Bản án số 531/2025/DS-PT ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 531/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 531/2025/DS-PT ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 531/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Đặng Văn Nhàng tranh chấp quyền sử dụng với ông Trần Minh Khởi
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 531/2025/DS-PT
Ngày: 30-9-2025
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Rẻn
Các Thẩm phán: Bà Đặng Thị Ánh Bình
Bà Đặng Duy Mỹ Ngọc
- Thư ký phiên tòa:Nguyễn Thùy Dương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa:
Lê Thị Hồng Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 297/2025/TLPT-DS ngày 11 tháng 8 năm
2025 về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số: 82/2025/DS-ST ngày 15 tháng 5 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú (nay Tòa án nhân dân Khu vực 9 - Vĩnh
Long) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 409/2025/QĐ-PT ngày
20 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Đặng Văn N, sinh năm 1973
Địa chỉ: Số H, Khu phố D, thị trấn T, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số H, Khu phố D, xã T, tỉnh Vĩnh Long.
2. Bà Đặng Thị N1, sinh năm 1978
3. Bà Đặng Thị N2, sinh năm 1976
Cùng địa chỉ: Số D, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
2
Cùng địa chỉ hiện nay: Số D, ấp A, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo y quyền của nguyên đơn: Ông Phan Văn T, sinh năm
1981
Địa chỉ: Số A, Khu phố G, Ấp D, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai.
Địa chỉ hiện nay: Số A, Khu phố G, Ấp D, xã P, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn:
1. Ông Trần Minh K, sinh năm 1967
Địa chỉ: Số D, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số D, ấp A, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
2. Ông Trần Hữu T1, sinh năm 1978
Địa chỉ: Số F, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số F, ấp A, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
3. Ông Lê Văn T2, sinh năm 1946
Địa chỉ: Số E, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số E, ấp A, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Văn T2: Ông Huỳnh
Thanh S và Thị Mộng T3 - Trợ giúp viên pháp của Trung tâm T8 tỉnh
Vĩnh Long.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Văn V, sinh năm 1928
Địa chỉ: Số F, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số F, ấp A, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
2. Ông Lê Hoàng T4, sinh năm 1974
Địa chỉ: Số D, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số D, ấp A, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
3. Bà Nguyễn Thị N3, sinh năm 1980
Địa chỉ: Số F, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số F, ấp A, xã A, tỉnh Vĩnh Long.
(Ông T, ông K, ông T1, ông S, T3 mặt; Ông T2, ông V, ông Hoàng
T4, bà N3 có yêu cầu xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị N1, bà Đặng
3
Thị N2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn ông Đặng Văn N, Đặng Thị N1,
Đặng Thị N2, trong qtrình tố tụng tại Tòa án tại phiên tòa người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Phan Văn T trình bày:
Ông Đặng Hữu N4 Thị C vợ chồng. Ông N4 chết năm 2019,
C chết năm 1992. Ông N4 và bà C có 03 người con: ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị
N1Đặng Thị N2. Ông N4 và bà C không con riêng, con nuôi. Ông N4 và
C chết không để lại di chúc, cha mẹ ông N4 C đều chết trước ông N4,
C.
Thửa đất 125, tờ bản đồ số 06 thửa đất 114, tờ bản đồ số 06, ấp A, xã A,
huyện T (thửa các thửa 491, 492, 483 tờ bản đồ số 05) trước năm 1976 do
gia đình ông N4 sử dụng, đất nguồn gốc của ai thì nguyên đơn không biết, sau
năm 1976, ông N4 người khai phá, sử dụng phần đất này, cất nhà tại tại vị
trí thửa 125. Năm 1993, ông N4 đăng ký kê khai phần đất thuộc các thửa 491, 492,
483 tờ bản đồ số 05. Do gia đình ông N4 đi làm ăn xa nên từ năm 1994-1995 đến
nay không sdụng đất. Sau đó, địa chính kêu ông N4 về khai làm sổ
nhưng do điều kiện khó khăn nên ông N4 chưa làm giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Năm 1993, ông N4 đi lập nghiệp tỉnh Đồng Nai không tiếp tục sử dụng
đất. Từ năm 1994-1995 cho đến nay thì ông K, ông T1 ông T2 chiếm đoạt sử
dụng toàn bộ. Khoảng năm 1997-1998 thì căn nhà của ông N4 trên thửa đất 125 đã
bị sập nên hiện không còn. Việc các bđơn cho rằng đất tranh chấp nguồn gốc
của ông V cho ông N4 ở nhờ là không đúng.
Đối với giấy tờ mua bán giữa ông N4 ông K thì nguyên đơn không thừa
nhận. Ông N4 không bán đất cho ông K nên không yêu cầu trưng cầu giám định
theo quy định. Trước khi nguyên đơn khởi kiện phía gia đình ông T2 thì vợ ông
T2 (kể cả ông T1) thừa nhận đất tranh chấp là của ông N4, nếu ông N4 giấy
tờ sẽ đồng ý trả lại nhưng hiện nay không thừa nhận lời trình bày trả lại đất cho
phía nguyên đơn.
Vì vậy các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Yêu cầu ông Trần Minh K phải trả cho các nguyên đơn diện ch 750,9m
2
thuộc một phần thửa 125, tờ bản đồ số 6, tolạc p A, A, huyện T, tỉnh Bến
Tre. Các nguyên đơn yêu cầu ông Trần Minh K di dời toàn bộ cây trồng hàng
rào ra khỏi đất, các nguyên đơn không đồng ý bồi thường chi phí di dời.
- Yêu cầu ông Văn T2 ông Trần Hữu T1 phải trả cho các nguyên đơn
4
857,2m
2
thuộc một phần thửa 114, tờ bản đồ số 6, toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh
Bến Tre. Các nguyên đơn yêu cầu ông Lê Văn T2 và ông Trần Hữu T1 di dời toàn
bộ cây trồng ra khỏi đất, các nguyên đơn không đồng ý bồi thường chi phí di dời.
- Các nguyên đơn tự nguyện rút yêu cầu về việc tranh chấp thửa 276, tờ bản
đồ số 06, toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre đối với ông T2 và ông T1.
Nguyên đơn đồng ý với kết quả đo đạc định giá ngày 02/02/2024. Đối
với chi phí tố tụng ông đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Khoảng năm 1997-1998 ông N4 đi lập nghiệp ở tỉnh Đồng Nai nên không sử dụng
đất. Khi ông N4 còn sống đi về để tham gia bầu cử địa phương nhưng không
tranh chấp với ông K, ông T1. Khi ông K xây dựng hàng rào thì ông N4
tranh chấp hay không thì ông không biết. Ông không yêu cầu trưng cầu giám định
năng lực hành vi của ông V. Các nguyên đơn không tranh chấp hay yêu cầu đối
với ông V; không tranh chấp hợp đồng tặng cho giữa ông V với ông K ông T1.
Các nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Lê Văn T2 trình bày:
Đất tranh chấp có nguồn gốc của ông Trần Văn V (là cha của ông Trần Minh
K, là ông nội của ông Trần Hữu T1). Sau đó có chủ trương đưa đất vào tập đoàn thì
tập đoàn cấp cho ông nhưng ông không có sử dụng, ông V vẫn tiếp tục sử dụng.
Đất tranh chấp đưa vào tập đoàn năm nào thì ông không nhớ (hiện các ông,
phụ trách tập đoàn đều đã chết). Trước năm 1975, ông V cho ông N4 nhờ tại
một phần thửa đất 114, 125, ông N4 cất nhà ở tại thửa 125 còn thửa 114 thì ông
N4 cấy lúa. Do ông N4 không đất nên ông V thấy vậy cho nhờ, lúc đó hai
bên không làm giấy tờ nhưng ông Trưởng ấp nên ông với ông C2 ông
N5 chứng kiến toàn bộ sự việc (ông C2 chết, ông N5 lớn tuổi không còn minh
mẫn) và chòm xóm ai cũng biết.
Ông N4 không còn sử dụng đất tkhi vợ ông N4 chết. Trước khi ông N4 đi
làm ăn xa giao trả đất cho gia đình ông V hay không thì ông không biết. Gia
đình ông K ông T1 sử dụng đất tranh chấp từ khi ông N4 đến Đồng Nai lập
nghiệp tới nay. Khi còn sống ông N4 thường xuyên đi vnhưng không tranh
chấp gì với ông K ông T1. Khi đo đạc Vlap thì ông đứng tên nhưng thực tế thì
ông T1 sử dụng từ trước đến nay. Ông khẳng định ông N4 không đất nên ông
V cho ông N4 nhờ. Ông không đồng ý giao trả đất cho các con ông N4 do thửa
đất 114 của ông T1 không phải của ông N4. Ông đồng ý với kết quả đo đạc
định giá ngày 02/2/2024. Ông đồng ý với việc rút yêu cầu của các nguyên đơn đối
với thửa đất 276 tở bản đồ số 06 tọa lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông
không tranh chấp hay yêu cầu đối với ông V ông T1. Ông không trình bày
5
hay yêu cầu gì thêm.
Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Trần Minh K trình bày:
Cha ông ông Trần Văn V. Thửa số 125, tờ bản đồ số 6 diện tích 2334m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A giáp ranh với ông Trần Hữu T1 và ông Bùi Văn T5 có nguồn
gốc của ông V. Khoảng năm 1976, ông V cho ông N4 cất một nhà tạm nhờ
trên một phần đất của ông V do ông N4 không đất ở. Việc cho nhờ các bên
không làm giấy tờ nhưng chòm xóm ai cũng biết, ông V cho ông N4 bao
lâu thì ông không biết.
Đến năm 1993, vợ ông N4 mất sau đó ông N4 cùng các con về thị trấn T
trú rồi ông N4 đi làm tỉnh Đồng Nai trả lại đất cho ông V. Năm 1993, ông V
tặng cho phần đất tranh chấp cho ông. Đến năm 1995 do mưa gió nên nhà của ông
N4 bị sập; con địa phương hỗ trợ tháo dỡ. Đến năm 1996 ông Đặng Hữu N4
về quê thăm con gặp ông thì ông nói “Giờ ông dự định trở về đây
cất nhà hay không để ông biết để ông bơm đất lên trồng cỏ nuôi bò”. Ông N4 nói:
“Đất này Cậu hai cho ông nay ông không trả lại cho C1 hai, ông không về
đây nữa”. Ông nói với ông N4: “Giữa ông ông chung một khung diện tích của
ông khoảng 500m
2
ông ông thương lượng, ông gửi lại cho ông 01 chỉ vàng lúc
đó trị giá 300.000 đồng”. Ông N4 đồng ý nên ông với ông N4 làm tmua bán
đất với nhau. Năm 2010 ông đăng khai theo hđo đạc Vlap chung với
diện tích của ông thuộc thửa số 125 tờ bản đồ số 6, đến ngày 05/03/2015 ông được
Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó
phần đất của ông Đặng Hữu N4 ông canh tác cho đến nay. Trước đó ông trồng
cỏ nuôi bò, sau đó ông không nuôi nữa nên chuyển sang trồng mai vàng. Năm
2000 ông bơm cát xây hàng rào kiên cố chung với phần đất khác của gia đình
ông cho đến nay. Thời gian ông xây dựng thì ông N4 cũng thường xuyên đi về
biết rõ nhưng không có tranh chấp gì.
Nguồn gốc đất trên do cha ông khai phá, không phải của ông N4. Ông V chỉ
cho ông N4 nhờ. Ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sử dụng
từ khi thoả thuận mua bán với ông N4 cho đến nay, không ai tranh chấp, kể cả khi
ông N4 còn sống. vậy, ông không đồng ý giao trả đất theo yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Ông không yêu cầu trưng cầu giám định năng lực hành vi của ông V, không
tranh chấp hay yêu cầu đối với ông V; không yêu cầu trưng cầu giám định chữ
viết chữ của ông N4 tại giấy tay mua bán đất ngày 20/5/1995. Ông đồng ý
với kết quả đo đạc và định giá ngày 02/02/2024 trong vụ án.
Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Trần Hữu T1 trình bày:
Ông nội ông ông Trần Văn V. Thửa đất số 114, tờ bản đồ số 6 diện tích
6
895m
2
nguồn gốc của ông V. Khoảng năm 1976 ông V cho ông N4 nhờ, khi
ông V cho ông N4 nhờ không làm giấy tnhưng chòm xóm ông cũng biết;
thời hạn ông V cho ông N4 nhờ bao lâu thì ông không biết. năm 1993 ông N4
không sử dụng đất tiếp có kêu ông V trả đất.
Năm 2004, ông lập gia đình thì ông V tặng cho ông thửa đất nêu trên, ông có
đắp nền ndự kiến ra riêng. từ nhỏ đến lớn ông sống chung với vợ chồng
ông V, năm 1999 nội của ông mất do ông V già yếu một mình nên các con
ông V không cho ông ra riêng nên lại tiếp tục chăm sóc ông V sử dụng đất
cho đến nay, khi đó gia đình ông lập tờ tương phân. Trong thời gian này ông
đến Ủy ban nhân dân A để nhờ hướng dẫn cấp quyền sdụng đất thì địa chính
bảo: diện tích đất nêu trên nằm trong quyền sử dụng đất của ông Văn T2.
Ông gặp ông T2 để mượn quyền sử dụng đất để tách thửa thì ông T2 bảo rằng
hiện quyền sử dụng đất đang thế chấp ngân hàng để vay vốn hứa khi nào lấy
quyền sử dụng đất ra thì cho ông mượn để tách thửa đất, việc này ông T2 làm
cam kết với ông.
Đến năm 2010 ông đăng khai theo hồ đo đạc Vlap ông xác định
ranh với các chủ sử dụng đất liền kề. Thửa đất trên thuộc thửa số 114, tờ bản đồ số
6, diện tích 895,2m
2
phiếu giao nhận diện tích trích lục bản đồ địa chính.
Đến ngày 09/06/2023 ông N ông T đến nhà ông chơi hỏi biết nhà và đất
trước kia của họ ở đâu không thì ông có dẫn đi chỉ và bảo: N và đất của ông chỗ
này hiện ông K sử dụng; ông T hỏi còn thửa bên kia của ai thì ông bảo trước kia
ông nội ông canh tác nay ông canh tác.
Sau khi hỏi xong ông T bảo đất ông và ông K canh tác là đất của ông N4 nay
ông về đòi lại để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông nói không
đồng ý đây nguồn gốc đất của ông V cho ông N4 nhờ, năm 1993 ông N4
không sử dụng nữa đã giao trả cho ông V. Ông T nói đất này năm 1993 ông N4
khai và hiện đứng tên sổ bộ.
Anh khẳng định đất tranh chấp có nguồn gốc của ông V, xác nhận nguồn
gốc đất của ông Phan Văn P, ông Đào Văn H, ông Bùi Văn T5, ông Phạm Văn L.
Ông liên hệ Văn phòng đất huyện T trả lời: Hiện thửa đất trên theo Chỉ thị
299/TTg ngày 10/11/1980, năm 1993 ông N4 kê khai đứng tên sổ bộ; từ năm 2009
trở về sau thì ông Thống K1. Năm 2010 ông khai theo VLAP thuộc thửa số
114, tờ bản đồ số 6. Hiện ông là người trực tiếp sử dụng canh tác, khi còn sống ông
N4 không tranh chấp với ông.
Thửa đất nêu trên trước đây ông trồng cỏ nuôi bò, sau đó ông cho ông
Hoàng T4 thuê trồng cỏ giá 1.000.000 đồng/năm, hiện nay hợp đồng thuê đã hết,
ông T4 đã giao trả đất cho ông. Việc ông N4 kê khai là không đúng do đất của ông
7
V chỉ cho ông N4 nhờ. Ông không đồng ý giao trả đất cho các con của ông N4,
do đất tranh chấp không phải của ông N4, đất này của ông V cho anh, hiện ông
là người đăng ký khai, gia đình ông sử dụng ổn định rất lâu dài. Ông không yêu
cầu trưng cầu giám định năng lực hành vi của ông V, ông không tranh chấp hay
yêu cầu đối với ông V ông T2. Ông đồng ý với kết quả đo đạc định giá
ngày 02/02/2024. Ông đồng ý với việc rút yêu cầu của các nguyên đơn đối với
thửa đất 276, tờ bản đồ số 06, tọa lạc ấp A, A, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông
không trình bày hay yêu cầu gì thêm.
Theo đơn yêu cầu ngày 15/02/2025 ông Trần Văn V trình bày:
Ông cha của ông Trần Minh K, ông nội của ông Trần Hữu T1. Trước
đây ông sử dụng một phần đất diện tích bao nhiêu ông không biết nhưng hiện
nay qua đo đạc thửa số 125, tờ bản đồ số 6, diện tích 2334m² tọa lạc tại ấp A, xã A
giáp ranh với ông Trần Hữu T1 và ông Bùi Văn T6, hiện ông K đang sử dụng.
Trong đó khoảng 500m² thì vào năm 1976 ông cho ông N4 nhờ. Khi ông
cho ông N4 nhờ thì không có làm giấy tờ gì nhưng xóm làng ai cũng biết do thời
điểm đó ông N4 quê thị trấn T chứ không phải qA. Do ông thấy ông N4
không có chỗ ở nên cho ở nhờ.
Khi đó gia đình ông N4 cất nhà ở trên đất. Đến năm 1993 vợ ông N4 mất
sau đó ông cùng các con về thị trấn T rồi ông N4 đi lập nghiệp ở tỉnh Đồng Nai.
Sau đó ông N4 về kêu trả đất cho ông, ông sử dụng một thời gian rồi tặng cho ông
K.
Đối với phần đất các con của ông N4 tranh chấp với ông T1, ông ý
kiến nsau: Trước đây ông sử dụng một phần đất, nay thuộc thửa số 114, tờ
bản đồ số 6, diện tích 895,2m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, giáp ranh với ông Lê Văn T2,
Phạm Thị Á, ông Phạm Văn C2, ông Trần Minh K. Ông canh tác ổn định đến
năm 2004 ông T1 lập gia đình thì ông cho ông T1 thửa đất nêu trên để ông T1 đắp
nền nhà dự kiến ra riêng. từ nhỏ đến lớn ông T1 sống chung với ông. Năm
1999 vợ ông mất, ông cũng già yếu một mình nên các con của ông không cho
ông T1 ra riêng nên ông T1 lại tiếp tục chăm sóc ông và sử dụng đất cho đến
nay, khi đó gia đình ông làm tờ tương phân nhưng không hiểu sao phần đất này
nằm trong bằng khoán của ông T2.
Ông khẳng định nguồn gốc đất các con ông N4 tranh chấp với ông K
ông T1 đất của ông. Ông N4 hoàn toàn không đất tại khu vực tranh chấp nêu
trên, do ông đã tặng cho ông K ông T1 nên ông không còn liên quan gì, quyền
quyết định là của ông K và ông T1.
Do ông lớn tuổi, việc đi lại gặp nhiều khó khăn nên ông đề nghị Tòa án xem
xét giải quyết vắng mặt ông trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án. Việc này do
8
ông tự nguyện, ông cam kết không tranh chấp hay khiếu nại gì về sau.
Theo đơn yêu cầu ngày 15/02/2025 ông Lê Hoàng T4 trình bày:
Vào ngày 09 tháng 01 năm 2024 ông thuê một phần đất của ông Trần
Hữu T1, mục đích thuê để trồng cỏ, thời hạn thuê 01 năm, với số tiền là:
1.000.000 đồng, khi thuê không đo đạc, không có làm hợp đồng theo quy định.
Hiện nay hợp đồng thuê giữa ông với ông T1 đã hết hạn, ông đã giao đất cho
ông T1 xong nên ông không còn liên quan gì, ông đề nghị không tham gia tố tụng
trong vụ án này. Ông người sinh sống tại địa phương rất lâu, ông biết đất
tranh chấp nguồn gốc của ông Trần Văn V làm từ trước, đến năm 2004 thì ông
T1 làm. Do ông bận công việc gia đình nên ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết
vắng mặt ông trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án. Việc này là do ông t
nguyện, ông cam kết không tranh chấp hay khiếu nại gì về sau.
Theo đơn yêu cầu ngày 08/5/2025 bà Nguyễn Thị N3 trình bày:
vợ của ông T1. Năm 2004 lập gia đình với ông T1 được ông
Trần n V chính thức cho vợ chồng thửa đất 114, tờ bản đồ số 6 diện tích
895m
2
tọa lạc ấp A, xã A, huyện T giáp ranh với ông Lê Văn T2, Phạm Thị Á,
ông Phạm Văn C2, ông Đặng Hữu N4 (nay ông Trần Minh K canh tác). Vợ chồng
có đắp nền nhà dự kiến ra riêng vì từ nhỏ đến lớn ông T1 sống chung với ông
nội. Do bận công việc gia đình nên N4 yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt
bà trong suốt quá trình tố tụng tại Tòa án.
Tài sản tranh chấp được xem xét, thẩm định và định giá cụ thể như sau:
1. Tại một phần thửa 125 có:
- 03 cây dừa loại 1, giá 1.650.000 đồng/cây. Thành tiền 4.950.000 đồng;
- 06 cây dừa loại 3, giá 550.000 đồng/cây. Thành tiền 3.300.000 đồng;
- 03 bụi chuối giá 55.000 đồng/bụi. Thành tiền 165.000 đồng;
- 02 cây tràm bông vàng 01 cây còng đường kính gốc nhỏ hơn 20cm, hỗ
trợ chi phí đốn chặt 38.500 đồng/cây. Thành tiền 115.000 đồng;
- 01 cây me nhỏ hơn 06 năm tuổi giá 286.000 đồng/cây. Thành tiền 286.000
đồng;
- 11 cây mai vàng trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc nhỏ hơn 10cm,
hỗ trợ chi phí bứng di dời 44.000 đồng/cây. Thành tiền 484.000 đồng;
- 46 cây mai vàng trồng làm cảnh ngoài đất đường kính gốc nhỏ hơn 5cm hỗ
trợ chi phí bứng di dời 33.000 đồng/cây. Thành tiền 1.518.000 đồng.
- 01 cây xoài nhỏ hơn 10 năm tuổi giá 825.000 đồng/cây. Thành tiền
9
825.000 đồng;
- Hàng rào: Trụ bê tông chôn, kéo lưới dây chì gai, tỷ lệ sử dụng còn lại
20%; đơn g134.000 đồng/m
2
. Thành tiền 134.000 đồng x 53m x 1,5m x 20% =
2.130.000 đồng.
2. Thửa đất số 114, tờ bản đồ số 6 theo hiện trạng đất trồng cỏ, trên đất
không có tài sản gì.
3. Giá đất 400.000 đồng/m
2
.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Lê Văn T2 trình bày:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án nay thuộc thửa số
114, tờ bản đồ số 6, diện tích 895,2m
2
tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện T có nguồn gốc
của ông V cho ông N4 ở nhờ. Ông T2 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, ông T1 đã sử dụng ổn định, lâu dài đã đăng khai theo hồ đo đạc
Vlap nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú (nay là Tòa án
nhân dân Khu vực 9 - Vĩnh Long) đã đưa vụ án ra xét xử.
Tại Bản án dân sthẩm số: 82/2025/DS-ST ngày 15/5/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Thạnh Phú đã tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn N, Đặng Thị N1 và
Đặng Thị N2 về việc yêu cầu ông Lê Văn T2 và ông Trần Hữu T1 giao trả cho ông
N, N1 N2 đối với thửa đất 276 tờ bản đồ số 06 tọa lạc ấp A, xã A, huyện
T, tỉnh Bến Tre.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn N, Đặng Thị
N1 Đặng Thị N2 về việc yêu cầu ông Trần Minh K phải di dời toàn bộ cây
trồng và hàng rào ra khỏi đất để giao trả cho ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị N1
Đặng Thị N2 phần đất diện tích 750,9m
2
thuộc một phần thửa 125 tờ bản đồ
số 6 toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn N, Đặng Thị
N1 và bà Đặng Thị N2 về việc yêu cầu ông Lê Văn T2 và ông Trần Hữu T1 phải di
dời toàn bộ cây trồng ra khỏi đất để giao trả cho ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị N1
Đặng Thị N2 phần đất diện tích 857,2m
2
thuộc một phần thửa 114 tbản
đồ số 6 toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre
Về độ dài tứ cận, vtrí thửa đất trích lục họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thửa 114, 125 tờ bản đồ số 6 tọa lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre kèm theo.
4. Do các nguyên đơn; bđơn không tranh chấp hay yêu cầu đối với ông
V nên không xem xét giải quyết.
10
5. Do ông T1 N4 không không tranh chấp hay yêu cầu đối với ông
V và ông T2 nên không xem xét giải quyết.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng quyền kháng cáo,
quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự.
Ngày 27/5/2025, các nguyên đơn ông Đặng Văn N, Đặng Thị N1,
Đặng Thị N2 nộp đơn kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự thẩm số: 82/2025/DS-
ST ngày 15/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đnghị cấp phúc thẩm
sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác
định nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, yêu cầu Tòa án
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với do cho rằng: đất tranh chấp
của ông N4 đã khai hoang tnăm 1976, quản lý, sử dụng đưa vào tập đoàn
sau đó được tập đoàn giao lại cho ông N4. Năm 1993, ông N4 khai sổ mục
tại các thửa 483, 491, 492 cùng tờ bản đồ số 05. Năm 1997-1998 gia đình ông
N4 chuyển đến Đồng Nai sinh sống thì phía ông K, ông T1 vào chiếm đất sử dụng
cho đến nay. Trên sở lời trình bày, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn yêu cầu Tòa án chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn.
Phía bị đơn không đồng ý kháng cáo của nguyên đơn, yêu cầu Hội đồng xét
xử giữ nguyên nội dung bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng đã
tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Kháng cáo của các nguyên đơn căn cứ, đề nghị Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chấp
nhận kháng cáo của các nguyên đơn ông Đặng Văn N, Đặng Thị N1, Đặng
Thị N2, sửa Bản án thẩm số: 82/2025/DS-ST ngày 15/5/2025 của Tòa án nhân
dân huyện Thạnh Phú (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9 - Vĩnh Long) theo hướng
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc các bị đơn di dời nhà, hàng rào
trả lại đất cho nguyên đơn. Công nhận quyền sở hữu các cây trồng của bị đơn
trên đất cho nguyên đơn, đồng thời buộc nguyên đơn hỗ trợ chi phí tháo dỡ di di
tài sản, trả giá trị cây trồng có trên đất theo giá Hội đồng định giá cho bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ đã được thẩm tra công khai
tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên; xét
11
kháng cáo của các nguyên đơn ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị N1, Đặng Thị
N2; Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Nguyên đơn tranh chấp yêu cầu bị đơn trả lại phần đất thuộc một phần
thửa đất số 114, 125, tờ bản đồ số 6 toạ lạc ấp A, A, huyện T, tỉnh Bến Tre nên
vụ án được xác định quan hệ tranh chấp “Tranh chấp quyền sdụng đất”
thuc thm quyn gii quyết ca Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú theo quy định
tại khoản 2, khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Bị đơn ông Văn T2, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần
Văn V, ông Hoàng T4, Nguyễn Thị N3 đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên.
Về nội dung:
Các nguyên đơn tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện tranh chấp thửa đất 276, tờ
bản đồ số 06, tọa lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre với ông T2ông T1. Xét
thấy: việc rút yêu cầu khởi kiện này của các nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện và
phù hợp với quy định tại các Điều 217, 218 Điều 219 của Bộ luật Tố tụng dân
sự nên được Hội đồng xét xử cấp thẩm đình chỉ phần yêu cầu nói trên đúng
quy định.
Xét kháng cáo của các nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[1] Các bên đương sự thống nhất đất tranh chấp qua đo đạc thực tế diện
tích như sau: Diện tích 750,9m
2
thuộc một phần thửa 125, tờ bản đồ số 6, toạ lạc ấp
A, A, huyện T, tỉnh Bến Tre do ông K sử dụng diện tích 857,2m
2
thuộc một
phần thửa 114, tờ bản đồ số 6, toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre do ông T1
sử dụng.
[2] Về đăng khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Căn cứ
vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án thì các thửa đất 483, 491, 492 tờ
bản đồ số 05 theo hồ 299 do ông N3 đăng đứng tên sổ mục năm 1993
nhưng ông N3 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thửa 483 theo
hồ đo đạc Vlap thành thửa 114, tờ bản đồ số 6, do ông T2 đăng khai
nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thửa 491, 492, cùng tờ
bản đồ số 5 theo hồ đo đạc Vlap thuộc một phần thửa 125, tbản đồ số 6 do
ông Trần Minh K đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
vào ngày 05/3/2015.
[3] Xét về nguồn gốc đất quá trình quản lý, sử dụng đối với phần đất
12
tranh chấp:
Nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu bị đơn trả lại đất cho nguyên đơn với do
cho rằng phần đất tranh chấp của ông N3 sử dụng từ năm 1976 đến năm 1994
nhưng không biết đâu ông N3 (BL 01); Tại phiên tòa phúc thẩm thì cho rằng
nguồn gốc đất do ông N3 khai hoang vào năm 1976, quản , sdụng đưa
vào tập đoàn và được tập đoàn giao lại nhưng không cung cấp được chứng cứ
chứng minh cho trình bày của nguyên đơn về nguồn gốc đất. Trong khi lời trình
bày của bị đơn về nguồn gốc phần đất tranh chấp của ông V được nhiều người
làm chứng xác nhận, phù hợp với quá trình sử dụng đất thực tế của các bên, cụ thể:
[3.1] Theo biên bản làm việc ngày 17/7/2023 của Ủy ban nhân dân xã A đối
với ông Thành T7 và ông Lê Văn N5 thì ông T7 trình bày: “...Nguồn gốc đất
ngay nhà ông N3 diện tích khoảng 1000m2, đất này của ông Trần Văn V
(Dững) cho ông N3 nhờ vào khoảng năm 1975 sau giải phóng, khoảng 01 thời
gian đến năm 1994 thì ông N3 đi L, Đồng Nai ở cho đến năm 1998 có cơn bão số 5
nên nhà ông N3 bị sập. Ông N3 cũng thường xuyên về quê, tham gia bỏ phiếu
bầu cử tại địa phương; Phần đất giáp với ông T2 khoảng hơn 700m2 nguồn gốc
của ông V, sau đó ông V vào tập đoàn do ông gia đình ông V đất nên ông V
mới cho ông N3 canh tác, năm 1994 ông N3 đi L, Đồng Nai, hiện nay phần đất này
ông T1 sử dụng...”; Ông N5 trình bày: “... Ông V có cho ông N3 cất nhà ở nhờ trên
đất vài năm, khi vợ ông N3 chết thì ông N3 cùng các con đi làm ăn xa...”. Lời trình
bày của ông T7, ông N5 phù hợp với lời trình bày của ông Bùi Văn T5, ông Đào
Văn H ông Phan Văn P, Trưởng ấp ấp A, A hiện nay. Do đó, căn cứ xác
định đất tranh chấp nguồn gốc của ông V. Ông K, ông T1 quản sử dụng
ngay tình, liên tục, công khai theo quy định tại các Điều 180, 182, 183 Bộ luật Dân
sự năm 2015.
[3.2] Mặc ông N3 đứng tên trong sổ mục năm 1993 đối với các thửa
483, 491, 492, cùng tờ bản đồ số 05 nhưng từ năm 1994 đến nay ông N3 không
sử dụng các phần đất nói trên. Phía nguyên đơn hoàn toàn thừa nhận, trong thời
gian đi lập nghiệp Đồng Nai (từ năm 1994), ông N3 thường xuyên vđịa
phương, biết phần đất nói trên do ông K, ông T1 quản lý, sử dụng xây cất nhà, xây
hàng rào, trồng cây trên đất nhưng ông N3 không bất kỳ ngăn cản, tranh chấp
nào, không khiếu nại liên quan đến việc ông N3 không được cấp giấy chứng
nhận quyền sdụng đối với các thửa 483, 491, 492, cùng tờ bản đồ số 05 ông
N3 đã khai sổ mục kê. Ngược lại, phía bđơn ông K, ông T1 trực tiếp quản lý,
sử dụng đất tranh chấp (ông K sử dụng diện tích 750,9m
2
thuộc một phần thửa 125,
tờ bản đồ số 6, toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre; ông T1 sử dụng diện tích
857,2m
2
thuộc một phần thửa 114, tờ bản đồ số 6, toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh
Bến Tre) xây dựng nhà ở, hàng rào, trồng cây không ai ngăn cản, tranh chấp
13
đồng thời đã kê khai vào sổ địa chính của Ủy ban nhân dân xã A, huyện T. Từ năm
1994 cho đến khi ông N3 chết (năm 2019) ông N3 và các nguyên đơn không có bất
kỳ tranh chấp nào với ông V, ông K, ông T1. Vậy nên, ông K được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất thửa 125, tờ bản đồ số 6 là đúng theo quy
định tại Điều 99 của Luật Đất đai năm 2013.
[3.3] Việc ông K lời trình bày về việc trả cho ông N3 số tiền 300.000
đồng với mục đích phụ phần nào công gìn giđất trong thời gian cho ông N3
nhờ đất nhưng lập văn bản giấy bán đất để tránh tranh chấp về sao. Thấy rằng ông
K quản lý, sdụng đất ng khai, liên tục, ngay tình khai được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, không phải được công nhận quyền sử dụng đất
thông qua giao dịch nhận chuyển nhượng đất của ông N3 theo quy định tại các
Điều 705, 707, 708 Bộ luật Dân sự năm 1995. Đồng thời, nguyên đơn cũng không
yêu cầu giám định hay giải quyết liên quan đến hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nói trên nên cấp sơ thẩm không xem xét vấn đề này là phù hợp.
[3.4] Ngoài ra, việc ông N3 tên trong sổ mục đăng kê khai các các
thửa 483, 491, 492, cùng tờ bản đồ số 05 vào năm 1993 cũng phù hợp với thực
tế sử dụng đất theo lời khai của bị đơn, người làm chứng về việc cho ông N3 ở nhờ
từ năm 1976 đến khi ông N3 trả đất chuyển đến Đồng Nai lập nghiệp (năm 1994).
Bởi sổ mục kê nói trên chỉ chứng minh được tại thời điểm kê khai sổ mục kê người
đang sử dụng đất (ông N3) đến khai đất với địa phương chưa thông qua
bất kỳ Hội đồng thẩm tra, xét duyệt nào hay quan thẩm quyền nào cấp hoặc
công nhận phần đất nói trên cho ông N3 quyền quản lý, sử dụng hợp pháp. Mặt
khác, sau khi khai đứng tên sổ mục năm 1993, từ năm 1994 đến khi ông N3
chết (năm 2019) trải qua 25 năm ông N3 không quản lý, sử dụng đất cho nên nếu
phần đất tranh chấp nguồn gốc ông N3 được Nhà nước cấp thì cũng đã bị thu
hồi theo quy định tại các Điều 26 Luật Đất đai năm 1993, Điều 64 Luật Đất đai
năm 2013. Cho nên việc hàng thừa kế của ông N3 (các nguyên đơn) cho rằng ông
N3 quyền quản lý, sử dụng phần đất trên để kiện đòi không căn cứ chấp
nhận.
Từ các nhận định nêu trên thấy rằng nguyên đơn không chứng minh được
đất tranh chấp có nguồn gốc của ông N3, cũng không chứng minh được ông N3
quyền quản lý, sdụng hợp pháp đối với các thửa đất 483, 491, 492 tờ bản đồ số
05 nên việc các nguyên đơn yêu cầu các bị đơn phải di dời tài sản trên đất để giao
trả đất cho các nguyên đơn không căn cứ, cấp thẩm không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp quy định pháp luật. Các nguyên đơn
kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho
yêu cầu của mình nên không được chấp nhận. Giữ nguyên Bản án thẩm số:
82/2025/DS-ST ngày 15/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến
14
Tre (nay Tòa án nhân dân Khu vực 9 - Vĩnh Long). Tuy nhiên về mặt áp dụng
điều luật giải quyết vụ án của cấp thẩm phần chưa chính xác, Hội đồng xét
xử có sự điều chỉnh cho phù hợp.
[4] Đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long không phợp với
nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các
nguyên đơn nghĩa vụ nộp án phí theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của các nguyên đơn của ông Đặng Văn N,
Đặng Thị N1 và bà Đặng Thị N2.
Giữ nguyên Bản án thẩm số: 82/2025/DS-ST ngày 15/5/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9 -
Vĩnh Long) (Có điều chỉnh về điều luật áp dụng).
Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 148, 157, 165, 217, 218, 219 Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Áp dụng Điều 26 Luật Đất đai năm 1993; Các Điều 64, 99, 203 của Luật Đất
đai năm 2013; Các Điều 17, 26, 31, 235, 236 Luật Đất đai năm 2024; Các Điều
180, 182, 183 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn N, Đặng Thị N1 và
Đặng Thị N2 về việc yêu cầu ông Lê Văn T2 và ông Trần Hữu T1 giao trả cho ông
N, bà N1 và bà N2 đối với thửa đất 276, tở bản đồ số 06, tọa lạc ấp A, xã A, huyện
T, tỉnh Bến Tre.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn N, Đặng Thị
N1 Đặng Thị N2 về việc yêu cầu ông Trần Minh K phải di dời toàn bộ cây
trồng và hàng rào ra khỏi đất để giao trả cho ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị N1
Đặng Thị N2 phần đất có diện tích 750,9m
2
thuộc một phần thửa 125, tờ bản đồ
số 6, toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn N, Đặng Thị
N1 và bà Đặng Thị N2 về việc yêu cầu ông Lê Văn T2 và ông Trần Hữu T1 phải di
15
dời toàn bộ cây trồng ra khỏi đất để giao trả cho ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị N1
và bà Đặng Thị N2 phần đất diện tích 857,2m
2
thuộc một phần thửa 114, tờ bản
đồ số 6, toạ lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre
Về độ dài tứ cận, vtrí thửa đất trích lục họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thửa 114, 125 tờ bản đồ số 6, tọa lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre kèm theo.
4. Do các nguyên đơn; bđơn không tranh chấp hay yêu cầu đối với ông
V nên không xem xét giải quyết.
5. Do ông T1 N3 không tranh chấp hay yêu cầu gì đối với ông V
ông T2 n không xem xét giải quyết.
6. Về chi phí tố tụng:
Các nguyên đơn phải nộp 8.203.550 (Tám triệu hai trăm linh ba nghìn
năm trăm năm mươi) đồng và đã nộp xong.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Đặng Văn N, bà Đặng Thị N1 và Đặng Thị N2 phải nộp 600.000
(Sáu trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
900.000 (Chín trăm nghìn) đồng theo các biên lai thu số 0000335, 0000336,
0000337 ngày 16/11/2023 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số
0001486 ngày 24/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân shuyện Thạnh Phú. Ông
Đặng Văn N, Đặng Thị N1 Đặng Thị N2 được Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Thạnh Phú (nay Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 9 - Vĩnh Long)
hoàn trả số tiền còn lại là 600.000 (Sáu trăm nghìn) đồng.
9. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Đặng Văn N, Đặng Thị N1 bà Đặng Thị N2 nghĩa vụ nộp án
phí mỗi người số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu vào số tiền
tạm ứng án phí đã nộp theo các biên lai thu số 0012327, 0012328, 0012329 cùng
ngày 27/5/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú (nay Phòng
Thi hành án dân sự Khu vực 9 - Vĩnh Long).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi
hành án n sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
16
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- TAND Khu vực 9 - Vĩnh Long;
- Phòng THADS Khu vực 9 - Vĩnh Long;
- Phòng GĐ, KT, TT & THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Rẻn
Tải về
Bản án số 531/2025/DS-PT Bản án số 531/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 531/2025/DS-PT Bản án số 531/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất