Bản án số 47/2025/DS-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 47/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 47/2025/DS-PT ngày 20/03/2025 của TAND tỉnh Bắc Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bắc Giang
Số hiệu: 47/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị H, anh Q xác định ông P lấn chiếm đất yêu cầu ông P trả lại đất. Toà án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Chị H kháng cáo bản án đề nghị Toà án phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm. HĐXX phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC GIANG
Bản án số: 47/2025/DS-PT
Ngày 20 - 3 2025
“V/v tranh chấp quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hằng
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Tú và bà Phạm Thị Chuyền
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Mỹ Hạnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Giang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên toà:
Ngô Thị Vân Anh - Kiểm sát viên trung cấp.
Trong ngày 20 tháng 3 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sthụ số: 259/2024/TLPT- DS ngày 12
tháng 12 năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” do bản án dân sự thẩm
số 123/2024/DS-ST ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp
Hòa bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 05/2025/QĐ-
PT ngày 03 tháng 01 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 10/2025/QĐ-PT
ngày 15 tháng 01 m 2025; Thông o thay đổi thời gian mở lại phiên toà số
09/TB-TA ngày 14 tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên toà số
29/2025/QĐ-PT ngày 20/02/2025 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1978 (có mặt)
Nguyễn Thị H, sinh năm 1981 (có mặt)
Cùng trú tại: Thôn D, xã D, huyện H, tỉnh Bắc Giang.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của H: Luật sư Đỗ Ngọc T
Công ty L, Đoàn luật sư thành phố H. Địa chỉ: P, Tòa nhà S, phường K, quận H,
thành phố Hà Nội (có đơn xin vắng mặt)
* Bị đơn: Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1962 (có mặt)
ĐKHKTT: Thôn Tân Hiệp, xã Thường Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc
Giang.
Nơi ở: Thôn Danh Thượng 2, Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc
Giang.
* Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1962
(có mặt)
ĐKHKTT: Thôn Tân Hiệp, xã Thường Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc
Giang.
2
Nơi ở: Thôn Danh Thượng 2, Danh Thắng, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc
Giang.
Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bn án dân s thẩm s 123/2024/DS-ST ngày 15 tháng 10 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tnh Bc Giang thì ni dung v án như sau:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn Q trình bày:
Ông Nguyễn Văn T1 Nguyễn Thị M bố, mẹ đẻ của ông Nguyễn Văn
Q. Ông T1 có thửa đất diện tích 283m
2
tại xã D, huyện H, tỉnh Bắc Giang được Ủy
ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện H cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(viết tắt là: GCNQSDĐ) số Q135228, vào sổ cấp GCNQSDĐ số 00843 QSDĐ/QĐ
số 151QĐ - UB (H) ngày 9/5/2001. Ngày 04/9/2002, ông Nguyễn Văn T1 chuyển
nhượng cho ông Nguyễn Văn P, địa chỉ thôn T, T, huyện H, tỉnh Bắc Giang
110m
2
đất với các cạnh thửa đất là mặt tiền đường 295 dài 6m, mặt hậu dài 6m, hai
cạnh bên chiều dài một cạnh 21m và một cạnh 16,6m. Ngày 01/4/2004, ông P được
UBND huyện H cấp GCNQSDĐ số AM 125298 thửa đất số 0, tờ bản đồ số 01, địa
chỉ thửa đất tại thôn D (nay là D), xã D, huyện H, tỉnh Bắc Giang.
Ngày 03/5/2019, ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị M tặng cho ông
Nguyễn Văn Q và Nguyễn Thị H quyền sử dụng đối với diện tích đất còn lại
của thửa đất trên theo hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất số 79/HĐTC, được
UBND xã D, huyện H, tỉnh Bắc Giang chứng thực ngày 03/5/2019, Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh B đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà và tài sản khác gắn liền với đất mang tên Nguyễn Văn Q, Nguyễn Thị H số
CR042649, vào sổ cấp GCN số CS 00117 ngày 27/5/2019, thửa số 65, tờ bản đồ số
1, diện tích sử dụng 148,9m
2
. Ông Q, H xác định diện tích đất của vợ chồng
ông, bà được cấp theo GCNQSDĐ trên thiếu 24,1m
2
so với GCNQSDĐ đã cấp
năm 2001cho ông Nguyễn Văn T1, nguyên nhân do ông P đã lấn chiếm diện tích
này. Do đó, bà H, ông Q yêu cầu ông Nguyễn Văn P trả lại 24,1m
2
đất. Tại phiên
tòa thẩm H, ông Q yêu cầu ông P tháo dỡ công trình nhà 3 tầng, công tnh
phụ (bếp), bán mái hiên phía trước trên phần đất lấn chiếm 12,7m
2
, trả lại H,
ông Q phần đất lấn chiếm 12,7m
2
theo bản đo đạc của Công ty T3 ngày 23/8/2023
với các cạnh: chiều tiếp giáp tỉnh lộ 295 khoảng 1m, chiều phía hậu đất khoảng
0,3m chạy dài hết đất nhà ông P đã được cấp GCNQSDĐ về phía giáp ranh đất vợ
chồng bà H, ông Q đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
- Bị đơn ông Nguyễn Văn P trình bày: Thửa đất số 0, tờ bản đồ số 01, có diện
tích 110m
2
địa chỉ tại thôn D (nay thôn D), D, huyện H, tỉnh Bắc Giang đã
được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ ngày 01/4/2008 mang tên Nguyễn n P
tài sản của vợ chồng ông. Nguồn gốc thửa đất do ông nhận chuyển nhượng của ông
Nguyễn n T1 (là bố đẻ của anh Q, bố chồng của chị H) theo hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 23/9/2002, đã được chứng thực tại Phòng pháp
huyện Hiệp Hòa ngày 25/9/2002. Sau khi nhận chuyển nhượng, năm 2004 ông đã
xây nhà 03 tầng tiếp giáp phần đất còn lại của ông T1, mặt tiền 05m, ng trình
phụ (bếp), mái hiên phía trước nhà. Tất cả các bức tường phía giáp đất nhà ông T1
đều xây cố định từ năm 2004. Khi ông làm nhà, ông ông T1 đã xác định ranh
3
giới đất tường nhà 3 tầng về phía giáp ranh thửa đất của ông T1 còn lại. Từ khi
vợ chồng ông làm nhà, giữa ông và ông T1 không có tranh chấp gì, sau khi ông T1
tặng đất cho vợ chồng Q, chị H thì đến năm 2023 mới phát sinh tranh chấp. Trước
khi ông T1, M tặng cho ông Q, H đất thì ông T1 đã xin cấp đổi GCNQSDĐ,
thể hiện diện tích theo đơn xin cấp đổi GCNQSDĐ là 148,9m
2
, thiếu 24,1m
2
do sai
số khi đo đạc. Sau đó ông Q, H được Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh B cấp
GCNQSDĐ vẫn thể hiện diện tích 148,9m
2
.
Nay ông xác định ranh giới giữa hai
bên đã rõ ràng, xây cố định từ năm 2004, ông Q, bà H yêu cầu trả lại 12,7m
2
đất và
tháo dỡ công trình trên phần diện tích đất 12,7m
2
ông không đồng ý.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị H1 trình bày thống
nhất với lời khai của ông P, không đồng ý trả phần diện tích đất như yêu cầu khởi
kiện của ông Q, bà H.
Với nội dung trên, bản án dân sự sơ thẩm số 123/2024/DS-ST ngày
15/10/2024 của Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đã căn cứ khoản
9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146; Điều 147;
Điều 156; Điều 157; Điều 158; Điều 164; Điều 165; Điều 166; Điều 271; khoản 1
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 174; Điều 175; Điều 176 Bộ luật Dân s;
Điều 100; Điều 166; Điều 170; Điều 203 Luật Đất đai 2013; Khoản 1, khoản 3
Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản s
dụng án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn
Q về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn P trả lại phần diện tích lấn chiếm 12,7 m
2
.
- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn
Q về việc buộc ông Nguyễn Văn P tháo dỡ tường nhà 03 tầng, công trình phụ
(bếp), mái hiên trên phần diện tích đất 12,7 m
2
.
Ngoài ra án thm còn tuyên v chi phí định giá, thẩm đnh tài sn, án phí,
quyn kháng cáo, quyn yêu cầu thi hành án cho các bên đương sự.
Ngày 25/10/2024, Nguyn Th H kháng cáo toàn b ni dung bản án
thẩm, đ ngh Tòa phúc thm sa toàn b bản án thẩm theo hướng chp nhn
yêu cu khi kin của nguyên đơn, buộc b đơn tháo dỡ công trình tr li din
tích đất ln chiếm 12,7m
2
.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án, nguyên đơn H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện giữ
nguyên nội dung kháng cáo,
Nguyễn Thị H trình bày: Thửa đất của vợ chồng, bà sử dụng có nguồn gốc
của bố, mẹ chồng tặng cho. Trước đây thửa đất này thửa đất của ông P cùng
thuộc một thửa, diện tích 283m
2
thuộc quyền sử dụng của bố chồng bà ông
T1. Năm 2002 ông T1 chuyển nhượng cho ông Phương diện T2 đất 110m
2
, còn lại
của ông T1 173m
2
. Năm 2019 ông T1 lập hợp đồng tặng cho vợ chồng diện
tích đất, khi này đo đạc còn lại 148,9m
2
. Như vậy, diện tích còn thiếu là 24,1m
2
diện tích đất này do gia đình ông T1 đã lấn chiếm xây sang. Ông T1 được
cấp lại GCNQSDĐ diện tích thửa đất đo là 148,9m
2
, phần diện tích thiếu đó, bà có
được giải thích sai số do đo đạc. Nay xác định bố, mẹ chồng chỉ bán cho
4
ông Phương diện T2 đất 110m
2
, mặt tiền 6m mặt hậu 6m. Bà không đồng ý kết
quả đo đạc thẩm định của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện H, chỉ đồng
ý với kết quả đo đạc của công ty T3 đã đo trước đó. Đề nghị Toà án xem xét, chấp
nhận kháng cáo, chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Ông Nguyễn Văn Q trình bày đồng nhất với ý kiến của bà H.
Ông Nguyễn Văn P trình bày: Ông mua đất của vchồng ông T1 từ năm
2002, lập hợp đồng có công chứng chứng thực, có đo đạc, bàn giao đất, sau đó ông
đã được cấp GCNQSDĐ. m 2004 ông xây dựng nhà ba tầng các công trình
giáp với ranh giới đất nhà ông T1, khi này ông T1 biết rõ, hai bên không tranh
chấp gì. Từ đó đến nay vợ chồng ông và vợ chồng ông T1 không tranh chấp gì. Vợ
chồng ông Q, H được bố, mẹ tặng cho đất, theo ông biết GCNQSDĐ do
quan nhà nước cấp đổi cho ông T1, sau đó cho ông Q, H 148,9m
2
đúng hiện
trạng đất còn li, hiện nay đo đạc ng vẫn đủ. Do đó ông không nhất trí kháng cáo
và yêu cu khi kin ca bà H, ông Q. Đề ngh HĐXX giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bà Nguyn Th H1 trình bày li khai thng nht vi li khai ca ông P.
Ông Nguyễn Văn T1 mt tại phiên toà trình bày đã chuyển nhượng đất cho
ông P t năm 2002, khi đó chỉ đo bán cho ông P 6m mt tin và 6m mt hu, chiu
dài hai cnh bên hết đất, không đo tổng diện tích, hai bên giao đất, phân đnh
rang gii. T đó đến nay không tranh chp gì. Phn diện tích đt còn li ca v
chồng ông đã được đo đạc, cp lại GCNQSDĐ, sau đó vợ chồng ông đã tng cho
v chng Q, H diện tích đt này. Hin v chng ông không trên đất cùng v
chng Q.
Ti biên bn làm việc ngày 12/02/2025, đại din Chi nhánh văn phòng đăng
đất đai huyện H quan tiến hành đo đạc, thẩm định đã xác định: Đối vi
ranh gii cấp GCNQSDĐ, phần giáp ranh gia hai thửa đất có diện tích theo sơ đồ
mt phn thửa đt mang tên ông Nguyễn Văn Q, Nguyn Th H đưc xác
định hình B1, B2, A4 = 1,2m
2
, t A4 đến B1 0,28m, t A4 đến B2 9,91m;
t B1 đến B2 là 10,04m. Đối vi phn din tích này là do trong quá trình xây dng
tnh l 295 đã m rng, hành lang giao thông được xác định li, do vy việc đo đạc
này là do sai s khi đo đạc, thẩm định của Toà án và đo đạc bản đồ địa chính. Còn
thc tế các bên s dng ranh gii ràng bức tường nhà ba tng, din tích
thc tế thửa đất ông Q, bà H s dụng đủ diện tích theo GCNQSDĐ.
Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu
ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ đến khi mở phiên tòa tại phiên
tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử (viết tắt là: HĐXX) đã thực hiện đúng, đủ quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt là: BLTTDS). Sau khi xem xét yêu cầu kháng
cáo của H, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX phúc thẩm: căn cứ khoản 1
Điều 308 của BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của H, ginguyên bản án
sơ thẩm. H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
5
[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa các đương sự đều mặt đủ, luật bảo v
quyền lợi ích hợp pháp cho bà H đơn xin vắng mặt, HĐXX căn cứ Điều 296 Bộ
luật tố tụng dân sự xét xử vụ án theo quy định.
[2]. Bà Nguyễn Thị H kháng cáo trong thời hạn, thực hiện đúng nghĩa vụ nộp
tiền tạm ứng án phí, HĐXX chấp nhận xem xét kháng cáo của bà H theo quy định.
[3]. Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị H: Theo nội dung kháng cáo, đơn khởi
kiện lời trình bày tại phiên toà phúc thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị H xác định
ông Nguyễn Văn P đã xây dựng công trình lấn chiếm sang thửa đất của vợ chồng
Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn Q, yêu cầu ông P phải tháo dỡ công trình xây
dựng trên diện tích đất lấn chiếm và trả lại phần diện tích đất lấn chiếm 12,7m
2
,
HĐXX thấy:
[4]. Ông Nguyễn Văn T1 được UBND huyện H cấp GCNQSDĐ số Q135228,
vào sổ cấp GCN số 00843…QSDĐ/QĐ số 151QĐ - UB (H) ngày 09/5/2001, đối
với thửa đất diện tích 283m
2
tại thôn D, D, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Ngày
23/9/2002, ông T1 chuyển nhượng một phần diện tích đất trong thửa đất trên cho
ông Nguyễn Văn P. Hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, được
Phòng pháp huyện Hiệp Hòa chứng thực ngày 25/9/2002, diện tích chuyển
nhượng 110m
2
. m 2004 ông P đã xây nhà 03 tầng và một số công trình trên
diện tích đất này ngày 01/4/2008 ông P được cấp GCNQSDĐ số AM 125298
đối với thửa đất số 0, tờ bản đồ số 01 mang tên ông Nguyễn Văn P, diện tích được
cấp theo giấy chứng nhận là 110 m
2
.
[5]. Đối với phần diện tích đất còn lại của ông Nguyễn Văn T1 đã được chỉnh
trên GCNQSDĐ số Q135228 là 273m
2
. Ngày 28/3/2019, ông T1 có đơn đề nghị
cấp lại, cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhàvà tài sản
khác gắn liền với đất. Tại mục thông tin thửa đất thể hiện thửa số 65, tờ bản đồ
số 01, diện tích 148,9m
2
. Tại mục sự thay đổi đường ranh giới thửa đất ghi: “ Thửa
đất đường ranh giới ràng, sử dụng ổn định không tranh chấp, diện tích
giảm 24,1m
2
là do sai số đo đạc”. Nội dung trên đã được UBND xã D và Chi nhánh
Văn phòng đăng đất đai huyện H xác nhận. Ngày 17/4/2019, Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất sCR034902 cho ông Nguyễn Văn T1 đối với thửa
đất số 65, tờ bản đồ số 01, diện tích 148,9m
2
. Ngày 03/5/2019, ông Nguyễn Văn
T1, La Thị M1 lập hợp đồng tặng cho con trai con dâu Nguyễn Văn Q,
Nguyễn Thị H quyền sử dụng đối với thửa đất số 65, tờ bản đồ số 01, diện tích
148,9m
2
theo hợp đồng số 79/HĐTC, được UBND xã D, huyện H chứng thực ngày
03/5/2019. Trên sở đó, ông Nguyễn Văn Q, Nguyễn Thị H được Sở i
nguyên Môi trường tỉnh B cấp chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CR042649 ngày 27/5/2019.
[6]. Căn cứ kết quả đo đạc hiện trạng sử dụng đất cho thấy, tha đất vợ chồng
ông P, H1 đang sử dụng diện tích 114,5m
2
, thể hiện các cạnh là: phía Bắc
chiều dài 17,38m; phía Đông dài 5,89m; Nam dài 21m; Tây dài 5,54m; Thửa đất
vợ chồng ông Q, bà H sử dụng có diện tích 148,9m
2
, thể hiện các cạnh là: Phía Bắc
dài 10,50m; Đ gồm các đoạn (3,23 +5,97)m = 9,2m; Nam dài 17,38m; Tây dài
(12,55+0,68)m= 13,23m. Kiểm tra, đối chiếu ranh giới mỗi thửa đất theo hiện
trạng sử dụng với ranh giới mỗi thửa đất theo GCNQSDĐ đã được cấp cho thấy
thửa đất số 65, tờ bản đồ số 01 của ông Q, H các cạnh phía Đông, N, B đều
6
thể hiện đủ chiều dài, cạnh phía Tây giáp đường 295 thể hiện thiếu cạnh bằng
0,28m so với GCNQSDĐ đã cấp. Phần thiếu này trùng với một phần bức tường
nhà ba tầng gia đình ông P xây dựng, đã được đại diện chi nhánh văn phòng đăng
ký đất đai huyện H xác định diện tích chênh lệch là do sai số đo đạc. Như vậy, thực
tế sử dụng đất của gia đình ông P gia đình bà H ranh giới rõ ràng, phân định
bằng bức tường ngôi nhà ông P, một cạnh thửa đất của gia đình anh Q, chị H
thiếu diện tích không đáng kể được xác định chênh lệch do đo đạc, tổng diện
tích đất gia đình bà H sử dụng vẫn đủ 148,9m
2
đúng như GCNQSDĐ số CR042649
ngày 27/5/2019 do Sở Tài Nguyên Môi trường tỉnh B đã cấp cho ông Q, H.
Do vậy, việc ông Q, bà H khởi kiện xác định ông P, H1 đã xây dựng công trình
lấn sang diện tích đất 12,7m
2
là không có căn cứ.
[7]. Quá trình xét xử, ông Q, bà H nêu căn cứ để xác định ông P, H1 lấn
sang đất nông, GCNQSDĐ số Q135223 cấp ngày 09/5/2001 do UBND
huyện H đã cấp cho ông Nguyễn Văn T1. Tuy nhiên, căn cứ hồ sơ cấp GCNQSDĐ
cho ông Nguyễn Văn T1, cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, Nguyễn Thị H thì
thửa đất số 65, tờ bản đồ số 01 đã được đo đạc, cấp lại GCNQSDĐ từ năm 2019,
trong hồ này cơ quan thẩm quyền đã xác định nguyên nhân thiếu hụt diện
tích 24,1m
2
so với GCNQSDĐ cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T1 năm 2001 là do sai
số do đo đạc, ông T1 cũng đã xác nhận phần diện tích thiếu trên trong đơn xin
cấp đổi GCNQSDĐ. Do vậy, ông Q, bà H xác định bị thiếu diện tích theo
GCNQSDĐ đã cấp cho ông T1 và yêu cầu ông P, bà H1 phải trả diện tích đất thiếu
trên là không có căn cứ.
[8]. Tại phiên toà H nêu ý kiến không đồng ý với kết quả đo đạc của Chi
nhánh văn phòng đăng đất đai huyện H. HĐXX thấy việc đo đạc, thẩm định,
định giá tài sản tranh chấp tại cấp thẩm đã được thực hiện đúng quy định của
pháp luật, quá trình xét xử thẩm H, ông Q không ý kiến về kết quả đo
đạc, tại phiên toà phúc thẩm H không yêu cầu đo đạc, thẩm định lại, do đó ý
kiến trên của H không có căn cứ.
[9]. Từ những phân tích trên, HĐXX phúc thẩm thấy Tòa án cấp thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Q, bà H là có căn cứ theo quy định tại
các Điều 174; Điều 175; Điều 176 Bộ luật dân sự Điều 100; Điều 166; Điều
170; Điều 203 Luật Đất đai 2013. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án thẩm thụ
lý, giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng, đủ người tham gia tố tụng,
tiến hành các thủ tục tố tụng đầy đủ, đảm bảo. vậy không căn cứ chấp nhận
kháng cáo của bà Nguyễn Thị H về việc sửa bản án dân sự sơ thẩm.
[10]. Về án phí dân sphúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm theo quy định
tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[11]. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng
nghị, HĐXX không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ Luật Tố tụng dân sự
7
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị H. Giữ nguyên bản án dân sự
thẩm số 123/2024/DS-ST ngày 15/10/2024 ca Toà án nhân dân huyn Hip
Hòa, tnh Bc Giang.
2. Về án phí: Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự
phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai
thu số 0004246 ngày 25/10/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa,
tỉnh Bắc Giang.
3. Các quyết định khác của án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- TAND, Chi cục THADS cấp sơ thẩm;
- Các đương sự;
- Lưu HS; VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Hằng
Tải về
Bản án số 47/2025/DS-PT Bản án số 47/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 47/2025/DS-PT Bản án số 47/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất