Bản án số 58/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của TAND TP. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 58/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 58/2023/HS-ST ngày 27/12/2023 của TAND TP. Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp về tội đánh bạc
Tội danh: 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hồng Ngự (TAND tỉnh Đồng Tháp)
Số hiệu: 58/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2023/TLST- HS ngày 23 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2023/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyn Văn C, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1996, tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: Ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị Gái N; chưa có vợ con; tiền án: Bản án số 72/2021/HS-ST ngày 13/12/2021, Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, xử phạt 04 tháng tù về tội đánh bạc, chấp hành xong ngày 24/5/2022; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam: Không; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Nguyễn Văn T (Thành A), sinh năm 1971; nơi cư trú: ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt.

2. Nguyễn Văn L, sinh năm 1968; nơi cư trú: ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt.

Người làm chứng: Lê Văn L1, Cao Văn L2, Trần Văn Đ1, Trương Văn Duy L3, Đặng Thị Bé H (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ 40 phút ngày 03/8/2023, nhận được tin báo tại nhà bà Nguyễn Thị Tuyết E (không có ai ở) thuộc ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Đồng Tháp, có 01 tụ điểm đánh bạc trái phép ăn thua bằng tiền, nên lực lượng Công an xã T tiến hành kiểm tra, phát hiện các đối tượng: Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn T (T), Nguyễn Văn L, Lê Văn L1, Trần Văn Đ1, Cao Văn L2 đang có hành vi đánh bạc trái phép được thua bằng tiền, hình thức lắc tài xĩu. Công xã Thường Lạc lập biên bản bắt quả tang. Quá trình điều tra, Nguyễn Văn C thừa nhận toàn bộ hành vi, vào ngày 03/8/2023, C đem theo 150.000 đồng để tham gia đánh bạc trái phép được thua bằng tiền dưới hình thức tài, xỉu. Tại tụ điểm trên C là người lắc cho Nguyễn Văn T (T), Nguyễn Văn L, Lê Văn L1, Cao Văn L2, Trương Văn Duy L3, Đặng Thị Bé H đặt cược. Đánh bạc được khoảng 04-05 ván, kết quả thua (không biết thua bao nhiêu, do số tiền đem theo để trên chiếu bạc) thì bị bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 03 (ba) hột xí ngầu, 01 (một) cái đĩa, 01(một) nắp nhựa, 01 (một) miếng bao, của C dùng để lắc tài, xỉu; 110.000 đồng (thu trên chiếu bạc, trong đó: T 10.000 đồng; Lo 10.000 đồng; còn lại 90.000 đồng là của C và những người tham gia đánh bạc).

Tại Cáo trạng truy tố số 58/CT-VKSHN ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, đề nghị:

Căn cứ khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là BLHS) tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội đánh bạc, hình phạt từ 06 đến 09 tháng tù.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu, tiêu hủy: 03 (ba) hột xí ngầu, 01 (một) cái đĩa, 01(một) nắp nhựa, 01 (một) miếng bao; Tịch thu, nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 110.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Không phát sinh, nên không đề cập.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận, không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Bị cáo khai nhận hành vi của mình như nội dung Cáo trạng, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án, đã chứng minh được:

[3] Bị cáo Nguyễn Văn C là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã bị kết án về tội đánh bạc, chưa được xóa án tích, lại tiếp tục đánh bạc bằng hình thức tài xỉu. Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo phạm Tội đánh bạc theo quy định tại Điều 321 của BLHS:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm… 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

[4] Như vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[5] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi đánh bạc là vi phạm pháp luật, do trước đó đã bị xử phạt về tội đánh bạc, nhưng vẫn tiếp tục thực hiện. Vì lười biếng lao động chân chính, muốn có tiền trên công sức của người khác, không lo làm ăn lương thiện, muốn bóc lột lẫn nhau, nên bị cáo dấn thân vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương; đánh bạc là tệ nạn xã hội, nó có thể làm phát sinh các loại tội phạm khác như cướp, trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà Nhà nước đã nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Bị cáo có lỗi cố ý trực tiếp và đã thực hiện tội phạm hoàn thành. Hành vi của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự bất chấp, xem thường pháp luật, nên phải xử phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[6] Bị cáo có 01 tiền án được sử dụng làm yếu tố cấu thành tội phạm; không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ông nội Nguyễn Văn T1 là người có công cách mạng nên xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[8] Từ những nhận định trên, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để có điều kiện răn đe, giáo dục, giúp bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội, để bị cáo thấy được lỗi lầm của mình mà phấn đấu trở thành người có ý thức chấp hành pháp luật, đồng thời cũng nhằm răn đe và phòng ngừa chung cho những ai thiếu ý thức chấp hành pháp luật có hành vi đánh bạc như bị cáo.

[9] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo làm ruộng, điều kiện kinh tế không ổn định, số tiền đánh bạc không lớn nên không áp dụng hình phạt tiền bổ sung.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Không có.

[11] Về xử lý vật chứng, tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm: Đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp nên chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[13] Các vấn đề khác cáo trạng không đề cập là phù hợp nên không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự,

1.1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm “Tội đánh bạc”.

1.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2. Căn cứ khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, xử lý vật chứng, tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm:

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 03 (ba) hột xí ngầu bằng nhựa, mỗi hột có 06 mặt có những nút màu đen và màu đỏ, đã qua sử dụng; 01 (một) cái đĩa sứ, màu trắng, đã qua sử dụng; 01 (một) cái nắp đậy bằng nhựa, có quắn băng keo màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) miếng bao có một mặt ghi chữ “T”, “X” và con số bằng mực màu xanh và màu đỏ, đã qua sử dụng.

2.2. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: Số tiền 110.000 (Một trăm mười nghìn) đồng.

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đang quản lý theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng và Biên lai thu tiền số: 0002105 cùng ngày 22 tháng 11 năm 2023.

3. Về án phí, căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn C chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/12/2023). Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Tải về
Bản án số 58/2023/HS-ST Bản án số 58/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất