Bản án số 288/2023/HS-ST ngày 06/12/2023 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 288/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 288/2023/HS-ST ngày 06/12/2023 của TAND Q. Bình Tân, TP. Hồ Chí Minh về tội đánh bạc
Tội danh: 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Bình Tân (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 288/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/12/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Võ Thị Thanh M “Tội đánh bạc”
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
QUẬN BÌNH TÂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do Hạnh phúc
Bản án số: 288/2023/HS-ST
Ngày 06-12-2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Huỳnh Văn Ái;
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đinh Minh Hoàng Nguyễn Thị Tuyết
Hạnh.
- Thư phiên tòa: Ông Chiêm Tiền Quí Nhân Thư Tòa án nhân dân
quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận nh Tân, Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Việt Trung - Kiểm sát viên.
Ngày 06 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thẩm thụ số:
367/2023/TLST-HS, ngày 25 tháng 10 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 412/2023/QĐXXST-HS, ngày 24 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Thị Thanh M, sinh năm 1979, tại tỉnh Bến Tre. Nơi đăng hộ khẩu
thường trú chỗ hiện nay: Nhà số C, đường C, phường B, quận B, Thành phố
Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Mua bán nhỏ; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh;
giới tính: Nữ; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn M1
Nguyễn Thị G; chồng 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không có;
nhân thân: Ngày 14/3/2003, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
xử phạt 10 tháng về “Tội trộm cắp tài sản” (chấp hành xong hình phạt chính
ngày 29/9/2003 và quyết định khác tháng 5/2003, án tích đã được xóa); bị bắt tạm
giữ ngày 25-5-2023 (tính theo biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an
phường B, quận B lập lúc 16 giờ 10 phút ngày 25-5-2023 và kết thúc lúc 16 giờ 45
phút cùng ngày), hủy bỏ Quyết định tạm githay thế bằng Lệnh cấm đi khỏi
nơi cư trú ngày 31-5-2023; bị cáo tại ngoại “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 16 giờ ngày 25/5/2023, Đội Cảnh sát Điều tra về Trật tự Xã
hội-Công an quận B cùng với Công an phường B tiến hành kiểm tra bắt quả tang
Thị Thanh M đã ghi bán số đề vừa xong cho anh Trần Tấn P tại nhà số C,
đường C, phường B, quận B gồm các số: 28-33-12 đá 1.000 đồng 02 đài Tây Ninh
An Giang; 29-15-52 đá 1.000 đồng 02 đài Tây Ninh An Giang; 512, 712 xỉu
chủ 10.000 đồng 02 đài Tây Ninh An Giang với tổng số tiền thể hiện trên phơi
đề 472.000 đồng, tuy khấu trừ 20% tiền cò nhưng M đã thực nhận của anh P
2
số tiền 410.000 đồng. Lúc này, Công an thu giữ gồm: 01 tờ phơi đề của anh P; 17
tờ phơi đề ghi bán trong ngày 25/5/2023, 5.000.000 đồng (trong đó 200.000
đồng của M dùng để thối lại cho người mua) cùng với các công cụ khác của M nên
tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với M rồi sau đó chuyển
cho quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, M đã khai nhận: Trước
lúc bị bắt khoảng 05 ngày, người tên L (không rõ lai lịch) đến kêu M ghi bán đề
để ởng tiền công lúc này, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên M đồng ý. Khi
đó, tiền công là 2,5% tính trên tổng số tiền ghi trên phơi đã bán; ngoài ra còn được
hưởng tiền chênh lệch như sau: Người mua 02 số bao lô hoặc tài xỉu nếu trúng, tên
L giao tiền theo tỷ lệ 1 gấp 75 lần, M chỉ trả cho người trúng gấp 73 lần; tương tự,
03 số nếu trúng gấp 650 lần, chỉ trả gấp 630 lần; còn 04 số nếu trúng gấp 5.500 lần,
chỉ trả gấp 5.300 lần; số đá nếu trúng gấp 650 lần, chỉ trả gấp 630 lần; riêng đầu,
đuôi nếu trúng gấp 75 lần, chỉ trả gấp 73 lần. Nvậy, tổng số tiền ghi trên 17 t
phơi đề mà M đã ghi bán trong ngày 25/5/2023 5.977.000 đồng, nhưng do phải
trừ tiền 20% cho khách 3.200 đồng nên thực tế chỉ thu được 4.800.000
đồng. Ngoài ra trong thời gian 05 ngày ghi bán số đtrước đó, mỗi ngày Mai đều
thu lợi được 150.000 đồng, tổng cộng 750.000 đồng.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Võ Thị Thanh M đã khai nhận: Do đang trong
lúc cần tiền nuôi con thì tên L (không lai lịch) đến kêu bị cáo ghi bán đđể
hưởng tiền công nên bị cáo đồng ý. Theo đó, bị cáo bắt đầu ghi bán số đề thuê cho
tên này từ ngày 24/5/2023 cho đến khi đã ghi bán số đề xong cho anh Trần Tấn P
gồm các số: 28-33-12 đá 1.000 đồng 02 đài Tây Ninh và An Giang; 29-15-52 đá
1.000 đồng 02 đài Tây Ninh An Giang; 512, 712 xỉu chủ 10.000 đồng 02 đài
Tây Ninh An Giang với tổng số tiền thhiện trên phơi đề là 472.000 đồng, tuy
có khấu trừ 20% tiền cò nhưng bị cáo đã thực nhận của anh P số tiền 410.000 đồng
thì bị Công an vào kiểm tra bắt giữ. Trong ngày 25/5/2023, bị cáo đã bán số đề với
tổng số tiền được thể hiện trên 17 tờ phơi đề mà Công an đã thu giữ 5.977.000
đồng nên nay bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung
Cáo trạng đã nêu truy tố. Đồng thời, do phải trừ tiền 20% cho người mua
3.200 đồng nên thực tế chỉ thu được 4.800.000 đồng; ngoài ra trong khoảng thời
gian 05 ngày ghi bán số đề trước đó, mỗi ngày bcáo đều thu lợi được 150.000
đồng, tổng cộng 750.000 đồng. Bị cáo không ý kiến về việc giải quyết vt
chứng đã bị tạm giữ và số tiền thu lợi như đã khai.
Tại Cáo trạng số: 308/CT-VKS, ngày 17 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm
sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Thị
Thanh M ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét
xử về “Tội đánh bạc”, theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội
tranh luận ý kiến: Bị cáo Thị Thanh M đã hành vi ghi bán số đề thắng
thua bằng tiền với người mua số đề thuê cho tên L (không rõ lai lịch) để hưởng lợi.
Lúc bị bắt giữ, tổng số tiền thể hiện trên 17 tờ phơi đề bị cáo ghi bán trong
ngày 25/5/2023 5.977.000 đồng đây chính số tiền dùng vào việc đánh bạc
3
của bị cáo. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho hội, đã gây mất trật tự trị an tại
địa phương nên cần phải xử bcáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
hoàn cảnh gia đình khó khăn, một mình nuôi con còn nhỏ, nghĩ nên xem xét
giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt lẽ ra bcáo phải chịu. Do đó, giữ
nguyên quyết định đã truy tố đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều
321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt
bị cáo với mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về “Tội đánh bạc”, nhưng cho
hưởng án treo với thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm. Buộc bị cáo nộp lại
số tiền thu lợi bất chính 750.000 đồng; còn về vật chứng, đề nghị tịch thu sung
quỹ Nhà nước số tiền 5.000.000 đồng; tịch thu tiêu hủy gồm: 01 cái máy tính hiệu
Casio, 01 cây viết bi và 02 tập giấy can.
Bị cáo không tranh luận bào chữa về hành vi đã bị truy tố; còn lời nói
sau cùng thì bị cáo trình bày: Sau khi bị cáo sinh con Zhong H (sinh ngày
16/9/2015), do chồng của bị cáo là ông Zhong Xiao Y (quốc tịch: Trung quốc) tự ý
bỏ về nước cho đến nay mà không cấp dưỡng cho con nên bị cáo xin được hưởng
án treo để điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con còn nhỏ cam kết không tái
phạm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của quan điều tra-Công an quận B, Điều tra
viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy
tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng
Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên a, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại
về hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do
đó, các hành vi, quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ trong hồ lời khai của bcáo
Thị Thanh M tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Trong ngày 25/5/2023, tại nhà số C,
đường C, phường B, quận B. Bị cáo đã hành vi đánh bạc trái phép dưới hình
thức ghi bán số đề cho những người mua rồi sau đó giao phơi đề và tiền lại cho tên
L (không rõ lai lịch) để hưởng tiền công với tổng số tiền thể hiện trên 17 tờ phơi đề
được chiết tính ra 5.977.000 đồng đây cũng chính số tiền mà bị cáo dùng
vào việc đánh bạc. Do đó, bị cáo Võ Thị Thanh M đã phạm tội “Tội đánh bạc”, tội
phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp
với các lời khai trước đây tại quan điều tra, lời khai của người liên quan;
biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được…nên đã đủ chứng
cứ buộc tội bị cáo một phần đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên sở
chấp nhận; riêng đối với trường hợp, tuy bị cáo khai trong thời gian 05 ngày
4
trước lúc bị bắt, mỗi ngày đều hưởng lợi được 150.000 đồng, tổng cộng 750.000
đồng thì đó mới chỉ lời khai của bị cáo, trong khi không có bất kỳ chứng cứ nào
khác để chứng minh cho lời khai này nên không đcăn cứ xử lý trách nhiệm
hình sự cũng như truy thu số tiền này theo lời khai của bị cáo. Còn anh Trần Tấn P,
tuy hành vi mua số đề của bị cáo với số tiền 472.000 đồng, nhưng do định
lượng dưới 5.000.000 đồng và anh không có tiền án, tiền sự gì về hành vi này hoặc
hành vi tổ chức đánh bạc nên không đủ yếu tố cấu thành “Tội đánh bạc”, theo quy
định tại Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà phải chuyển sang xử phạt vi phạm
hành chính căn cứ. Riêng tên L người thuê bị cáo ghi bán số đề 16
người mua số đề của bị cáo thì đều do không lai lịch nên quan điều tra còn
đang tiếp tục truy xét cho đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau là phù hợp.
[4] Hành vi phạm tội của bị cáo tuy ít nghiêm trọng nhưng đã gây mất trật tự
trị an tại địa phương tạo tâm lý bất an trong đời sống cộng đồng khu dân cư. Bị
cáo nhận thức được việc làm của mình sai, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý
thực hiện nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm và tương xứng. Tuy
nhiên, tại quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo đã thành khẩn
khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoàn cảnh
khó khăn là lao động duy nhất nuôi con còn nhỏ nên cần được xem xét giảm
nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều
51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[5] Xét tuy vào ngày 14/3/2003, bị cáo đã bị kết án 10 tháng tù về “Tội trộm
cắp tài sản”. Nhưng do bị cáo đã chấp hành xong bản án vào ngày 29/9/2003
đương nhiên được xóa án tích kể từ ngày 01/10/2005 tính đến ngày phạm tội
mới đã hơn 17 năm; đồng thời, bị cáo nhiều tình tiết giảm nhẹ như vừa nêu trên,
không tình tiết tăng nặng nào; chỉ ghi bán số đề thuê với thời gian ngắn và số
tiền dùng vào đánh bạc nhỏ; nơi trú ràng việc làm ổn định nên không
cần thiết phải bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù áp dụng Điều 65 Bộ luật
hình sự năm 2015 cho bị cáo hưởng án treo như đề nghị của Kiểm sát viên cũng
tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra đủ sức
giáo dục, răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình
sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng”; do đó, bo có thể báp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền.
Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy:
bị cáo không có điều kiện kinh tế n Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng
hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: Đối với số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng tiền của bị
cáo dùng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 cây
viết bi đỏ, 02 tập giấy can chưa qua sử dụng 01 máy tính hiệu Casio DX-120B
của bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện phạm tội, không còn giá trị nên cần
tịch thu để tiêu hủy.
5
[8] Bị cáo Võ Thị Thanh M phải chịu án phí hình sự thẩm theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1,
2 và 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xử phạt bị cáo Thị Thanh M 01 (một) năm về Tội đánh bạc”, cho
hưởng án treo; thời gian thử thách là 02 (hai) năm, kể từ ngày 06-12-2023.
Giao bị cáo Thị Thanh M cho Ủy ban nhân dân phường B, quận B,
Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Nếu trong
trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành
án hình sự.
“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
02 lần trở lên thì Tòa án thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải
chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.
{
2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
- Tịch tịch sung quỹ Nhà nước số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng.
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 cây viết bi đỏ, 02 tập giấy can chưa qua sử dụng
và 01 máy tính hiệu Casio DX-120B.
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm
giữ theo Phiếu nhập kho số: NK24/15TAM, ngày 18/10/2023. Riêng số tiền
5.000.000 đồng đã được Công an quận B gửi vào Kho bạc Nhà nước quận B theo
giấy nộp tiền, chứng từ giao dịch Lệnh thanh toán ngày 29/6/2023 của Ngân
hàng N-Chi nhánh B)
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố
tụng Hình snăm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Thị Thanh M phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình
sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 333 Bộ luật Tố tụng
Hình sự năm 2015.
6
Bị cáo Thị Thanh M quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án.
(Đã giải thích chế định án treo cho bị cáo)
Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND TP . HCM; Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa
- Sở Tư pháp TP . HCM;
- VKSND QBT;
- CA QBT;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ –Văn phòng.
Huỳnh Văn Ái
Tải về
Bản án số 288/2023/HS-ST Bản án số 288/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất