng bà L2 thỏa thuận xác lập trên
20 năm, các bên đã sử dụng ổn định. Khi xây dựng tường rào thì nguyên đơn, bị
đơn cùng xây dựng và thống nhất ranh giới. Quá trình sử dụng thửa đất thì không
có tranh chấp đối với ranh giới này. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật
dân sự 2015 “Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa
thuận hoặc theo quyết định của quan nhà nước thẩm quyền” thì đủ căn
cứ để Hội đồng xét xử xác định: Ranh giới giữa thửa đất của gia đình nguyên đơn
và thửa đất của gia đình bị đơn là bức tường rào hiện hữu hiện nay.
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn thì thấy:
[2.3.1] Phần đất tranh chấp 63,4m
2
:
10
Trên phần đất tranh chấp 63,4m
2
được ông L, bà H trực tiếp quản , sdụng
xây dựng 04 chòi tạm xây gạch không tô, mái tôn, nền xi măng, mái che lợp
tôn, trụ sắt và một số cây như: phát tài, ng bách, cau, xanh. Phần diện tích đất
này nằm trong ranh giới bức tường rào gạch đã được các bên xác lập từ năm 2000
nằm bên phía thửa đất của gia đình nguyên đơn. Do đó, việc sử dụng đất của
ông L, bà H là sử dụng đúng ranh giới đã được các bên thỏa thuận thiết lập từ năm
1998 và phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 175 Bộ luật dân sự 2015 quy định
“Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng
từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm
ảnh hưng đến việc sử dụng đất của người khác”.
Mặt khác, theo công văn số 514/UBND-ĐC ngày 11/4/2024 của UBND H thì
Việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Nguyễn L o ngày
11/6/2021 không bao gồm diện tích đất tranh chấp nêu trên là do có sai sót trong
công tác đo đạc, tách thửa đi với thửa đất s 331 tờ bản đồ s 10 (bản đồ cũ) để
thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Ngô Thị N với ông
Nguyễn L ông Phạm Văn H3 (anh ông Phạm Văn T). Trên s kết quả tách
thửa chuyển quyền sử dụng đất trên, đến năm 2020 tổ chức đo đạc s d
liệu đất đai thành lập bản đồ mới 2020, ông Nguyễn L đã thực hiện thủ tục cấp
đổi giấy Chứng nhận theo quy định (có ký đơn cam kết) và UBND xã đã thực hiện
thủ tục cấp đổi giấy Chứng nhận cho ông Nguyễn L theo hồ sơ địa chính qua các
thời kỳ; từ những nguyên nhân trên dẫn đến việc hồ sơ địa chính và hiện trạng sử
dụng đất của hộ ông Nguyễn L, bà Thị Xuân H không trùng khớp”. Điều này
hoàn toàn phù hợp với lời xác nhận của bà Lê Thị Kim L3 tại phiên tòa “Vào năm
2013, th thửa đất 331 được tách ra trên giấy tờ, không đi đo đạc thực tế và khi ký
chuyển nhượng tại Phòng công chứng th giữa N vợ chồng L3 cũng không
tiến hành bàn giao đất thực tế”. Do đó, căn cứ để xác định giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BC 475780 cấp cho bị đơn L3, ông T không đúng với
thực tế sử dụng đất, không đúng với ranh giới đã được gia đình nguyên đơn và bị
đơn xác lập tnăm 1998, nên không căn cứ để dựa vào Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BC 475780 ngày 07/9/2010 làm sở xác định cho L3, ông T
được sử dụng hợp pháp phần diện tích đất tranh chấp.
Từ những nhận định trên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông L, H; công nhận cho ông L, H được quyền sử dụng diện tích đất
tranh chấp 63,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 331 tờ bản đồ số 10 (bản đồ số
hóa 2005), tương ứng với một phần thửa đất số 186, tờ bản đồ 39 (bản đồ số hóa
năm 2020) là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
[2.3.2] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn buộc nguyên đơn tháo dỡ toàn bộ
công trình, kiến trúc và di dời cây trồng trên đất tranh chấp thì thấy:
Như đã phân tích trên, nguyên đơn ông L, H quyền sử dụng hợp
pháp diện tích đất đang tranh chấp 63,4m
2
; do đó yêu cầu phản tố của bị đơn ông
T, bà L3 là không có cơ sở để chấp nhận.
[2.3.3] Đối với số tiền bồi thường 28.354.750 đồng:
11
Tại Quyết định số 5252/QĐ-UBND ngày 04/10/2022 thì phần diện tích đất
tranh chấp bị thu hồi là 14,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 186 (887) tờ bản đồ số
39 (10) xã H, kinh phí bồi thường 28.354.750đ (hai mươi tám triệu, ba trăm năm
mươi bốn nghìn, bảy trăm năm mươi đồng).
Theo hồ sơ do Trung tâm Phát triển Quỹ đất huyện X cung cấp thì phần diện
tích đất này thời điểm thu hồi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông T, L3, nhưng ông L, H người thực tế sử dụng. Theo công văn số số
514/UBND-ĐC ngày 11/4/2024 của UBND H cũng xác định Đi với phần diện
tích thu hồi 14,5m² trước khi thu hồi, giải phóng mặt bằng phục vụ Công trnh:
nâng cấp, m rộng tỉnh lộ 328 giai đoạn 2 (đoạn qua xã H) hiện trạng đất do ông
Nguyễn L, bà Lê Thị Xuân H trực tiếp sử dụng và pháp lý thuộc giấy Chứng nhận
quyền sử dụng đất do ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2 đứng tên; vị trí
đất thu hồi thuộc phần chồng lấn giữa hai hộ ông Nguyễn L, Lê Thị Xuân H
ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2”. Đồng thời, phần diện tích 14,5m
2
nằm
trong ranh giới bức tường rào gạch đã được các bên xác lập (nằm về thửa đất của
gia đình nguyên đơn đang trực tiếp sử dụng từ năm 2000).
Do đó, có cơ sở để xác định ông L, bà H là người sử dụng đất hợp pháp đối
với diện tích đất 14,5m
2
. Nay phần diện tích đất này bị thu hồi, nên Tòa án cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để tuyên cho nguyên đơn được
quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để nhận số tiền bồi thường 28.354.750đ
(Hai ơi tám triệu, ba trăm năm mươi bốn nghìn, bảy trăm m mươi đồng) là
phù hợp.
[3] Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp
nhận, nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu chi phí tố tụng là phù hợp.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được
chấp nhận, nên Tòa án cấp thẩm buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự thẩm
không có giá ngạch là phù hợp.
Từ những phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn Tbà Nguyễn Thị Kim L2; giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận, nên ông T, bà L2 phải chịu án phí là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Văn T bà Nguyễn
Thị Kim L2;
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số 81/2024/DS-ST ngày 18/7/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc; cụ thể như sau:
12
Áp dụng: Điều 175 Bộ luật Dân s2015; Điều 166, 170, 203 Luật Đất đai
2013; Điều 133, 152 Luật Đất đai 2024; Điều 26, 27, 29 Nghị quyết 326/2016/NQ-
UBTNQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí
Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn L, bà
Thị Xuân H đối với bị đơn ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2 về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất và tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng”;
1.1. Công nhận cho ông Nguyễn L, bà Lê Thị Xuân H được quyền sử dụng
hợp pháp diện tích đất 63,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 186, tờ bản đồ số 39
(bản đồ số hóa năm 2020), tương ứng với một phần thửa đất số 331, tờ bản đồ số
10 (bản đồ số hóa năm 2005). Vị trí diện tích đất nói trên thuộc B toạ độ 1-2-
3-4-1, theo Mảnh trích đo địa chính (phục vụ giải quyết tranh chấp) do Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện X lập ngày 23/01/2024.
Ông Nguyễn L, bà Thị Xuân H được quyền liên hệ với quan nhà nước
thẩm quyền đchính biến động đối với diện tích đất 63,4m
2
nêu trên theo quy
định của pháp luật.
1.2. Buộc ông Phạm Văn T Nguyễn Thị Kim L2 phải giao bản chính
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số BC 475780 do Ủy ban nhân dân huyện X cấp ngày 07/9/2010, cập nhật
biến động chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị
Kim L2 ngày 05/9/2013 cho quan nhà nước thẩm quyền để chỉnh biến
động theo hướng giảm diện tích đất 63,4m
2
nêu trên theo quy định của pháp luật.
Trường hợp ông Phạm Văn T và Nguyễn Thị Kim L2 không tự nguyện giao
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tquan nhà nước thẩm quyền được
quyền n cứ Bản án của Tòa án để thực hiện chỉnh biến động theo quy định của
pháp luật.
1.3. Ông Nguyễn L, Thị Xuân H được quyền liên hệ với quan
thẩm quyền để nhận số tiền bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng 28.354.750đ
(Hai mươi tám triệu, ba trăm năm mươi bn nghn, bảy trăm năm mươi đồng), theo
Quyết định số 5252/QĐ-UBND ngày 04/10/2022 của Ủy ban nhân dân huyện X.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Phạm Văn T Nguyễn Thị Kim L2 phải
hoàn trả cho ông Nguyễn L, bà Lê Thị Xuân H chi phí tố tụng là 7.222.053đ (Bảy
triệu, hai trăm hai mươi hai nghn, không trăm năm mươi ba đồng).
3. Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ
ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
13
4. V án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2 phải nộp án phí dân s thẩm
là 300.000đ (Ba trăm nghn đồng).
Hoàn trả cho ông Nguyễn L, Thị Xuân H số tiền tạm ứng án phí đã
nộp là 467.500đ (Bn trăm sáu mươi bảy nghn, năm trăm đồng), theo biên lai thu
số 0011860 ngày 12/5/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Phạm Văn T, Nguyễn Thị Kim L2 phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn
đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên
lai thu tiền số 0000957 ngày 30/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân shuyện
Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ông T, bà L2 đã nộp đủ.
6. Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
21/01/2025)
7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quyền thỏa thuận thi hành án,
quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu Thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
(Kèm theo M trích đo địa chính (phục vụ giải quyết tranh chấp) do Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện X lập ngày 23/01/2024).
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh BR-VT;
- VKSND huyện Xuyên Mộc;
- CCTHADS huyện Xuyên Mộc;
- TAND huyện Xuyên Mộc;
- Lưu: Hồ sơ, Tòa DS, VP.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Cao Xuân Long
Tải về
Bản án số 22/2025/DS-PT Bản án số 22/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2025/DS-PT Bản án số 22/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất