Bản án số 904/2023/HS-PT ngày 11-12-2023 của TAND cấp cao về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 904/2023/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 904/2023/HS-PT ngày 11-12-2023 của TAND cấp cao về tội đánh bạc
Tội danh: 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao
Số hiệu: 904/2023/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Vũ Xuân T tội đánh bạc
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 904/2023/HS-PT
Ngày: 11/12/2023
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Hoa;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Phách;
Bà Hoàng Thị Bích Hải.
Thư phiên tòa: Nguyễn Hương - Thẩm tra viên chính Tòa án
nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Nội tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thu Hằng - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 11 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Nội, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình
sự thụ số 927/2023/TLPT-HS ngày 30 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo
Xuân T về tội “Đánh bạc”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ
thẩm số 96/2023/HS-ST ngày 21 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Hưng Yên.
* Bị cáo có kháng cáo:
Xuân T; tên gọi khác: không; giới tính: Nam; sinh năm 1987, tại:
thành phố H, tỉnh Hưng Yên; nơi cư trú: Thôn V, L, thành phố H, tỉnh Hưng
Yên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn:
10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Đức T1, sinh năm 1964
Lều ThT2, sinh m 1962; vợ Hoàng Thị D, sinh năm 1991; 02 con,
con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự:
không; b tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H từ ngày
17/02/2023 đến ngày 28/4/2023 được thay thế bằng biện pháp “Bảo lĩnh”; hiện
đang tại ngoại. Có mt.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Quốc V - Luật Công ty L1, thuộc
Đoàn Luật thành phố H; địa chỉ: Số D, ngách A, ngõ A đường P, phường T,
quận N, thành phố Hà Nội. Có mt.
2
Ngoài ra, trong v án còn 11 b cáo không kháng cáo, không b kháng
cáo, kháng ngh nên Tòa án không triu tp.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 10 phút ngày 16/02/2023, quan Cảnh sát điều tra -
Công an tỉnh H phối hợp với Công an thành phố HCông an xã L bắt quả tang
tại nhà Lều Văn T3 thôn A, L, thành phố H, tỉnh Hưng Yên, các đối tượng
gồm Lều Văn Q, Hoàng Văn N; Lều Văn L; Nguyễn Thị N1; Đoàn Trường C;
Xuân T; Mai Văn V1, Mai Văn Đ; Nguyễn n T4 đang đánh bạc sát phạt
nhau bằng tiền dưới hình thức chơi xóc đĩa (quá trình bị bắt quả tang lợi dụng sơ
hở Vũ Xuân T; Mai Văn V1, Mai Văn Đ; Nguyễn Văn T4 đã bỏ chạy; cùng thời
điểm đó tại nhà T3 còn mặt anh Hoàng Văn D1 thôn A, L Nguyễn
Nam Đ1 thôn A, xã T, huyện T nhưng D1Đ1 không tham gia đánh bạc.
Vật chứng thu giữ: 01 chiếu cói, 01 chiếc bát sứ màu trắng, 01 chiếc đĩa
sứ màu trắng hoa văn, 04 quân vị hình tròn được cắt từ quân bài chắn đều
một mặt màu đỏ kẻ karo trắng một mặt màu trắng có in chữ nho màu đen, 01
kéo màu xanh, 06 điện thoại di động thu của Q, C, N1, L, anh Đ1anh D1; 08
xe tô các loại, số tiền 68.390.000 đồng gm thu dưới chiếu bạc
61.750.000 đồng thu trên người các đối tượng 6.640.000 đồng (trong đó
thu của L 3.000.000 đồng, N1 2.140.000 đồng, C 1.500.000 đồng).
Tiến hành khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Lều Văn T3 nhưng không
thu giữ đồ vật, tài sản, tài liệu gì.
Quá trình điều tra xác định:
Chiều ngày 16/02/2023, Lều Văn Q đi đến nhà Lều Văn T3 chơi, thấy nhà
T3 lối đi vào ktìm, thuận lợi cho việc đánh bạc nên Q đã nảy sinh ý định
sẽ sử dụng nT3 để làm địa điểm tổ chức đánh bạc. Quản đặt vấn đề với T3 về
việc mượn nhà T3 để cho các đối tượng đánh bạc mỗi người tham gia đánh
bạc sẽ đóng tiền “hồ” 100.000 đồng cho T3 thì T3 đồng ý. Sau đó Q về nhà,
đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Q đi xe nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ,
biển số 89K4-8070 quay lại nhà T3. Tại đây, Q dùng điện thoại di động nhãn
hiệu Samsung màu xanh của mình gọi cho Nguyễn Văn T4, Nguyễn Thị N1,
Hoàng Văn D1, Lều Văn L, Mai Văn T5, Mai Văn V1, Mai Văn Đ Hoàng
Văn N rủ những người này đến nhà T3 đánh bạc tmọi người đồng ý. Một lúc
sau anh D1, L, T5 N đi bđến nhà T3, trên đường đi anh D1 gặp rủ anh
Nguyễn Nam Đ1 đến nhà T3 chơi.
Nguyễn Thị N1 điều khiển xe nhãn hiệu Honda Vision, biển số
89B1-692.79; Nguyễn Văn T4 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu
cam, biển số 89B1-320.47; Phạm Văn T6 đi xe ôm (không xác định được người
lái xe và biển số xe) đến nhà T3. Khoảng 30 phút sau, Nguyễn Nam Đ1 đi xe
nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh, biển số 89E1-558.98 đến, T4 gọi điện
3
thoại rủ Xuân T đến chơi. Khi đó T đang ăn cơm tối cùng Đoàn Trường C
nhà T nên T đã rủ C cùng đi đến nT3.
Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Q lấy 01 chiếc chiếu cói trải giữa nhà,
lấy 01 bát, 01 đĩa để giữa chiếu rồi lấy 04 quân bài chắn một mặt kẻ caro
màu đỏ, một mặt màu trắng có chữ nho màu đen do Q chuẩn bị từ trước đưa cho
T4, T4 dùng kéo để sẵn bàn nT3 cắt 04 quân vị hình tròn đều một mặt
màu đỏ kẻ karo trắng một mặt màu trắng có in chữ nho màu đen. Sau đó tất
cả ngồi xuống chiếu chơi đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức chơi
xóc đĩa.
Hình thức chơi xóc đĩa như sau: Người xóc cái cho bốn quân vị vào đĩa,
sau đó úp bát n xóc làm cho quân vị bên trong chuyển động, khi xóc xong
thì người chơi đặt các cửa chẵn, lẻ. Bên tay phải người xóc cái cửa chẵn, bên
tay trái người xóc cái là cửa lẻ. Các đối tượng đặt cửa xong thì người xóc cái m
bát ra, nếu 04 hoặc 02 quân vị cùng một màu thì gọi chẵn, người đặt cửa
chẵn thắng, cửa lẻ thua, nếu 03 01 quân vị cùng một màu, thì gọi lẻ,
người đặt cửa lẻ thắng, cửa chẵn thua. Người xóc cái sẽ thu tiền của bên thua và
trả tiền bên thắng, số tiền tương đương người chơi đã đặt, nếu thắng tđược
còn thiếu phải bù. Tất cả thống nhất số tiền đặt cửa thấp nhất mỗi ván là 100.000
đồng, đặt cao bao nhiêu tuỳ ý; số tiền mỗi ván tính cả hai cửa chẵn, ldao động
từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Khi bắt đầu chơi, L là người xóc cái cho Q, T5, N, N1, T4, T6 đánh bạc ở
hai cửa chẵn, lđược khoảng 15 phút thì T6 o xóc i thay L. Khi mọi người
đang đánh bạc thì Đ đi xe tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển số
29D1-509.34 đến. Khoảng 22 giờ 30 phút, T đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Super
cub màu xanh, biển số 34-349.FC và C đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu
đỏ, biển số 18F4-4609 đến, Đ, T C cùng tham gia đánh bạc, T người xóc
cái thay cho T6 để mọi người đánh bạc, T6 hết tiền nên ngồi xem. Khi các đối
tượng đang đánh bạc thì Q bảo mọi người đóng tiền “hồ” 100.000 đồng/01
người cho T3 thì tất cả đều đồng ý đưa tiền cho Q, T5 đã thua hết tiền nên
không đóng tiền “hồ”. Quản thu tiền “hồ” của 08 người tự bỏ ra 100.000
đồng của mình đóng tiền hồ” rồi đưa 900.000 đồng cho T3 bảo T3 ra cảnh
giới cho mọi người đánh bạc, T3 cầm tiền rồi đi ra đứng ở hiên trước cửa nhà để
cảnh giới. Còn T6 T5 do hết tiền nên đi về trước. Khoảng 22 giờ 45 phút
cùng ngày, V1 đi xe Honda Vision màu xanh, biển số 89B1-519.17 đến
tham gia đánh bạc (V1 chưa phải nộp tiền “hồ”). Đến khoảng 23 giờ 10 phút
cùng ngày, khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị Cơ quan Công an vào bắt quả
tang và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan.
Vào các ngày 17/02/2023, 21/02/2023 Xuân T, Nguyễn Văn T4, Mai
Văn V1, Mai Văn Đ đã đến quan Cảnh t điều tra Công an tỉnh H đầu thú
và khai nhận về hành vi phạm tội của mình .
Sau khi thực hiện hành vi phạm tội Mai Văn T5 Phạm Văn T6 đã bỏ
trốn khỏi địa phương, quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh H đã ra Quyết
định truy đối với T5 và T6. Đến ngày 06/4/2023 17/4/2023 T5 T6 đã
4
đến quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh H đầu thú khai nhận về hành vi
phạm tội của mình .
Tại Cơ quan điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội
của mình. Trước khi đánh bạc, Nguyễn Văn T4 4.000.000 đồng, Lều Văn L
có 3.000.000 đồng, Đoàn Trường C 2.800.000 đồng, Lều Văn Q có 2.200.000
đồng, Nguyễn Thị N1 khoảng 2.100.000 đồng, Phạm Văn T6 1.400.000
đồng, Xuân T 550.000 đồng, Mai Văn V1 500.000 đồng, Mai Văn Đ
500.000 đồng, Hoàng Văn N khoảng 1.000.000 đồng, Mai Văn T5
300.000 đồng đều sử dụng vào việc đánh bạc.
Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh của anh Hoàng
Văn D1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng hồng; 01 xe
nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 89E1-558.98 của anh Nguyễn Nam
Đ1. quan điều tra xác định những đvật trên không liên quan đến hành vi
phạm tội của các bị cáo nên ngày 08/5/2023 quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh H đã trả lại các tài sản trên cho anh Đ1 và anh D1.
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision màu xanh biển số 89B1-519.17
bị cáo V1 sử dụng để đi đến địa điểm đánh bạc tài sản thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của chị Hoàng Thị Q1 sinh năm 1994 ở Thôn A, xã L, thành phố H (là
vợ của V1). Ngày 04/4/2023 quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chị Hoàng Thị
Q1 chiếc xe mô tô trên.
Về vật chứng đồ vật thu giữ: Số tiền 68.390.000 đồng quan Cảnh
sát điều tra Công an tỉnh H đã nộp vào tài khoản tạm thu chờ xử tại Kho bạc
Nhà nước tỉnh H; 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ, 04 quân vị hình tròn, 01 chiếc
kéo màu xanh, 01 chiếc chiếu cói, 04 điện thoại di động, 06 xe mô được quản
lý tại kho vật chứng Công an tỉnh H.
Tại Bản án hình thẩm số 96/2023/HS-ST ngày 21 tháng 7 m
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Xuân T phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
X pht b cáo Xuân T 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù; Thời hạn tính
từ ngày đi chấp hành án, trừ thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày
17/02/2023 đến ngày 28/4/2023.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với
11 bị cáo khác; quyết định về hình phạt bsung; xử vật chứng; án phí
thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 28/7/2023, b cáo Xuân T đơn kháng cáo vi ni dung xin
gim hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
5
Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm hình phạt xin hưởng
án treo. Bcáo thành khẩn khai nhận nh vi phạm tội nBản án thẩm nêu
nộp Biên lai thu tiền s0000601 ngày 09/8/2023 của Cục thi hành án dân sự
tỉnh Hưng Yên, nội dung Vũ Xuân T nộp án phí HSST 200.000đ và hình phạt bổ
sung 10.000.000đ; bản sao Huy chương chiến svẻ vang mang tên Văn T7;
xác nhận của chính quyền địa phương về hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn.
Luật bào chữa cho bcáo ý kiến: Đồng ý tội danh và khung hình
phạt áp dụng đối với bị cáo, đề nghị xác định vai trò của bị cáo T trong vụ án
thứ yếu, đến sau không phải là người tham gia tích cực như bản án thẩm nêu,
bản án thẩm xét xử, đánh giá vai trò của bị cáo T chưa công bằng so với bị
cáo khác trong vụ án; áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải bị cáo
có nhân thân tốt; bị cáo đầu thú; trình độ văn hóa thấp; bị cáo tự nguyện nộp tiền
phạt bổ sung; bố đẻ bị o được tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang; hoàn cảnh
gia đình khó khăn các tình tiết giảm nhẹ tại điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều
51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Áp dụng
nguyên tắc nhân đạo theo Điều 3, Điều 54 Bộ luật Hình sự, đề nghị chấp nhận
kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt và xin hưởng án treo của bị cáo, thời gian thử thách 5 năm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm:
Về thủ tục tố tụng: Những người tiến nh tố tụng những người tham
gia tố tụng thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định.
Về nội dung kháng cáo: Bản án thẩm xét xử bị cáo Xuân T về tội
danh và điều luật đúng quy định, khi quyết định hình phạt đã xem xét đúng các
tình tiết giảm nhẹ tnh khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bố đẻ bị cáo được tặng
thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã nộp tài
liệu thể hiện đã nộp tiền phạt, án phí, thành khẩn khai báo thể hiện bị cáo đã ăn
năn hối cải, bị cáo đầu thú, đây các tình tiết giảm nhẹ khoản 2 Điều 51 của
Bộ luật Hình sự cần áp dụng đối với bị cáo. Bị cáo nhân thân tốt, nơi
trú ràng, công việc ổn định, xác nhận của chính quyền địa phương về
hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn xét thấy cho bị cáo được hưởng án treo
cũng đảm bảo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Do vậy, có căn cứ áp dụng
Điều 65 của Bộ luật Hình sự, chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.
Về tình tiết giảm nhẹ điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự mà luật sư đề nghị
áp dụng đối với bị cáo không căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp
nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
6
[1] Hành vi, quyết định tố tụng: Các quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng tại cấp thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc
thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại . Do đó, các hành vi, quyết định
tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều
hợp pháp.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo Vũ Xuân T đảm bảo thời hạn, hình thức, nội
dung nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[3] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Xuân T khai nhận
toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bcáo phù hợp với lời khai tại
quan điều tra, tại phiên tòa thẩm, phợp lời khai của các bị cáo khác
các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, đủ cơ sở kết luận:
[4] Chiu ngày 16/02/2023 Lều Văn Q đã hỏi mượn nLều Văn T3
thôn A, xã L, thành ph H, tỉnh Hưng Yên để t chức cho các đối tượng đánh
bạc. Khi được T3 đồng ý, Q đã điện thoi r Lều Văn Liệu, Xuân T, Mai
Văn V1, Hoàng Văn N, Mai Văn Đ, Mai Văn T5, Nguyn Th N1, Phạm Văn
T6, Đoàn Trường C, Nguyễn Văn T4 đến cùng Quản đánh bạc dưới hình thc
chơi xóc đĩa đồng thi phân công Thun canh gác. Quản đã thu tiền h ca các
đối tượng được 900.000 đồng và đưa cho T3. Các đối tượng đánh bạc đến 23 gi
10 phút cùng ngày thì b bt qu tang. Tng s tin các b cáo s dụng vào đánh
bạc là 68.390.000 đồng.
[5] Hành vi nêu trên ca b cáo Xuân T đã đủ yếu t cu thành ti
Đánh bạc vi tình tiết định khung S tin dùng vào việc đánh bc tr g
50.000.000đ tr lên”. Do vy, Bản án thẩm xét x b cáo Xuân T v ti
“Đánh bạc” quy đnh tại điểm b khoản 2 Điều 321 B lut Hình s có căn cứ,
đúng người, đúng pháp luật.
[6] Xét kháng cáo ca b cáo xin gim nh hình phạt xin ng án
treo, Hội đồng xét x thy:
[7] Bản án thm khi quyết định hình phạt đối vi b cáo đã xem xét
tình tiết gim nh thành khẩn khai báo, ăn năn hối ci b cáo b đẻ đưc
tặng Huy chương chiến s v vang theo quy định tại điểm s khon 1, khon 2
Điu 51 ca B lut Hình s có căn c. Bản án sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết
gim nh b cáo đầu thú ti phiên tòa phúc thm b cáo tiếp tc thành khn
khai báo, ăn năn hi cải đã nộp toàn b tin pht hình pht b sung
10.000.000đ (mười triệu đồng), đây các tình tiết gim nh theo quy định ti
khoản 2 Điều 51 ca B lut Hình s nên cn xem xét cho b cáo; do vậy, có căn
c gim mt phn hình pht cho b cáo mc khởi điểm ca khung hình pht.
Luật sư bào cha cho b cáo đề ngh áp dng tình tiết gim nh phm ti lần đu
thuộc trường hp ít nghiêm trọng theo đim i khoản 1 Điều 51 ca B lut Hình
s áp dụng Điều 54 B lut Hình s x pht b cáo dưới mc thp nht ca
7
khung hình phạt là không có căn c, bi khung hình pht áp dụng đối vi b cáo
theo khon 2 Điu 321 ca B lut hình s là thuộc trương hợp nghiêm trng.
[8] Xét thy b cáo nhiu tình tiết gim nhẹ, đã thật s nhn thc
hành vi vi phm ca mình, ăn năn hối hn. B cáo nhân thân tốt, trước khi
phm ti ln này b cáo luôn chp hành tt pháp luật, nơi trú ràng, xét
thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù việc cho bị cáo hưởng
án treo cũng đảm bảo giáo dục bị cáo, phòng ngừa chung không gây nguy
hiểm cho hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn hội. Do
vậy, căn cứ áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự, chấp nhận kháng cáo xin
hưởng án treo của bị cáo ấn định thời gian thử thách đối với bcáo theo quy
định.
[9] Từ các nhận định nêu trên, căn cứ chấp nhận đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội về việc chấp nhận kháng cáo xin
hưởng án treo của bị cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm.
[10] Về án phí: Kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án
phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn c: đim b khoản 1 Điều 355, Điều 357 B lut T tng Hình s;
Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy ban Thường v
Quc hội quy định v án phí và l phí Tòa án.
Chp nhn kháng cáo ca b cáo Xuân T. Sa Bản án hình sự sơ thẩm
số 96/2023/HS-ST ngày 21/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, như
sau:
1. Tuyên bố bị cáo Vũ Xuân T phm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 3 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ
sung năm 2017.
X pht b cáo Vũ Xuân T 03 (ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời
gian thử thách 05 (năm) năm, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Xuân T cho L, thành phố H, tỉnh ng Yên giám sát,
giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi trú thì thực
hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử
thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án
thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt
của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới
thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp
với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
8
2. V hình pht b sung: Ghi nhn b cáo Xuân T đã nộp 10.000.000đ
(Mười triệu đồng) tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000601 ngày 09/8/2023 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.
3. V án phí: Bị cáo Xuân T không phải chịu án phí hình sự phúc
thẩm.
Ghi nhận bcáo Xuân T đã nộp tiền án phí hình sự thẩm 200.000
đồng tại tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0000601 ngày 09/8/2023 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.
4. Các quyết định khác ca bản án sơ thm không kháng cáo, không b
kháng ngh có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
5. Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSNDCC ti Hà Ni;
- TAND tỉnh Hưng Yên;
- VKSND tỉnh Hưng Yên;
- Cc THADS tỉnh Hưng Yên;
- Công an tỉnh Hưng Yên;
- S Tư pháp tỉnh Hưng Yên;
- UBND xã Liên Phương, thành
ph Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên;
- B cáo (theo địa ch);
- Lưu HSVA; HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyn Ngc Hoa
Tải về
Bản án 904/2023/HS-PT Bản án 904/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án 904/2023/HS-PT Bản án 904/2023/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất