Bản án số 49/2020/HS-PT ngày 10/09/2020 của TAND tỉnh Thái Bình về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 49/2020/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 49/2020/HS-PT ngày 10/09/2020 của TAND tỉnh Thái Bình về tội đánh bạc
Tội danh: 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Thái Bình
Số hiệu: 49/2020/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/09/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 49/2020/HS-PT NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 80/2020/TLPT-HS ngày 14 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo Lại Văn H1 và Trần Việt H2 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HSST ngày 11/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lại Văn H1, sinh năm 1992, tại tỉnh Thái Bình;

Nơi cư trú: Thôn Ô, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Lại Mạnh H và bà Bùi Thị L; Có vợ: Nguyễn Hoàng D và có 01 con; Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

2. Trần Việt H2, sinh năm 1982, tại tỉnh Thái Bình;

Nơi cư trú: Số X, đường L, tổ 16, phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Trần Viết B và bà Nguyễn Thị N; Có vợ: Mai Thị T và 03 con; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Quyết định số 05 ngày 08/12/2014 của Công an phường Lê Hồng Phong, thành phố Thái Bình, xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc. Phạt Hùng 1.500.000 đồng, ngày 04/5/2015 Hùng đã nộp xong tiền phạt tại biên lai số 0022056.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt) Trong vu an con co các bị cáo Nguyễn Văn K, Trương Văn C, Bùi Ngọc H, Trần Văn T, Trần Thanh T, Nguyễn Nam H, Nguyễn Trọng T, Lương Quý H không kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị, Toa an không triêu tâp.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 17/12/2019, Nguyễn Nam H, Bùi Ngọc H, Trương Văn C, Trần Văn T, Nguyễn Văn K, Lại Văn H, Nguyễn Trọng T, Trần Thanh T, Lương Quý H và Trần Việt H cùng ăn liên hoan tại phòng ăn tầng 3, nhà hàng Y đường B, tổ 24, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Bình do anh Nguyễn Văn T làm quản lý. Trong lúc cả nhóm ngồi ăn liên hoan thì thấy 02 nam thanh niên không quen biết ngồi ăn ở bàn bên cạnh có sử dụng bát, đĩa sứ màu trắng và 04 quân vị hình tròn trên mặt bàn rồi ra về. Đến khoảng 21 giờ 30 cùng ngày, sau khi cả nhóm ăn liên hoan xong thấy có bộ bát đĩa sứ màu trắng và 04 quân vị hình tròn trên bàn nên cùng rủ nhau đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa được thua bằng tiền và sử dụng luôn bát, đĩa và quân vị đó. Những người cùng tha m gia đánh bạc thống nhất như sau: Đặt cửa theo nguyên tắc chẵn trong lẻ ngoài, nghĩa là nếu người chơi đặt cửa chẵn thì đặt số tiền muốn cược về phía trong lòng người cầm cái. Còn nếu người chơi đặt cửa lẻ thì đặt số tiền muốn đặt về phía bên ngoài bộ bát đĩa sứ của người cầm cái. Khi mở bát, nếu số lượng quân vị cùng màu là số chẵn (2 hoặc 4) thì ván đó về cửa chãn, nếu có 03 quân vị cùng màu thì ván đó về cửa lẻ. Nếu người chơi nào đặt đặt tiền trùng với cửa đã về thì sẽ được số tiền tương ứng đã đặt, nếu người chơi đặt tiền không trùng với cửa đã về thì sẽ bị thua hết số tiền đã đặt, mức đặt tiền mỗi ván tùy người chơi, tối thiểu là 10.000 đồng, tối đa không quá 100.000 đồng, mỗi ván chơi có một người đứng ra làm cái cân đối và trả tiền cho hai bên chẵn lẻ. H1 cầm cái được vài ván thì chuyển cho K cầm cái. Các đối tượng đánh xóc đĩa đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Bình phối hợp với Công an phường Hoàng Diệu vào tiến hành kiểm tra hành chính, các đối tượng đã cất hết tiền đánh bạc vào trong người và dấu bộ bát đĩa sứ cùng 04 quân vị xuống dưới gầm bàn. Quá trình kiểm tra hành chính các đối tượng trên đều khai nhận vừa xóc đĩa ăn tiền, Công an đã quản lý 01 bát, 01 đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị, số tiền đánh bạc là 13.850.000 đồng và 06 chiếc ví giả da.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận sử dụng số tiền 13.850.000 đồng để đánh bạc, bị cáo Lại Văn H1 sử dụng 1.500.000 đồng để đánh bạc, bị quản lý 1.000.000 đồng và 01 ví giả da màu đen, bị cáo Trần Việt H2 sử dụng 1.000.000 đồng để đánh bạc, bị quản lý 700.000 đồng và 01 ví giả da màu đen.

Bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HSST ngày 11/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình quyết định:

1. Tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn K, Trần Việt H2, Nguyễn Nam H, Bùi Ngọc H, Trương Văn C, Trần Văn T, Lại Văn H, Nguyễn Trọng T, Trần Thanh T và Lương Quý H phạm tội “Đánh bạc”.

2. Hình phạt:

Đối với Nguyễn Văn K, Lại Văn H1: Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Xử phạt bị cáo Lại Văn H1 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Phạt bổ sung 7.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 38, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Việt H2 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Phạt bổ sung 7.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321, Điều 65, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, khoản 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trương Văn C09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng, thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Phạt bổ sung 10.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước.

Đối với bị cáo Bùi Ngọc H, Trần Văn T: Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc H 30.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 30.000.000 đồng.

Đối với bị cáo Nguyễn Nam H, Nguyễn Trọng T, Lương Quý H: Áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 35, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Nam H 30.000.000 đồng;

xử phạt bị cáo Lương Quý H 30.000.000 đồng; xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 30.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo đối với các bị cáo.

Ngày 21/7/2020, bị cáo Lại Văn H1 kháng cáo xin hưởng án treo.

Ngày 14/7/2020, bị cáo Trần Việt H2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo Lại Văn H1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, bị cáo Trần Việt H2 bổ sung yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của cac bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm số 88/2020/HSST ngày 11/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo H1 và bị cáo H2.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Khoảng 21 giờ 30 phút đến 22 giờ 30 phút ngày 17/12/2019 tại nhà hàng Y, đường B, tổ 24, phường H, thành phố T, tỉnh Thái Bình bị cáo Lại Văn H1 và Trần Việt H2 đã có hành vi cùng Nguyễn Văn K, Nguyễn Nam H, Bùi Ngọc H, Trương Văn C, Trần Văn T, Nguyễn Trọng T, Trần Thanh T, Lương Quý H thực hiện hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức xóc đĩa. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 13.850.000 đồng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự, an toàn công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo Lại Văn H1 và Trần Việt H2 về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo thì thấy:

Các bị cáo Lại Văn H1 và Trần Việt H2 không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự, khai báo thành khẩn, nên các bị cáo đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo H1 có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, hạng ba, do đó bị cáo H1 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo H1 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo H1 có cung cấp thêm tài liệu là công văn của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định xác nhận bị cáo H1 đã cung cấp thông tin về các đối tượng hoạt động phạm tội ma túy trên địa bàn huyện Mỹ Lộc, đã cộng tác, giúp Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định điều tra, triệt xóa tụ điểm mua bán trái phép chất ma túy do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm - đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi tuyên án sơ thẩm bị cáo H2 và bị cáo H1 đã tự giác nộp toàn bộ số tiền phạt bổ sung và tiền án phí hình sự sơ thẩm theo bản án sơ thẩm đã tuyên tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, do đó các bị cáo được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là tình tiết mới phát sinh trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Xét thấy, các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, việc không cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội không ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó cần chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo H1 và H2, sửa bản án sơ thẩm cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình.

[3] Về án phí: Kháng cáo của các bị cáo Lại Văn H1 và Trần Việt H2 được chấp nhận, vì vậy các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

[1] Áp dụng điểm e khoản 1 điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lại Văn H1 và Trần Việt H2, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HSST ngày 11/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về biện pháp chấp hành hình phạt đối với bị cáo H1 và bị cáo H2.

2.1. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lại Văn H1 09(chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Ghi nhận việc bị cáo Lại Văn H1 đã nộp tiền phạt bổ sung và án phí sơ thẩm theo quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HSST ngày 11/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình với số tiền 7.200.000 đồng, tại biên lai thu tiền số 0001579 ngày 07/9/2020 và 3.000.000 đồng tại biên lai số 0001600 ngày 10/9/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Giao bị cáo Lại Văn H1 cho UBND xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2.2. Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38, Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Trần Việt H2 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 01 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Ghi nhận việc bị cáo Trần Việt H2 đã nộp tiền phạt bổ sung và án phí sơ thẩm theo quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HSST ngày 11/7/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình với số tiền 7.200.000 đồng, tại biên lai thu tiền số 0001595 ngày 07/9/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Giao bị cáo Trần Việt H2 cho UBND phường K, thành phố T, tỉnh Thái Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[3] Về án phí: Ap dung điểm h khoan 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Các bị cáo Lại Văn H1 và Trần Việt H2 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 10/9/2020.

Tải về
Bản án số 49/2020/HS-PT Bản án số 49/2020/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất