Bản án số 129/2025/DSPT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 129/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 129/2025/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 129/2025/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 129/2025/DSPT ngày 25/03/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
Số hiệu: | 129/2025/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 129/2025/DS-PT
Ngày 25 – 3– 2025
Về việc tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Hoàng Thị Hải Hà
Bà Châu Minh Hoàng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Bằng – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Phạm Văn Hùng – Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 553/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng 12
năm 2024 về việc yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 259/2024/DS-ST ngày 30 tháng 09 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 61/2025/QĐ-PT ngày
06 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1939.
Địa chỉ: Ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Hồ Văn K, sinh năm
1983 (Văn vản uỷ quyền ngày 26/02/2021) (có mặt)
Địa chỉ: Khóm H, thị trấn C, huyện P, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Ngô Đức B –
Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh C (có mặt)
- Bị đơn:
1/ Bà Nguyễn Hồng T, sinh năm 1970.
2/ Ông Nguyễn Như B1, sinh năm 1989 (vắng mặt)
3/ Ông Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1994 (vắng mặt)
4/ Bà Nguyễn Như Ý, sinh năm 1995
Cùng địa chỉ: Ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
5/ Ông Nguyễn Trường A1, sinh năm 1992.
Địa chỉ: Ấp Đồng Tâm A, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau.
2
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Hồng T, bà Nguyễn Như Ý,
ông Nguyễn Trường A1 là: Ông Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1975. (Văn vản uỷ
quyền ngày 24/3/2021), (có mặt)
Địa chỉ: Khóm B, thị trấn C, huyện P, tỉnh Cà Mau.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Bà Nguyễn Ngọc Đ1, sinh năm 1970 (có mặt)
2/ Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1967 (có mặt)
3/ Bà Võ Kim Ú, sinh năm 1967 (có mặt)
4/ Bà Nguyễn Phương A2, sinh năm 1990 (có mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
5/ Ông Lương Quốc L1, sinh năm 1988 (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện P, tỉnh Cà Mau.
6/ Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Cà Mau (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp C, xã N, huyện P, tỉnh Cà Mau.
7/ Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau (vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp V, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
8/ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P (vắng mặt)
Địa chỉ: Khóm B, thị trấn C, huyện P, tỉnh Cà Mau.
Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị L là nguyên đơn trong vụ án, ông Nguyễn
Trường A1 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 05/3/2021, người đại diện theo uỷ quyền của nguyên
đơn ông Hồ Văn K trình bày:
Năm 1981 Nhà nước cấp cho bà Nguyễn Thị L phần đất diện tích 7.860m
2
tại ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau theo chính sách người có công với cách mạng
(chồng bà là liệt sĩ, bà là thương binh 4/4). Năm 1995 ông Nguyễn Văn G (Nguyễn
Trường G1) là con ruột làm thủ tục giả đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Ngày 11/8/1995 UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
(CNQSD) đất cho ông G1 diện tích 7.860m
2
theo giấy chứng nhận số E0623190
thuộc thửa số 826 tờ bản đồ số 02. Năm 2016 ông G1 chết không để lại di chúc.
Ngày 24/10/2018 ông A1 nộp hồ sơ giả để nhận thừa kế quyền sử dụng đất của
ông G1 và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P xác nhận chỉnh lý
giấy CNQSD đất của ông G1 để thừa kế lại cho ông A1 theo hồ sơ
000001.TK.001. Hiện phần đất trên do vợ ông G1 là bà T và các con của ông G1 là
ông Như B1, ông Trường A1, ông Tuấn A, bà Như Ý đang quản lý, sử dụng.
Bà yêu cầu: Huỷ Giấy CNQSD đất của ông G1 được UBND huyện C cấp
phần đất diện tích 7.860m
2
theo giấy chứng nhận số E0623190 thuộc thửa số 826
tờ bản đồ số 02 toạ lạc tại ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau. Buộc bà T, ông Như
B1, ông Trường A1, ông Tuấn A, bà Như Ý trả lại cho bà phần đất diện tích
7.860m
2
toạ lạc tại ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau.
3
Ngày 28/9/2021 nguyên đơn có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện: Yêu cầu
chia thừa kế theo pháp luật quyền sử dụng đất 7.860m
2
theo giấy chứng nhận số
E0623190 thuộc thửa số 826 tờ bản đồ số 02 toạ lạc tại ấp R, xã P, huyện P, tỉnh
Cà Mau. Yêu cầu chia cho bà L phần đất diện tích 1.310m
2
. Do bà L đã bồi đắp,
xây dụng nhà, trồng cây lâu năm và đã ở ổn định từ năm 1987 đến nay nên phần
đất là di sản thừa kế do ông G1 để lại nên yêu cầu Toà án giải quyết chia cho bà L
phần đất bà L đã bồi đắp, cất nhà, trồng cây lâu năm trên đó và giữ nguyên hiện
trạng.
Tại phiên toà ngày 19/3/2024 đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình
bày: Yêu cầu công nhận thửa số 698 diện tích 897,5m
2
theo trích đo hiện trạng của
Công ty TNHH P ngày 18/4/2022 là của bà L (hiện bà L đang quản lý, cất nhà ở
trên đất). Yêu cầu chia thừa kế đối với thửa số 500 diện tích 6.872,6m
2
.
Tại Văn bản ngày 11/7/2024 đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình
bày: Yêu cầu chia thừa kế phần đất diện tích 7.860m
2
theo Giấy CNQSD đất cấp
cho ông Nguyễn Văn G số E0623190 thuộc thửa số 826 tờ bản đồ số 02 toạ lạc tại
ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau. Thống nhất với kết quả đo đạc và không yêu cầu
định giá.
Tại biên bản hòa giải ngày 23/9/2022, biên bản hòa giải ngày 08/8/2024 và
các văn bản khác người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn - ông Nguyễn Ngọc Đ
trình bày: Phần đất do chính quyền địa phương trang trãi cho hộ gia đình liệt sĩ
ông Nguyễn Công T1, ông T1 là chồng bà L đã hi sinh khi tham gia cách mạng.
Phần đất này không liên quan đến công sức tạo lập của ông T1, không phải là tài
sản chung giữa ông T1 và bà L, cũng không phải di sản do ông T1 chết để lại. Bà T
và ông G chung sống năm 1988 nhưng không đăng ký kết hôn. Đến năm 1990 thì
bà L tặng cho bà T và ông G phần đất này để canh tác, cất nhà trên đất và sinh
sống cho đến nay. Khi đó, hiện trạng là rừng chồi, bưng biền bà T và ông G bỏ
công sức cải tạo thì đất mới được hiện trang như hiện tại. Đến năm 1993 có chủ
trương đăng ký kê khai thì ông G đại diện cho hộ gia đình bà T đăng ký, kê khai
với cơ quan chức năng. Đến năm 1995 thì được UBND huyện C cấp giấy CNQSD
đất. Bà T và ông G có 04 người con gồm Nguyễn Như B1, Nguyễn Tuấn A,
Nguyễn Như Ý và Nguyễn Trường A1, ngoài ra không còn con đẻ, con nuôi nào
khác. Đối với di sản của ông G là phần đất diện tích 7.860m
2
(theo đo đạc thực tế
là thửa số 500 + thửa số 706 + thửa 698 tổng diện tích là 8.249.3m
2
)
tọa lạc tại ấp
R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau. Thửa số 706 hiện bà T và ông Nguyễn Văn L2
đang tranh chấp, bà T xác định thửa số 706 nằm trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông G nên yêu cầu chia thừa kế các thửa số 500 + 706 + 698. Hiện tại
phần đất ông G đã được cấp giấy CNQSD đất theo quy định pháp luật, phần tài sản
của ông G và bà T thì bà T đương nhiên được hưởng 50%, 50% còn lại thì T đồng
ý chia đều 06 kỷ phần. Đối với công sức đóng góp tôn tạo làm tăng giá trị phần đất
bà T yêu cầu được nhận 01 kỷ phần và chuyển giao các kỷ phần được nhận cho
ông A1 quản lý, sử dụng. Bà L là người được hưởng phần di sản thừa kế của ông G
nên bà T đồng ý chia cho bà L phần diện tích bà L đã cất nhà tình nghĩa phần còn
lại do ông H tự cất nhà và cơi nới, thì ông H tự tháo dỡ di, dời khi phần đất phân
4
chia thừa kế có liên quan đến tài sản của ông H đầu tư xây dựng. Đối với khoản
tiền nợ trước đây tại biên bản hoà giải ngày 23/9/2022 và tại phiên toà ngày
19/3/2024 bà T đặt ra yêu cầu những người được nhận di sản thừa kế của ông G có
trách nhiệm thanh toán khoản nợ 113.000.000 đồng nay bà không yêu cầu đối với
vấn đề này. Thống nhất với kết quả đo đạc và thống nhất không yêu cầu định giá
đất và tài sản trên đất.
Tại biên bản hòa giải ngày 08/8/2024 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Như B1, ông Nguyễn Tuấn A, bà Nguyễn Như Ý trình bày: Ông
bà là con ruột của ông G và bà T. Đối với di sản do ông G để lại là phần đất diện
tích 7.860m
2
(theo đo đạc thực tế là 8.249.3m
2
gồm cả phần diện tích thửa 706)
tọa
lạc tại ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau ông bà yêu cầu được nhận kỷ phần theo
quy định pháp luật và chuyển giao kỷ phần được nhận cho ông A1 quản lý, sử
dụng.
Tại biên bản hòa giải ngày 08/8/2024 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Trường A1 trình bày: Ông là con ruột của ông G và bà T. Đối với di sản
do ông Nguyễn Trường G1 là phần đất diện tích 7.860m
2
(theo đo đạc thực tế là
8.249.3m
2
)
tọa lạc tại ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau để lại ông yêu cầu được
nhận kỷ phần theo quy định pháp luật và đồng ý nhận các kỷ phần của bà T, ông
Như B1, ông Tuấn A, bà Như Ý chuyển giao. Hiện giấy CNQSD đất ông đang
quản lý, sử dụng. Đối với việc điều chỉnh của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất
đai huyện P nếu trường hợp có căn cứ Toà án huỷ điều chỉnh thì ông không có ý
kiến gì yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định pháp luật.
Tại biên bản hòa giải ngày 08/8/2024 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Thanh H trình bày: Từ năm 1987 ông sinh sống trên phần đất
cho đến nay, quá trình sử dụng đất ông có cất nhà và tôn tạo thêm nên phần đất
mới có hiện trạng như hiện nay. Nếu việc chia thừa kế ảnh hưởng đến nhà và công
trình của ông trên đất thì ông sẽ tự tháo dỡ, di dời và không ra yêu cầu bồi thường.
Vào ngày 02/4/2017 ông Như B1 có chuyển nhượng phần đất biền lá là phần đất
hiện nay ông và bà L đang quản lý, sử dụng số tiền 12.000.000 đồng. Nếu việc chia
thừa kế ảnh hưởng đến quyền lợi của ông đối với số tiền ông Như B1 đã chuyển
nhượng thì ông sẽ khởi kiện giải quyết bằng vụ án khác.
Tại biên bản hòa giải ngày 08/8/2024 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Ngọc Đ1, bà Võ Kim Ú, bà Nguyễn Phương A2 trình bày: Thống nhất chia
thừa kế theo pháp luật phần đất là di sản của ông G1 để lại cho bà L và gia đình bà
T.
Tại biên bản làm việc ngày 15/8/2024 ông Lương Quốc L1 trình bày: Ông
có nhận thuê của bà T phần đất khoảng 6.000m
2
thời hạn 4 năm kể từ ngày
16/4/2021 đến ngày 16/4/2025 dương lịch, giá 26.000.000 đồng/4 năm. Khi xác lập
hợp đồng không có ai chứng kiến cũng như xác nhận của UBND xã. Hiện hợp
đồng thuê không phát sinh tranh chấp nên không yêu cầu giải quyết trong cùng vụ
án. Do bận công việc nên yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Tại Báo cáo số 405/BC-UBND ngày 20/9/2023 của UBND xã P: “…Trong quá
trình kiểm tra hồ sơ những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn
5
Trường G1 được nêu trong văn bản phân chia di sản đã chết. Nhưng không có giấy
chứng tử hoặc giấy tờ thay thế giấy chứng tử nên việc chứng thực văn bản thoả
thuận phân chia di sản nêu trên chưa đúng theo quy định pháp luật. Từ những thiếu
sót trên dẫn đến việc UBND xã P chứng thực văn bản thoả thuận phân chia di sản
của ông Nguyễn Trường G1 bỏ sót hàng thừa kế là bà Nguyễn Thị L”. Nay yêu cầu
được vắng mặt đến khi giải quyết xong vụ án.
Tại Công văn số 633/CNVPĐKĐĐ ngày 24/9/2020 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện P xác định: “…Việc thực hiện hồ sơ cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn G được thực hiện đúng trình tự, thủ
tục quy định. Tuy nhiên, hồ sơ thừa kế quyền sử dụng đất UBND xã P có sai sót bỏ
sót hàng thừa kế theo quy định. Bà Nguyễn Thị L là mẹ ruột ông Nguyễn Văn G
còn sống nhưng trong văn bản thoả thuận phân chia UBND xã P lập xác định cha
mẹ của ông Nguyễn Văn G đã chết trước”. Yêu cầu được vắng mặt đến khi giải
quyết xong vụ án.
Tại Công văn số 1748/UBND ngày 07/10/2020 của UBND huyện P: “…Về
trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số E0623190 do UBND
huyện C (nay là huyện P) ký cấp ngày 11/8/1995 cho ông Nguyễn Văn G diện tích
7.860m
2
, thửa đất số 826, tờ bản đồ số 02, phần đất toạ lạc tại ấp R, xã P, huyện P,
tỉnh Cà Mau là đúng theo quy định pháp luật. Yêu cầu được vắng mặt đến khi giải
quyết xong vụ án.
- Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày: Bà L yêu cầu chia
di sản do ông G để lại là quyền sử dụng đất diện tích 7.860m
2
theo đo đạc thực tế
gồm thửa số 500 + 698. Do bà L đang quản lý thửa 698 nên yêu cầu được giữ
nguyên hiện trạng và nhận đất thửa 500. Yêu cầu huỷ Văn bản thoả thuận phân
chia di sản được chứng thực tại UBND xã P ngày 24/10/2018; huỷ xác nhận chỉnh
lý trang 4 của GCN của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P. Không yêu
cầu được nhận kỷ phần về công sức đóng góp, giữ gìn khối di sản. Đồng ý chừa lối
đi vào ngôi mộ của ông G chiều ngang 2,17m
2
, chiều dài tính từ mé lộ vào đến
ngôi mộ. Và đồng ý để lại phần đất gồm ngôi mộ của ông G và lối đi vào ngôi mộ
không yêu cầu chia thừa kế với tổng diện tích 32m
2
. Thống nhất giá trị phần đất
40.000 đồng/m
2
và Bản Biên tập mảnh “Trích đo hiện trạng” của Công ty TNHH P
ngày 22/8/2024.
- Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Hồng T, bà Nguyễn Như Ý,
ông Nguyễn Trường A1 là ông Nguyễn Ngọc Đ trình bày: Theo hiện trạng phần
đất được cấp đến giáp sông hiện tại do con lộ đi ngang nên chia cắt phần đất thành
các thửa 706 (ông Nguyễn Văn L2 đang quản lý), thửa 698 (bà L quản lý), thửa
500 (bà T quản lý). Phần đất là di sản của ông G để lại nên bà T là vợ được hưởng
50%, 50% còn lại bà T đồng ý chia cho các đồng thừa kế, tính từ giáp ông Nguyễn
Thanh V kéo từ mặt tiền giáp sông G kéo thẳng lên hậu, nếu ảnh hưởng đến công
trình, nhà do ông H tự xây cất thì ông H tự tháo dỡ, di dời. Bà T yêu cầu được
nhận 01 kỷ phần về công sức đóng góp, giữ gìn khối di sản. Các kỷ phần của bà T
được nhận bà đồng ý chuyển giao cho ông A1 quản lý, sử dụng. Và đồng ý để lại
phần đất gồm ngôi mộ của ông G và lối đi vào ngôi mộ không yêu cầu chia thừa kế
6
với tổng diện tích 32m
2
. Thống nhất giá trị phần đất 40.000 đồng/m
2
và Bản Biên
tập mảnh “Trích đo hiện trạng” của Công ty TNHH P ngày 22/8/2024. Hiện nay do
phần đất phát sinh tranh chấp nên ông L1 và bà T đã kết thúc hợp đồng thuê đất
nên không yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết.
- Ông Nguyễn Thanh H trình bày: Vào năm 2013 ông nhận chuyển nhượng
200m
2
đất từ bà Lê Thị M, hai bên có lập giấy tay không có cơ quan có thẩm quyền
xác nhận. Ông quản lý phần đất chuyển nhượng và bồi đắp thêm nên có hiện trạng
như hiện nay. Tuy nhiên, phần đất chuyển nhượng chưa được cấp giấy CNQSD đất
và phần diện tích bồi đắp cụ thể là bao nhiêu không xác định được nên ông đồng ý
chia thừa kế toàn bộ diện tích thửa 698 và thửa 500.
- Bà Nguyễn Phương A2, bà Nguyễn Ngọc Đ1, bà Võ Kim Ú không có ý
kiến trình bày khác.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 259/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Phú Tân:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về việc phân
chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Trường G1 (Nguyễn Văn G) theo quy định
pháp luật.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Trường A1 về việc
phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Trường G1 (Nguyễn Văn G) theo quy
định pháp luật.
Tuyên bố: Văn bản thoả thuận phân chia di sản lập giữa bà Nguyễn Hồng T,
ông Nguyễn Như B1, ông Nguyễn Tuấn A, bà Nguyễn Như Ý và ông Nguyễn
Trường A1 do UBND xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau chứng thực ngày 24/10/2018 là
vô hiệu.
Bà Nguyễn Thị L được chia thừa kế phần đất diện tích đo đạc thực tế là
897,5m
2
, phần đất toạ lạc ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau, có các cạnh:
+ Một cạnh giáp sông G dài 45.79m, từ điểm M16 đến M9.
+ Một cạnh giáp thửa đất số 1 diện tích 479.2m dài 21.25m từ điểm M9 đến
M12.
+ Một cạnh giáp đường bê tông dài 36.95m từ điểm M12 đến M15.
+ Một cạnh giáp đất sông G dài 19.13m từ điểm M15 đến M16.
Ông Nguyễn Trường A1 được chia thừa kế phần đất diện tích đo đạc thực tế
là 6.872,6m
2
, phần đất toạ lạc ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau, có các cạnh:
+ Một cạnh giáp đường bê tông dài 45.98m, từ điểm M2 đến M3.
+ Một cạnh giáp đất bà Nguyễn Thúy H1 dài 153.92m từ điểm M1 đến M2.
+ Một cạnh giáp đất ông Lê Tấn L3 dài 43.30m từ điểm M1 đến M4.
+ Một cạnh giáp đất ông Nguyễn Thanh V dài 153.92m từ điểm M4 đến M3.
Bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Trường A1 có quyền liên hệ với cơ quan
có thẩm quyền để thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định pháp luật.
7
(Kèm theo Bản biên tập Trích đo hiện trạng của Công ty TNHH P phát hành
ngày 22/8/2024).
Bà Nguyễn Thị L có trách nhiệm hoàn trả số tiền chênh lệch cho ông Nguyễn
Trường A1 là 10.106.400 đồng (Mười triệu một trăm lẻ sáu nghìn bốn trăm đồng).
Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc 11.001.067 đồng, bà Nguyễn Thị L và
ông Nguyễn Trường A1 phải chịu. Bà Nguyễn Thị L đã thanh lý xong toàn bộ chi
phí đo đạc với Công ty TNHH Đ2. Buộc ông Nguyễn Trường A1 có trách nhiệm
hoàn trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 10.084.000 đồng. (Mười triệu không trăm
tám mươi bốn nghìn đồng).
Ông Nguyễn Trường A1 phải chịu 14.186.500 đồng. Ông Nguyễn Trường
A1 đã nộp tiền tạm ứng án phí là 2.980.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003782
ngày 08 tháng 8 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau được chuyển thu, ông Nguyễn Trường A1 tiếp tục nộp 11.206.500 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo.
Ngày 15/10/2024, bà Nguyễn Thị L kháng cáo, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa
bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 14/10/2024, ông Nguyễn Trường A1 là bị đơn kháng cáo yêu cầu cấp
phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm về việc tách phần đất ông Nguyễn Văn L2 không
tính vào diện tích thừa kế là không đồng ý, buộc bà L trả giá trị đất số tiền
10.106.400đ là không đồng ý.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu sửa một phần
bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
- Bị đơn thay đổi một phần kháng cáo, xin rút lại kháng cáo đối với yêu cầu
về việc chia phần đất tranh chấp giữa bà T và ông L2, chỉ kháng cáo phần trị giá
đất của bà L. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm.
Phần tranh luận tại phiên toà: Các đương sự vẩn và người bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp vẩn bảo lưu ý kiến.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ một phần kháng cáo
của bị đơn; căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng Dân sự. Giữ nguyên bản
án dân sự sơ thẩm số 259/2023/DS-ST ngày 30 tháng 10 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Phú Tân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn
Trường A1 còn trong thời hạn luật định. Về thời điểm mở thừa kế, di sản, hàng
thừa kế, các đương sự đều thống nhất.
[2] Xét nguồn gốc đất năm 1981 bà Nguyễn Thị L được cấp đất 7.860m
2
nhưng không thể hiện giấy tờ chứng minh. Năm 1995 ông Nguyễn Trường G1 là
8
con ruột được cấp giấy số E190 diện tích 7.860m
2
, thửa 826, tờ bản đồ số 02, ông
G1 chết năm 2016 không để lại di chúc. Việc ông G1 được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất bà Nguyễn Thị L vẫn biết nhưng không có ý kiến gì, mặc nhiên
để ông G1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm này bà T đã
chung sống với ông G1. Tại Công văn số 1748/UBND ngày 07/10/2020 của
UBND huyện P và Công văn số 633/CNVPĐKĐĐ ngày 24/9/2020 của chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện P “Về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn G là đúng theo quy định pháp luật” . Ngày
24/10/2018, ông Nguyễn Trường A1 là con của ông G làm thủ tục nhận thừa kế
qua tên ông A1. Nay phát sinh thêm người thừa kế bà L là mẹ ruột ông G. Điều đó
cho thấy, bà T và các con lập văn bản thoả thuận phân chia di sản là hành vi gian
dối, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà L người thuộc hàng thừa kế của ông G.
Do đó Văn bản thoả thuận phân chia di sản lập giữa bà T và ông Như B1, ông
Trường A1, ông Tuấn A và bà Như Ý do UBND xã P chứng thực ngày 24/10/2018
là không đúng quy định bị vô hiệu. Như vậy hàng thừa kế thứ nhất của ông G xác
định gồm: Bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Hồng T, ông Nguyễn Như B1, ông
Nguyễn Tuấn A, bà Nguyễn Như Ý, ông Nguyễn Trường A1.
[3] Nguồn gốc phần đất năm 1981 bà L được Nhà nước cấp cho bà theo diện
chính sách người có công với cách mạng, sau đó bà tặng cho riêng ông G. Tuy
nhiên, bà L không có chứng cứ chứng minh cho riêng ông G, bà T và ông G chung
sống từ năm 1988 không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định pháp
luật. Sau khi được cho đất thì ông G đã đăng ký, kê khai và được cấp giấy chứng
nhận năm 1995. Tại thời điểm cấp giấy thì bà T và ông G đã chung sống với nhau
như vợ chồng. Từ khi được cấp giấy thì bà T đã chung sống với ông G và cùng
canh tác quản lý sử dụng cùng đứng tên vay Ngân hàng, sau khi ông G chết thì bà
T cùng các con vẫn quản lý đất cho đến nay. Bà L cũng sinh sống trên phần đất
biền biết rõ việc này nhưng không có ý kiến phản đối, nên không có cơ sở xác định
phần đất là tài sản riêng ông G, do không có căn cứ để chứng minh tài sản đang
tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Do
đó, xác định phần đất là tài sản chung của ông G và bà T nên bà T được nhận 50%
diện tích, 50% diện tích còn lại chia đều cho các đồng thừa kế.
Do ông G chết không để lại di chúc nên di sản của ông G được phân chia lại
theo quy định pháp luật cho mẹ, vợ và 04 người con của ông G thuộc hàng thừa kế
thứ nhất là đúng quy định pháp luật. Bà T được chia 50% diện tích trong khối tài
sản chung; 50% diện tích còn lại chia 06 kỷ phần, gồm bà L, bà T, ông Như B1,
ông Tuấn A, bà Như Ý, ông Trường A1.
[4] Hiện nay phần đất được chia thành hai thửa bà L quản lý đất từ khi Nhà
nước cấp đất cho gia đình bà theo diện gia đình chính sách năm 1981 đến khi bà L
cho đất ông G và được cấp giấy năm 1995. Bà T quản lý phần diện tích 6.872,6m
2
,
bà L quản lý phần diện tích 897,5m
2
. Tuy nhiên phần đất bà L quản lý giáp sông và
bà L bồi đắp để tăng diện tích cũng như giá trị. Do đó, xét về công sức đóng góp,
giữ gìn khối di sản thì bà T và bà L là ngang nhau nên không xem xét đến kỷ phần
về giữ gìn khối di sản.
9
Quá trình giải quyết vụ án bà T, ông Như B1, ông Tuấn A, và bà Như Ý
đồng ý giao di sản cho ông A1 quản lý. Ông A1 đồng ý nhận các kỷ phần này và
đồng ý chịu toàn bộ án phí đối với các kỷ phần được nhận. Xét thấy, đây là ý chí tự
nguyện của các đương sự không nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về
tài sản đối với người khác nên được chấp nhận.
Trong phần đất này có mộ của ông G với diện tích khuôn viên khu mộ là
7,4m
2
(tại các điểm N1, N2, N3, N4) và chừa đường đi vào mộ làm lối đi chung từ
nền mộ ra lộ có diện tích 24,6m
2
. Các đương sự đều thống nhất không chia thừa kế
đối phần diện tích này, nên phần diện tích đất được xem xét chia thừa kế là
6.872,6m
2
+ 897,5m
2
= 7.770,1m
2
- 32m
2
= 7.738,1m
2
.
Di sản là tài sản chung nên bà T được nhận 50% diện tích 7.738,1m
2
: 2 =
3.869,05m
2
. Phần diện tích 3.869,05m
2
: 6 = 644.84m
2
. Như vậy, bà T được nhận
phần 50% tài sản chung và 01 kỷ phần được hưởng theo pháp luật 3.869,05m
2
+
644.84m
2
= 4.513,89m
2
. Bà L được nhận 01 kỷ phần 644.84m
2
, những người được
nhận đồng ý chuyển giao cho ông A1 quản lý nên ông A1 được nhận 05 kỷ phần
(gồm của bà T, ông Như B1, ông Tuấn A, bà Như Ý, ông A1) và 50% của bà T
(644.84m
2
x 5) + 3.869,05m
2
= 7.093,25m
2
.
Xét, ngoài diện tích được hưởng thừa kế thì còn phần đất không chia thừa kế
là lối đi chung vào mộ và khuôn viên khu mộ là phần mộ của ông G (cha ông A1)
nên Hội đồng xét xử quyết định giao cho ông A1 tiếp tục quản lý là phù hợp với
thuần phong mỹ tục, đạo đức. Như vậy, tổng diện tích ông A1 được nhận
7.125,25m
2
(7.093,25m
2
+ 32m
2
).
[5] Để đảm bảo việc chia thừa kế không ảnh hưởng đến quá trình sử dụng và
nhằm ổn định vị trí, nơi ở từ trước đến nay nên xét thấy cần giữ nguyên hiện trạng
mà các bên đã quản lý. Do thửa 698 bà L và ông H quản lý từ trước đến nay sử
dụng ổn định có nhà, cây trồng nên được tiếp tục giao cho bà L quản lý và hoàn giá
trị chênh lệch. Bà T quản lý thửa số 500 có nhà, ống bọng và đường nước xổ nên
tiếp tục giao cho bà T, bà T chuyển giao cho ông A1 quản lý. Cụ thể: Phần diện
tích bà L được nhận thửa 698 có diện tích 897,5m
2
từ điểm M9 - M12 – M15 -
M20 về M9. Phần diện tích ông A1 được nhận thửa 500 có diện tích 7.093,25m
2
nhưng do giữ nguyên hiện trạng nên nhận diện tích 6.872,6m
2
từ điểm M1 - M2 –
M3 – M4 về M1.
Do bà L được giữ nguyên hiện trạng phần diện tích 897,5m
2
nhiều hơn phần
được nhận 252.66m
2
x 40.000 đồng = 10.106.400 đồng. Do đó, bà L có trách
nhiệm hoàn trả số tiền 10.106.400 đồng cho ông A1.
Án sơ thẩm chấp nhận việc chia thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn có căn
cứ.
[6] Đối với biên họp thân tộc ngày 02/4/2017 do bà L chủ trì việc phân chia
đất cho ông H và ông G. Tuy nhiên thời điểm đó ông G đã được cấp giấy chứng
nhận nên việc phân chia không có giá trị pháp lý. Hợp đồng thuê giữa bà T và ông
L1 đã kết thúc không phát sinh tranh chấp các đương sự không yêu cầu nên không
xem xét, giải quyết.
10
Đối với số tiền chuyển nhượng giữa ông H và ông Như B1 các đương sự
không yêu cầu giải quyết trong cùng vụ án. Trường hợp có phát sinh tranh chấp sẽ
được giải quyết bằng vụ án khác khi có yêu cầu.
Nguyên đơn cho là tài sản ông G chia thành 6 phần và xin được giữ nguyên
hiện trạng cho bà L, cũng như các phân tích phần tài sản của ông G được cấp năm
1995 thời điểm bà T và ông G chung sống là năm 1988 cho nên không có căn cứ
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Đối với bị đơn xin rút lại một phần kháng
cáo về việc tranh chấp với ông L2, xét thấy đây là sự tự nguyện của bị đơn nên
đình chỉ xét xử phúc thẩm phần này, riêng việc yêu cầu chia thừa kế trả bằng diện
tích đất, yêu cầu này không được chấp nhận vì phần đất này bà L đã quản lý nối
liền với hiện trạng đã giao cho bà L từ trước đến nay.
[7] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn và đình chỉ một phần kháng cáo của bị
đơn. Giữ nguyên bản án sơ thẩm là có cơ sở, phù hợp với các phân tích trên.
[8] Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc là 11.001.067 đồng. Bà L nhận phần
đất diện tích 644.84m
2
tương đương số tiền 916.700 đồng, ông A1 nhận phần đất
diện tích 7.093,25m
2
tương đương số tiền 10.084.000 đồng. Bà L đã thanh lý xong
toàn bộ chi phí đo đạc với Công ty TNHH Đ2. (Theo hợp đồng hợp tác cung cấp
dịch vụ đo đạc giữa Công ty TNHH P và Công ty TNHH Đ2, hóa đơn bán hàng
ngày 26/4/2022) nên ông A1 có trách nhiệm thanh toán cho bà L số tiền
10.084.000 đồng.
[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà L là người cao tuổi và có đơn xin miễn nộp
án phí nên được miễn án phí đối với kỷ phần được hưởng thừa kế. Ông A1 phải
chịu án phí đối với kỷ phần được nhận và các kỷ phần được chuyển giao là
14.186.500 đồng.
[10] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà L là người cao tuổi và có đơn xin miễn
nộp án phí nên được miễn án phí. Ông A1 phải chịu án phí số tiền 300.000 đồng,
đã dự nộp chuyển thu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Trường
A1.
Đình chỉ một phần kháng cáo của ông Nguyễn Trường A1 đối với phần đất
tranh chấp diện tích 479,2m
2
với ông Nguyễn Văn L2 và bà Nguyễn Thị T2
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 259/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân
Tuyên Xử:
11
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về việc phân
chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Trường G1 (Nguyễn Văn G) theo quy định
pháp luật.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Trường A1 về việc
phân chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Trường G1 (Nguyễn Văn G) theo quy
định pháp luật.
Tuyên bố: Văn bản thoả thuận phân chia di sản lập giữa bà Nguyễn Hồng T,
ông Nguyễn Như B1, ông Nguyễn Tuấn A, bà Nguyễn Như Ý và ông Nguyễn
Trường A1 do UBND xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau chứng thực ngày 24/10/2018 là
vô hiệu.
Bà Nguyễn Thị L được chia thừa kế phần đất diện tích đo đạc thực tế là
897,5m
2
, phần đất toạ lạc ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau, có các cạnh:
+ Một cạnh giáp sông G dài 45.79m, từ điểm M16 đến M9.
+ Một cạnh giáp thửa đất số 1 diện tích 479.2m dài 21.25m từ điểm M9 đến
M12.
+ Một cạnh giáp đường bê tông dài 36.95m từ điểm M12 đến M15.
+ Một cạnh giáp đất sông G dài 19.13m từ điểm M15 đến M16.
Ông Nguyễn Trường A1 được chia thừa kế phần đất diện tích đo đạc thực tế
là 6.872,6m
2
, phần đất toạ lạc ấp R, xã P, huyện P, tỉnh Cà Mau, có các cạnh:
+ Một cạnh giáp đường bê tông dài 45.98m, từ điểm M2 đến M3.
+ Một cạnh giáp đất bà Nguyễn Thúy H1 dài 153.92m từ điểm M1 đến M2.
+ Một cạnh giáp đất ông Lê Tấn L3 dài 43.30m từ điểm M1 đến M4.
+ Một cạnh giáp đất ông Nguyễn Thanh V dài 153.92m từ điểm M4 đến M3.
Bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Trường A1 có quyền liên hệ với cơ quan
có thẩm quyền để thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo
quy định pháp luật.
(Kèm theo Bản biên tập Trích đo hiện trạng của Công ty TNHH P phát hành
ngày 22/8/2024).
Bà Nguyễn Thị L có trách nhiệm hoàn trả số tiền chênh lệch cho ông Nguyễn
Trường A1 là 10.106.400 đồng (Mười triệu một trăm lẻ sáu nghìn bốn trăm đồng).
Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc 11.001.067 đồng, bà Nguyễn Thị L và
ông Nguyễn Trường A1 phải chịu. Bà Nguyễn Thị L đã thanh lý xong toàn bộ chi
phí đo đạc với Công ty TNHH Đ2. Buộc ông Nguyễn Trường A1 có trách nhiệm
hoàn trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 10.084.000 đồng. (Mười triệu không trăm
tám mươi bốn nghìn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất
cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân
sự.
12
Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Nguyễn Thị L là người cao tuổi
nên được miễn án phí theo quy định.
Ông Nguyễn Trường A1 phải chịu 14.186.500 đồng. Ông Nguyễn Trường
A1 đã nộp tiền tạm ứng án phí là 2.980.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003782
ngày 08 tháng 8 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, tỉnh Cà
Mau được chuyển thu, ông Nguyễn Trường A1 tiếp tục nộp 11.206.500 đồng.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị L là người cao tuổi nên được
miễn án phí. Ông A1 phải chịu án phí số tiền 300.000 đồng. Ngày 14/10/2024, ông
A1 đã dự nộp tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng, lai thu số 0003929 tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, được chuyển thu
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân huyện Phú;
- Chi cục THADS huyện Phú Tân;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm