Bản án số 46/2025/DS-PT ngày 22/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 46/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 46/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 46/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 46/2025/DS-PT ngày 22/01/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 46/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao Thị T, ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2, bà Hoàng Tú T3 về việc |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Cường
Ông Võ Ngọc Thông
Ông Nguyễn Tấn Long
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Minh Hoàng, Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: Ông Lê Văn Thành - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 181/2024/TLPT-
DS ngày 01 tháng 10 năm 2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu
cầu tháo dỡ công trình xây dựng trên đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất và hủy phần đăng ký biến động đất”
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 287/2024/QĐ-PT ngày 08 tháng
01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Cao Thị T, sinh năm 1957; ông Hoàng Anh T1, sinh
năm 1979, bà Hoàng Cẩm T2, sinh năm 1981 và bà Hoàng Tú T3, sinh năm
1984.
Cùng địa chỉ: B N, phường D, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 46/2025/DS-PT
Ngày: 22-01-2025
V/v: “ Tranh chấp quyền sử dụng
đất, yêu cầu tháo dỡ công trình xây
dựng trên đất, yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và
hủy phần đăng ký biến động đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Cao Thị Quỳnh C, sinh
năm 1959. Địa chỉ: 1 L, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có dơn xin xét
xử vắng mặt.
Người đại diện ủy quyền lại của bà Cao Thị Quỳnh C, ông Hoàng Anh
T1, bà Hoàng Cẩm T2, bà Hoàng Tú T3: Ông Tô Tiến D, sinh năm 1975. Địa
chỉ: Số E M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, ông D có mặt.
- Bị đơn: Ông Đinh Văn T4, sinh năm 1984; bà Lại Thị Thu V, sinh
năm 1987. Địa chỉ: Số B X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Phạm Hải H, sinh năm
1969.
Địa chỉ: Buôn J, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Huỳnh Bá C1, sinh năm 1979 và bà Vũ Thị Tường V1, sinh năm
1979. Địa chỉ: Số C X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng.
2. Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: Số A L, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Vũ Thị Thanh V2 – Chức vụ: Phó
trưởng phòng Tài nguyên và môi trường thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng.
3 Ông Nguyễn Trọng H1, sinh năm 1961, bà Đỗ Thị H2, sinh năm 1963.
Địa chỉ: A đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lắk, vắng.
4 Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ;
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn M - Chức vụ: Giám đốc chi
nhánh V4 đăng ký đất đai thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng.
Người kháng cáo người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn là bà
Cao Thị Quỳnh C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Trong đơn khởi kiện đề ngày 05/03/2022 và quá trình tham gia tố tụng
nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Cao Thị Quỳnh
C và người đại diện theo ủy quyền lại là ông Tô Tiến D cùng trình bày:
Năm 1989 vợ chồng ông Hoàng Ngọc T5 và bà Cao Thị Thu N chuyển
nhượng của bà Trần Thị L, thửa đất số 144 diện tích 65 m
2
và tài sản trên đất
căn nhà 7 đường L, nay là căn nhà Hẻm A đường L, TP . và được sở X cấp có
diện tích là 65 m
2
mặt trước rộng 5m và mặt sau rộng 4,5m. Nhà xây dựng mặt
trước 4,4 m và phía sau là 3,9 m còn lại 0,6 m để sân hành lang hông và trổ cửa
chính và cửa sổ bao gồm 1 cửa chính và 5 của sổ hông hành lang phía Nam có
mái che. Tháng 3 năm 2015 ông T5 có đi làm hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ
tại Phòng T8 thì được hướng dẫn về phường T xác nhận lại diện tích vì thửa đất
144 này hiện nay bị thiếu diện tích ít hơn so với trước Sở xây dựng cấp năm
1986.
3
Quá trình về xác minh, đo đạc lại, ông T5 phát hiện trong diện tích 0,6 m
x 9,18 m sân hành lang đã bị U cấp nhập một phần vào phần đất của ông
Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2, hơn nữa trong biên bản xác định ranh không
phải chữ ký của ông T5.
Về gốc nguồn gốc thửa đất 162 này là của ông Nguyễn Trọng T6 và bà
Trần Thị Như Y là bố của ông H1 thì diện tích cũng chỉ là 83,8 m
2
nhưng hiện
nay cấp cho ông H1 là 87,1 m
2
, từ diện tích lấn chiếm này cấp cho ông H1 và
ông H1 sang nhượng lại cho ông Huỳnh Bá C1 sau đó sang lại cho ông Đinh
Văn T4 và bà Lại Thu V.
Hiện nay xây dựng nhà thì ông T4 đã đập và thay đổi hiện trạng nhà, đất
của chúng tôi đang tồn tại là 06 mái che hành lang rộng 0,4 m bằng bê tông, gỗ
và tôn, sân hành lang 0,6 m và phá bỏ phần chân móng nhà chúng tôi là 0,15 m
x 9,18 m.
Trong khi ông T4 đập phá để xây dựng thì nguyên đơn có báo công an
phường T và Công an thành phố B xuống làm việc và lập biên bản làm việc, sau
đó ông T4 đã ký cam kết là không xây dựng trên đất bị tranh chấp, tuy nhiên
ông vẫn xây dựng lên phần đất tranh chấp.
Sự việc này được UBND phường T có văn bản yêu cầu ông T4 dừng việc
xây dựng phần tài sản đang tranh chấp và ngày 15/7/2019 UBND thành phố B
có văn bản số 3145 UBND-QLĐT buộc ông T4 dừng lại để giải quyết, tuy nhiên
ông T4 vẫn cố tình xây dựng trên phần đất lấn chiếm như trên.
Từ những nội dung trên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết các nội
dung sau:
- Yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết Hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BE 026040 do UBND thành phố B cấp ngày 01/06/2011
cho ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2.
- Hủy phần đăng ký biến động trên Giấy chứng nhận QSD đất số BE
026040 do UBND thành phố B cấp ngày 01/6/2011 từ ông Nguyễn Trọng H1,
bà Đỗ Thị H2 đã sang nhượng cho ông Huỳnh Bá C1 vào ngày 12/01/2017 và từ
ông C1 sang ông Định Văn T7, bà Lại Thị Thu V vào ngày 18/6/2018 tại Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành Phố B.
- Buộc ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V phải tháo dỡ toàn bộ công
trình đã xây dựng lên phần nhà, đất trái phép của nguyên đơn là 0,6 m x 9,18 m
= 5,508 m
2
và trả lại phần diện tích đất này cho nguyên đơn.
2. Quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V
mặc dù đã được tống đạt các văn bản tham gia tố tụng nhưng đều vắng mặt,
Tòa án thu thập các tài liệu là bản tự khai trong vụ án mà ông Đinh Văn T4 và
bà Lại Thị Thu V tham gia và đã đình chỉ (bút lục 196-197), tại bản tự khai và
tại phiên tòa người đại diên ủy quyền bà Trần Thị H3 có cùng ý kiến trình bày:
Tháng 6 năm 2018 vợ chồng ông T4, bà V có nhận chuyển nhượng 01
thửa đất tại số B X, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đã có quyền sử dụng
4
đất sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BE 026040 tại thửa đất số 162, tờ
bản đồ số 21, diện tích 87,1 m
2
từ ông Huỳnh Bá C1. Sau đó vào tháng 7 năm
2019 ông T4, bà V có làm thủ tục xin cấp phép xây dựng nhà ở, sau khi nhận
được giấy phép xây dựng số 1312/GPXD do UBND thành phố B cấp ngày
05/7/2019 thì ông T4, bà V đã gửi thông báo khởi công đến UBND phường T và
bắt đầu xây dựng ngày 08/7/2019 từ lúc xây dựng đến nay thì hộ liền kề là bà
Cao Thị Quỳnh C (do bà Cao Thị T ủy quyền) liên tục cản trở việc xây dựng vì
cho rằng ông T4, bà V xây dựng lấn sang phần diện tích nhà bà C. Ông T4, bà V
cho rằng việc nhận chuyển nhượng đối với thửa đất trên từ ông Huỳnh Bá C1 là
đúng quy định, ông T4, bà V đã hoàn thành nghĩa vụ thuế, việc xây dựng đúng
trên diện tích được cấp phép xây dựng cũng như diện tích nhận chuyển nhượng.
Còn việc tranh chấp trước đây giữa bà T và gia đình ông H1, bà H2 thì ông T4,
bà V không hề hay biết và vợ chồng ông T4, bà V không biết ông H1, bà H2.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì việc nhận sang
nhượng đất của ông T4, bà V là đúng quy định của pháp luật, ông T4, bà V xây
dựng nhà trên phần đất được cấp giấy chứng nhận và không có việc lấn chiếm
như bị đơn xác định.
3. Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
ông Huỳnh Bá C1 và bà Vũ Thị Tường V1 đã được tống đạt các văn bản tuy
nhiên ông C1 và bà V1 không phối hợp nhận văn bản và không tham tố tụng
nên không ghi nhận được ý kiến.
4. Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2 trình bày:
Nguổn gốc thửa đất 162, tờ bản đồ số 21 tọa lạc tại địa chỉ: số B đường X,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk là của bà nội bà Trần Thị Như Y (mẹ đẻ của ông H1)
quản lý sử dụng ổn định từ khoảng năm 1970. Năm 2002 bà Y chết thì vợ ông
Nguyễn Trọng H1 và Đỗ Thị H2 quản lý sử dụng, sau đó đến năm 2010 anh em
trong nhà thống nhất làm các thủ tục thừa kế để vợ chồng ông H1, bà H2 sử
dụng và đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến ngày 01/6/2011 thì
UBND thành phố B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 026040 do
UBND thành phố B cấp cho gia đình ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2. Quá
trình sử dụng đất thì ông H1, bà H2 sử dụng ổn định, đúng nguyên trạng thửa
đất, đến năm 2017 do không có nhu cầu sử dụng nên gia đình ông H1 làm thủ
tục chuyển nhượng lô đất trên cho ông Huỳnh Bá C1, mọi thủ tục đã hoàn tất
theo quy định của pháp luật được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận, đến
ngày 12/01/2017 thì thủ tục hoàn tất. Sau đó gia đình ông H1 chuyển đi nơi khác
sinh sống và không còn liên quan đến thửa đất trên.
Quá trình sử dụng đất từ thời bà nội là Trần Thị Như Y (mẹ đẻ của ông
H1) còn sống đến khi vợ chồng ông H1, bà H2 quản lý sử dụng đối với thửa đất
trên hoàn toàn không có tranh chấp với ai, sử dụng ổn định. Sau khi ông C1 sử
dụng chuyển nhượng cho những người khác thì ông H1 hoàn toàn không liên
quan, do đó mọi tranh chấp phát sinh sau này ông H1 hoàn toàn không biết và
5
không liên quan. Đối với các yêu cầu của gia đình bà T như nội dung thông báo
thụ lý về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận số BE 026040 do UBND nhân dân
thành phố B cấp ngày 01/6/2011 cho gia đình ông H1 và yêu cầu hủy phần đăng
ký biến động trên giấy chứng nhận từ gia đình ông H1 sang nhượng cho ông
Huỳnh Bá C1 và từ ông C1 sang nhượng cho ông Đinh Văn T4 và bà Lại Thị
Thu V, đồng thời buộc ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V phải tháo dỡ toàn bộ
công trình nhà đất trên diện tích 5,508 m
2
quan điểm của ông H1 là gia đình sử
dụng đất ổn định được các cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận hợp
pháp, việc gia đình sang nhượng cho ông C1 là hoàn toàn đúng pháp luật, còn
việc tranh chấp đất sau này giữa gia đình bà T và những chủ mới thì gia đình
không biết và không liên quan đề nghị quý tòa giải quyết theo quy định của
pháp luật. Do ông H1, bà H2 không liên quan, cũng như tuổi tác đã già, sức
khỏe kém nên ông H1, bà H2 xin từ chối tham gia tố tụng, đề nghị giải quyết xét
xử vắng mặt theo quy định.
5. Quá trình giải quyết người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan người
đại diện theo ủy quyền của UBND thành phố B trình bày:
Căn cứ khoản 1 và khoản 2 Điều 50 Luật đất đai năm 2013, Điều 14 Nghị
định 88/2009/NĐ-CP quy định về hồ sơ và trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Tháng 6 năm 2011 ông Nguyễn Trọng H1 và bà Đỗ Thị H2 được UBND
thành phố B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 026040 đối với thửa
đất 162, tờ bản đồ số 21 tại phường T, thành phố B. Ngày 27/12/2016 ông H1,
bà H2 có đơn đề nghị đăng ký biến động (chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
ông Huỳnh Bá C1, kèm theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
1225, quyển số 12TP/CC-SCC/HĐGD được Văn phòng C2 công chứng ngày
26/12/2016) và đã được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B xử lý
biến động trang 4 ngày 12/01/2017. Do đó quan điểm của UBND thành phố B là
Hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Trọng H1 và bà
Đỗ Thị H2 là đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án xem
xét các tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ kiện theo quy định.
6. Quá trình giải quyết vụ kiện người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
người đại diện theo ủy quyền của Văn phòng đăng ký đất đai – Sở tài nguyên và
môi trường tỉnh X trình bày:
Về nguồn gốc đất: Ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2 được UBND
thành phố B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản gắn liền với đất số BE 026040 ngày 01/06/2011 đới với thửa đất 162, tờ bản
đồ số 21, diện tích 87,1 m
2
, mục đích sử dụng: Đất ở đô thị, đất tại phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
1. Ngày 27/12/2016, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B
tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Trọng H1,
bà Đỗ Thị H2 và ông Huỳnh Bá C1, đối với thửa đất số 162, tờ bản đồ số 21,
diện tích 87,1m
2
, mục đích sử dụng: Đất ở tại đô thị, đất tại: phường T, thành
6
phố B, tỉnh Đắk Lắk theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 026040 do UBND thành phố B cấp
ngày 01/6/2011, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng
C2 công chứng số 12225, quyển số 12-TP/CC- SCC/HĐGD ngày 26/12/2016.
Ngày 27/12/2016, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B xử
lý hồ sơ, lập phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai
chuyển cơ quan thuế theo quy định, cùng ngày Chi cục Thuế thành phố B phát
hành thông báo nghĩa vụ tài chính. Ngày 28/12/2016, ông Nguyễn Trọng H1
nộp tiền vào ngân sách nhà nước. Ngày 12/01/2017, Chi nhánh Văn phòng Đăng
ký đất đai thành phố B xác nhận chuyển nhượng cho ông Huỳnh Bá C1 trên
trang 04 Giấy chứng nhận theo quy định. (Có hồ sơ photo kèm theo).
2. Ngày 30/5/2018, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B
tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Huỳnh Bá C1, bà
Vũ Thị Tường V3 và ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V, đối với thửa đất số
162, tờ bản đồ số 21, diện tích 87,1m
2
, mục đích sử dụng: Đất ở tại đô thị, đất
tại: phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BE 026040 do
UBND thành phố B cấp ngày 01/6/2011 được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thành phố B xác nhận chuyển nhượng cho ông Huỳnh Bá C1 trên trang
04 Giấy chứng nhận ngày 12/01/2017, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được Văn phòng C2 công chứng số 008528, quyển số 05-TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 29/5/2018. Ngày 05/6/2018, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thành phố B xử lý hồ sơ, lập phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ
tài chính về đất đai chuyển cơ quan thuế theo quy định. Ngày 12/6/2018 Chi cục
Thuế thành phố B phát hành thông báo nghĩa vụ tài chính. Ngày 14/6/2018, ông
Đinh Văn T4, bà Vũ Thị Tường V1 nộp tiền vào ngân sách nhà nước. Ngày
18/6/2018, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B xác nhận chuyển
nhượng cho ông Đinh Văn T4 và bà Lại Thị Thu V trên trang 04 Giấy chứng
nhận theo quy định.
Căn cứ Điều 188 Luật Đất đai 2013; Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật đất đai, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B giải quyết hồ
sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngày 12/01/2017 xác nhận chuyển
nhượng cho ông Huỳnh Bá C1 và ngày 18/6/2018 xác nhận chuyển nhượng cho
ông Đinh Văn T4 và bà Lại Thị Thu V trên trang 04 Giấy chứng nhận là đúng
trình tự, thủ tục theo quy định. Đối với các nội dung của nguyên đơn yêu cầu
Tòa án giải quyết, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk căn cứ các quy định
của pháp luật xét xử theo thẩm quyền.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 22/7/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
7
- Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 157, Điều 158, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 229 của Bộ
luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 170 của Luật đất đai năm 2013;
- Căn cứ Điều 175, Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ điểm đ Điều 12, khoản 3, 9 Điều 26 của Nghị quyết
326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao
Thị T, ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2, bà Hoàng Tú T3 về việc:
+ Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 026040 do UBND thành
phố B cấp ngày 01/06/2011 cho ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2.
+ Hủy phần đăng ký biến động trên Giấy chứng nhận QSD đất số BE
026040 do UBND thành phố B cấp ngày 01/6/2011 từ ông Nguyễn Trọng H1,
bà Đỗ Thị H2 đã sang nhượng cho ông Huỳnh Bá C1 vào ngày 12/01/2017 và từ
ông C1 sang ông Định Văn T7, bà lại Thị Thu V vào ngày 18/6/2018 tại Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành Phố B.
+ Buộc ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V phải tháo dỡ toàn bộ công
trình đã xây dựng lên phần nhà, đất trái phép của nguyên đơn là 0,6 m x 9,18 m
= 5,508 m
2
và trả lại phần diện tích đất này cho nguyên đơn.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 06/8/2024, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhận đơn kháng cáo đề
ngày 02/8/2024 của bà Cao Thị Quỳnh C là người đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn bà Cao Thị T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Hoàng Anh
T1, Hoàng Cẩm T2, Hoàng Tú T3, với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm
sửa bản án sơ thẩm số 15/2024/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk theo hướng chấp nhận yêu cầu nguyên đơn hoặc hủy bản
án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm thu thập đánh giá chứng cứ không đúng.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại
phiên toà phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ toạ và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã chấp
hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm.
Về nội dung: Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án có căn cứ và đúng
pháp luật; kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
không có căn cứ, kháng cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ mới làm thay đổi
bản chất nội dung vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều
8
308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên Bản án
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và xem xét quan điểm của
Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1]. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, ông Tố Tiến D1 là người đại diện
theo uỷ quyèn của nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đứng về phía nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và giữ nguyên nội dung
kháng cáo, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét sửa Bản án sơ thẩm, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2]. Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn về đề nghị Toà án cấp phúc
thẩm xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng
xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[2.1] Xét nguồn gốc các thửa đất có tranh chấp:
Về nguồn gốc thửa đất 144 (hiện nay do nguyên đơn sử dung):
Tại các bút lục số 26, 27, 29 thể hiện nguồn gốc đất được Sở xây dựng
tỉnh X cấp cho bà Trần Thị L, sinh năm 1944 sổ chứng nhận sở hữu nhà với diện
tích 65 m
2
(Diện tích đất tạm chiếm) ngày 30/8/1986. Đến ngày 10/11/1989 bà
Trần Thị L chuyển nhượng cho ông Hoàng Ngọc T5 diện tích đất trên. Hiện
thửa đất 144 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện ông
Hoàng Ngọc T5 đã chết, người quản lý sử dụng hợp pháp là các nguyên đơn
gồm vợ là bà Cao Thị T, cùng các con là ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm
T2, bà Hoàng Tú T3.
Về nguồn gốc thửa đất 162 (hiện nay do bị đơn sử dụng):
Tại các bút lục 19, 20, 21, 24 thể hiện nguồn gốc đất là Sở xây dựng tỉnh
X cấp Sổ chứng nhận quyền sở hữu nhà của cho vợ chồng ông Nguyễn Trọng
T6 và bà Trần Thị Như Y ngày 25/6/1986 với diện tích chiếm đất là 83,8 m
2
,
đến 01/8/2002 thì bà Y chết, sau đó thửa đất được phân chia di sản thừa kế đến
ngày 01/06/2011 thì được UBND thành phố B cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BE 026040 cho ông Nguyễn Trọng H1 và bà Đỗ Thị H2, tại thửa đất
số 162, tờ bản đồ số 21, diện tích 87,1 m
2
. Đến ngày 12/01/2017 ông H1, bà H2
đã chuyển nhượng cho ông Huỳnh Bá C1 thửa đất trên và đã được Chi nhánh
văn phòng đăng ký đất đai thành phố B chỉnh lý biến động, sang tên ông Huỳnh
Bá C1. Đến ngày 18/6/2018 ông C1 đã chuyển nhượng cho ông Đinh Văn T4 và
bà Lại Thị Thu V thửa đất trên và đã được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai
thành phố B chỉnh lý biến động, sang tên ông T4, bà V.
Tại Trích đo hiện trạng thửa đất phục vụ cho việc giải quyết hồ sơ của
Tòa án do Công ty TNHH Đ thực hiện ngày 31/3/2023 (bút lục 89-91) thể hiện:
* Phần diện tích tranh chấp có tứ cận và diện tích như sau:
9
+ Phía đông giáp diện tích đất trống có kích thước: 0,22 m + 0,29 m =
0,51 m
+ Phía tây giáp thửa 162 (Ông T4, bà V) có kích thước: 0,53 m
+ Phía nam giáp thửa 162 (Ông T4, bà V) có kích thước: 9,12 m
+ Phía bắc giáp thửa 144 (gia đình bà T) có kích thước: 9,15 m
Tổng diện tích đất tranh chấp: 4,7 m
2
diện tích này ông T4, bà V đã xây
dựng nhà kiên cố.
* Đối với diện tích thực tế nguyên đơn (bà T cùng các con) đang sử dụng
ngoài phần tranh chấp tại thửa đất 144 là 61 m
2
, theo vị trí đất nguyên đơn xác
định thì tổng diện tích 61 m
2
+ 4,7 m
2
(diện tích tranh chấp) + 2,4 m
2
(diện tích
liền kề vị trí tranh chấp) = 68,1 m
2
* Đối với diện tích thực tế bị đơn (ông T4, bà V đang sử dụng: 82,6 m
2
+
4,7 m
2
= 87,3 m
2
(trừ diện tích 0,2 m
2
nằm trong chỉ giới giao thông).
Như vậy, đối chiếu với diện tích gia đình nguyên đơn được Sở xây dựng
tỉnh X cấp sổ chứng nhận nhà cửa đối với thửa 144 cho ông Hoàng Ngọc T5 là
65 m
2
thì theo kết quả đo đạc lệch so với thực tế là 68,1 m
2
– 65 m
2
= 3,1 m
2
(tăng thêm).
Đối chiếu với diện tích bị đơn được Sở xây dựng tỉnh X cấp sổ chứng
nhận nhà cửa đối với thửa 162 cho ông Nguyễn Trọng T6 và bà Trần Thị Như Y
là 83,8 m
2
thì diện tích ông T4, bà V sử dụng lệch so với thực tế sử dụng là 87,3
m
2
– 83,8 m
2
= 3,5 m
2
(tăng thêm). Đối chiếu với giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BE 026040 cấp cho ông Nguyễn Trọng H1 và bà Đỗ Thị H2, tại
thửa đất số 162, tờ bản đồ số 21, với diện tích 87,1 m
2
thì diện tích ông T4, bà V
là tương đương đúng diện tích chỉ lệch 0,2 m
2
.
Như vậy, việc căn cứ vào số liệu diện tích mà các bên được Sở xây dựng
tỉnh X cấp sổ chứng nhận quyền sở hữu nhà cửa tại các thời điểm trước đây là
chưa có cơ sở chính xác để xác định diện tích đất tranh chấp giữa các đương sự.
Tuy nhiên, căn cứ các Họa đồ mặt bằng vị trí nhà đất tại các bút lục 20 và 27
của Sở xây dựng tỉnh X thể hiện hình thái đối với thửa đất 162 là hình chữ nhật
không có cạnh gấp khúc, đối với cạnh phía nam thửa đất 144 và cạnh phía bắc
thửa đất 162 (tiếp giáp nhau) là cạnh thẳng liền mạch không gấp khúc, vì vậy
nếu xác định diện tích đất tranh chấp như yêu cầu của nguyên đơn thì phần tiếp
giáp hai thửa đất sẽ gấp khúc không đúng như Họa đồ mặt bằng vị trí thể hiện
của Sở xây dựng tỉnh X xác định để cấp sổ chứng nhận sở hữu nhà của tại thời
điểm cấp sổ chứng nhận nhà cửa cho ông T5, cũng như ông T6, bà Y và xác
định như trên thì diện tích đất nguyên đơn sử dụng đối với thửa thửa đất 144
tăng 3,1 m
2
. Tại tài liệu chứng cứ mà UBND phường T cung cấp cho Tòa án
theo biên bản xác minh ngày 05/6/2024 cũng thể hiện tại bản đồ địa chính năm
1996 và năm 2006 đến nay thì phần tiếp giáp giữa cạnh phía nam thửa đất 144
và 162 là đường thẳng, không gấp khúc. Tại Họa đồ mặt bằng vị trí nhà đất đối
10
với thửa 162 (Bút lục 20) thể hiện cạnh phía tây là 3,9 m (Bút lục 20), theo kết
quả đo đạc thực tế xác định cạnh phía tây còn lại là 3,89 m là phù hợp.
Từ những nhận định phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu của
nguyên đơn bà Cao Thị T, ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2, bà Hoàng Tú
T3 về việc buộc ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V phải tháo dỡ toàn bộ công
trình đã xây dựng lên phần nhà, đất trái phép của nguyên đơn là 0,6 m x 9,18 m
= 5,508 m
2
và trả lại phần diện tích đất này cho nguyên đơn là không có căn cứ
để chấp nhận.
[2.2] Xét yêu cầu của nguyên đơn về việc giải quyết hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BE 026040 do UBND thành phố B cấp ngày 01/06/2011
cho ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2 và hủy phần đăng ký biến động trên
Giấy chứng nhận QSD đất số BE 026040 do UBND thành phố B cấp ngày
01/6/2011 từ ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2 đã sang nhượng cho ông
Huỳnh Bá C1 vào ngày 12/01/2017 và từ ông C1 sang ông Đinh Văn T4, bà Lại
Thị Thu V vào ngày 18/6/2018 tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành
Phố B. Hội đồng xét xử, xét thấy trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông H1, bà H2 và việc chỉnh lý biến động sang nhượng cho ông
C1; ông T4, bà V được Ủy ban nhân dân thành phố B và Chi nhánh văn phòng
đăng ký đất đai thành phố B được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật
nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.
[3] Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, ông Tô Tiến D là người đại diện
theo uỷ quyền của nguyên đơn và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
đứng về phía nguyên đơn có kháng cáo cho rằng việc đo đạc diện tích đất tranh
chấp nêu trên trong quá trình giải quyết vụ án là không đúng, không chính xác
nhưng ông D cũng thừa nhận rằng quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn và
những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại, khiếu kiện gì
về kết quả đo đạc này.
Từ những phân tích, nhận định nói trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy
rằng, Toà án cấp sơ thẩm xử không chấp nhận toàn bộ nội dung đơn khởi kiện
của nguyên đơn bà Cao Thị T, ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2, bà
Hoàng Tú T3, là có căn cứ và đúng pháp luật; kháng cáo của nguyên đơn và
những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có cơ sở, không có tài liệu
chứng cứ mới làm thay đổi nội dung vụ án nên không được chấp nhận. Hội đồng
xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Về án phí phúc thẩm dân sự: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận toàn bộ nên ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2, bà Hoàng Tú T3 mỗi
người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm theo quy định. Bà Cao
Thị T là người cao tuổi nên được miễn án phí phúc thẩm dân sự.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
11
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự: Không chấp nhận
kháng cáo các nguyên đơn: Bà Cao Thị T, ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm
T2 và bà Hoàng Tú T3, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều
147, Điều 157, Điều 158, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 229 của Bộ
luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 170 của Luật đất đai năm 2013;
- Căn cứ Điều 175, Điều 176 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ điểm đ Điều 12, khoản 3, 9 Điều 26 của Nghị quyết
326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Cao
Thị T, ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2, bà Hoàng Tú T3 về việc:
+ Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 026040 do UBND
thành phố B cấp ngày 01/06/2011 cho ông Nguyễn Trọng H1, bà Đỗ Thị H2.
+ Hủy phần đăng ký biến động trên Giấy chứng nhận QSD đất số BE
026040 do UBND thành phố B cấp ngày 01/6/2011 từ ông Nguyễn Trọng H1,
bà Đỗ Thị H2 đã sang nhượng cho ông Huỳnh Bá C1 vào ngày 12/01/2017 và từ
ông C1 sang ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V vào ngày 18/6/2018 tại Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành Phố B.
+ Buộc ông Đinh Văn T4, bà Lại Thị Thu V phải tháo dỡ toàn bộ công
trình đã xây dựng lên phần nhà, đất trái phép của nguyên đơn là 0,6 m x 9,18 m
= 5,508 m
2
và trả lại phần diện tích đất này cho nguyên đơn.
[2]. Về án phí phúc thẩm: Buộc ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2,
bà Hoàng Tú T3 mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm
nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
do bà Cao Thị Quỳnh C đã nộp thay cho ông Hoàng Anh T1, bà Hoàng Cẩm T2,
bà Hoàng Tú T3 tại các Biên lai thu số: 0041023; 0041024; 0041025 đều cùng
ngày 15/8/2024 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.
Bà Cao Thị T được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Vụ Giám đốc kiểm tra II - TAND tối cao;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
12
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;
- Người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
Đã ký
Nguyễn Cường
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 19/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm