Bản án số 08/2025/DS-PT ngày 10/02/2025 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 08/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 08/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 08/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 08/2025/DS-PT ngày 10/02/2025 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bạc Liêu |
Số hiệu: | 08/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | y án |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẠC LIÊU
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 08/2025/DS-PT
Ngày 16 - 01 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Hùng
Các Thẩm phán: Ông Trương Thanh Dũng
Ông Lê Phan Công Trí
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Khoa - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Nguyệt Hân - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 và 16 tháng 01 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 151/2024/TLPT-DS
ngày 11 tháng 11 năm 2024 về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2024/DS-ST ngày 03 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 148/2024/QĐ-PT ngày
20 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1956. Địa chỉ: Ấp B, xã
Đ, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Hoàng K: Bà Nguyễn Hồng
T, sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1958. (có mặt)
Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962. (có mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Ông Trần Văn D, sinh năm 1953. (vắng mặt, có yêu cầu xét xử vắng mặt)
2. Bà Trương Thị D1, sinh năm 1951. (có mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M là bị đơn và
ông Trần Văn D, bà Trương Thị D1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khi kiện ngày 02/12/2020, đơn khi kiện bổ sung ngày 15/6/2022
và trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình
bày:
Vào ngày 26/01/2005, ông Nguyễn Hoàng K có nhận chuyển nhượng đất
của vợ chồng ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị M diện tích 811m
2
, tọa lạc
tại ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu, giá chuyển nhượng đất là 192.000.000
đồng. Ông K đã giao đủ tiền trực tiếp cho ông H và bà M. Khi sang đất thì ông K,
ông H, bà M có đến phần đất để đo đạc cặm ranh và ông H có chỉ phần đất nên
ông K có vẽ sơ họa phần đất. Phần đất ông K nhận chuyển nhượng là đất nền để
trống, khi chuyển nhượng xong thì ông K chưa sử dụng nhưng có tới lui phần đất.
Có nhiều lần ông K liên hệ ông H đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tách
thửa nhưng ông H xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế chấp tại
Ngân hàng, do đó vẫn chưa làm thủ tục sang tên được. Hiện trạng phần đất ông K
nhận chuyển nhượng đến nay không có gì thay đổi. Khi ra chính quyền địa phương
thì ông K mới biết phần đất của ông H được ban Q bồi thường giải tỏa, trong đó
có một phần đất của ông Kim nhận chuyển nhượng của ông H. Việc ông H được
nhà nước thu hồi một phần để làm lộ và được bồi thường thì gia đình ông Kim
hoàn T1 không biết. Đến ngày 26/4/2020 khi gia đình ông K đến đắp bờ bao để
xây dựng nhà thì ông H ra ngăn cản không cho thi công, cho rằng là đất của ông
H nên hai bên phát sinh tranh chấp cho đến nay.
Đối với ý kiến của ông D2 là có giao dịch chuyển nhượng đất với ông K là
hoàn toàn không đúng. Ông K không có giao dịch chuyển nhượng đất với ông D2
mà chỉ giao dịch chuyển nhượng đất với ông H và bà M, vợ chồng ông D2 chỉ là
người chứng kiến.
Nay ông Nguyễn Hoàng K yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn
Văn H và bà Nguyễn Thị M phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất qua đo đạc thực tế là 899,2m
2
, yêu cầu phải trả lại tiền bồi
thường giải tỏa số tiền 40.000.000 đồng.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Vợ chồng ông Nguyễn
Văn H và bà Nguyễn Thị M không có giao dịch chuyển nhượng đất với ông
Nguyễn Hoàng K. Trước đây vào năm 1991, vợ chồng ông H, bà M có chuyển
nhượng phần đất cho ông Nguyễn Văn N, địa chỉ: ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc
3
Liêu diện tích 270m
2
. Khi nhận chuyển nhượng thì hai bên làm giấy tay với nhau,
đến năm 1995 thì ông H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông
Nguyễn sang N1 đất cho ông Trần Văn D2 và sau đó ông D2 lại sang cho ông
Nguyễn Hoàng K. Theo nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng K cung cấp tờ “giấy sang
nhượng đất thổ cư” là chữ ký của vợ chồng ông H, bà M nhưng ông H, bà M chỉ
ký với tư cách là người chứng kiến việc sang nhượng đất giữa ông K và ông D.
Khi ông D2 sang đất cho ông K thì ông H có đến phần đất để chỉ ranh đất nhưng
diện tích 270m
2
chứ không có chỉ ranh đất như ông K trình bày. Trong giấy sang
nhượng cũng không có vẽ sơ đồ gì cả và cũng không ra Ủy ban nhân dân xã L ký
tên hợp đồng chuyển nhượng đất. Mục đích sử dụng đất của ông H là đất lập vườn
nhưng trong giấy sang nhượng đất ghi là đất thổ cư là hoàn toàn không đúng.
Ông H, bà M hoàn toàn không có nhận tiền chuyển nhượng đất 192.000.000
đồng của ông K.
Nay ông K yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất với ông
H, bà M và yêu cầu bồi thường số tiền 40.000.000 đồng thì ông H, bà M không
đồng ý vì ông H, bà M không có chuyển nhượng đất cho ông K. Ông H, bà M có
đơn yêu cầu phản tố về việc hủy “giấy sang nhượng đất thổ cư” đề ngày
26/01/2005. Trong trường hợp chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn
Hoàng K thì ông H, bà M yêu cầu bồi thường chi phí tiền san lắp mặt bằng
135.560.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn D2 và bà Trương Thị
D1 trình bày: Trước đây vợ chồng ông D, bà D1 có sang đất của ông Nguyễn Văn
N diện tích ngang 15m, dài 18m, nguồn gốc đất là của ông Nguyễn Văn H và bà
Nguyễn Thị M. Đến năm 2005, do vợ chồng ông D, bà D1 nợ tiền của ông Nguyễn
Hoàng K nên ông D, bà D1 đã sang đất cho ông K diện tích 180m
2
với giá
192.000.000 đồng để trừ nợ. Hai bên có làm giấy tay sang nhượng đất với nhau;
ông H, bà M chỉ ký tên với tư cách là ký giáp ranh đất và người chứng kiến. Ông
D, bà D1 có xem “giấy sang nhượng đất thổ cư” do ông K cung cấp thì ông D, bà
D1 xác định đúng là chữ ký của vợ chồng ông D, bà D1 nhưng không có đo vẽ
hiện trạng đất gì cả. Nay vợ chồng ông D, bà D1 yêu cầu Tòa án xem xét giải
quyết công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông D, bà D1 và
ông Nguyễn Hoàng K với diện tích 180m
2
.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2024/DS-ST ngày
03/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng K về việc
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị
M.
1.1. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
26/01/2005 giữa ông Nguyễn Hoàng K và ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M.
4
1.2. Buộc ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M giao trả phần đất cho ông
Nguyễn Hoàng K diện tích đất theo đo đạc thực tế 790,9m
2
(trong đó đã trừ đi
diện tích Nhà nước thu hồi 108,3m
2
) tại thửa đất số 284, tờ bản đồ số 07, tọa lạc
ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (kèm theo bản sơ đồ trích đo thửa đất).
2. Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị M có nghĩa vụ giao trả cho
ông Nguyễn Hoàng K số tiền là 40.000.000 đồng.
3. Buộc ông Nguyễn Hoàng K trả số tiền san lắp mặt bằng cho ông Nguyễn
Văn H, bà Nguyễn Thị M là 30.365.000 đồng.
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn
Thị M.
5. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Văn D2 và bà Trương
Thị D1.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quy định về thi
hành án, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 16 tháng 5 năm 2024, bị đơn ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M
kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng
K; Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông H, bà M về việc tuyên bố “Giấy sang
nhượng đất thổ cư” ngày 26/01/2005 vô hiệu một phần (chỉ có hiệu lực đối với
một phần diện tích đất 180m
2
của vợ chồng ông Trần Văn D, bà Trương Thị D1);
Chấp nhận đơn yêu cầu độc lập của ông H, bà M đề ngày 24/4/2024. Đồng thời,
xem xét việc áp giá san lấp mặt bằng, hoàn trả 17.000.000 đồng chi phí giám định
cho ông H, bà M.
Ngày 20 tháng 5 năm 2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Trần Văn D, bà Trương Thị D1 kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn
bộ bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng K. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông D, bà D1
về việc tuyên bố “Giấy sang nhượng đất thổ cư” ngày 26/01/2005 có hiệu lực một
phần. Ông D, bà D1 đồng ý giao cho ông Kim phần đất diện tích 180m
2
để trừ số
tiền nợ 192.000.000 đồng. Trong trường hợp, Tòa án tuyên vô hiệu “Giấy sang
nhượng đất thổ cư” ngày 26/01/2005 thì ông D, bà D1 đồng ý trả cho ông K
192.000.000 đồng và nhận lại phần đất diện tích 180m
2
.
Tại phiên toà phúc thẩm, ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M, ông Trần
Văn D, bà Trương Thị D1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tại phiên tòa:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi xét xử phúc
thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký và các đương sự đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
5
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn
Văn H, bà Nguyễn Thị M; không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn D, bà
Trương Thị D1. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2024/DS-ST ngày
03/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu theo hướng: Buộc
ông H, bà M hoàn trả cho ông Nguyễn Hoàng K chi phí thẩm định tại chỗ số tiền
4.741.000 đồng. Ông H, bà M không phải chịu chi phí giám định chữ viết và chữ
ký, hoàn lại cho ông H, bà M số tiền 17.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án
đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày của các đương sự và ý kiến
phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo luận,
nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án đã được
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Qua xem xét, thẩm định tại chỗ và bản hiện trạng đất tranh chấp của Chi
nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ thể hiện: Phần đất tranh chấp có diện
tích 899,2m
2
, thuộc thửa đất số 284, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp T, xã L, huyện
Đ, tỉnh Bạc Liêu. Vị trí tứ cạnh như sau:
Cạnh hướng Đông giáp giáp lộ L - L, có số đo 06m;
Cạnh hướng Tây giáp phần đất ông Nguyễn Văn H và của ông Trần Minh
Đ, có số đo 10m + 06m;
Cạnh hướng Nam giáp phần đất của ông Lưu Văn T2 và ông Nguyễn Văn
H, có số đo 28,4m + 51m;
Cạnh hướng Bắc giáp phần đất của ông Nguyễn Văn H và ông Trương Văn
T3, có số đo 42,1m + 4,9m.
[3] Xét kháng cáo yêu cầu không chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn,
tuyên bố “Giấy sang nhượng đất thổ cư” ngày 26/01/2005 chỉ có hiệu lực một
phần, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Năm 2005, ông Nguyễn Hoàng K xác định có nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất diện tích 811m
2
của ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M.
Khi nhận chuyển nhượng, hai bên có làm “Giấy sang nhượng đất thổ cư” đề ngày
26/01/2005. Xét thấy, Giấy sang nhượng có chữ ký của người chuyển nhượng ông
Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M; người nhận chuyển nhượng ông Nguyễn
Hoàng K. Giấy sang nhượng được Ban nhân dân ấp xác nhận vào ngày 03/02/2005
và Ủy ban nhân dân xã L chứng thực. Như vậy, hình thức hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông K, ông H, bà M đúng theo quy định của pháp
luật.
6
[3.2] Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Minh xác Đ1 chỉ ký giấy sang nhượng
đất thổ cư với tư cách là người chứng kiến việc sang nhượng đất giữa ông Nguyễn
Hoàng K và ông Trần Văn D. Ngoài ra, bà Minh xác Đ1 không có ký vào giấy
sang nhượng. Xét thấy, giấy sang nhượng đất thổ cư đề ngày 26/01/2005 thể hiện
nội dung người sang nhượng đất là ông H, bà M; cuối giấy sang nhượng có ghi
“Người làm giấy sang đất, chồng ký tên Nguyễn V H1, vợ ký tên N2 thị M”. Mặc
dù kết luận giám định số 135/KL-KTHS ngày 06/12/2023 của Phòng K1 Công an
tỉnh B xác định, chữ ký “Ng~ thị M” trong giấy sang nhượng so với chữ ký của
bà Nguyễn Thị M trên tài liệu so sánh không phải do cùng một người viết ra. Tuy
nhiên, bà M và ông H1 là vợ chồng hợp pháp, bà M cũng biết sự việc ông H1 ra
chỉ ranh đất giữa các bên. Ông H1 thừa nhận chữ ký trong tờ giấy sang nhượng là
của ông H1. Do đó, không có căn cứ chấp nhận lời trình bày này của ông H1, bà
M.
[3.3] Ngoài họ tên, địa chỉ của người chuyển nhượng, người nhận chuyển nhượng,
giấy sang nhượng có thể hiện rõ các nội dung về diện tích, vị trí, kích thước đất
chuyển nhượng và có chữ ký của người giáp ranh. Như vậy, nội dung hợp đồng
chuyển nhượng phù hợp theo quy định tại Điều 698 Bộ luật dân sự năm 2005. Về
giá chuyển nhượng đất là 192.000.000 đồng, mặc dù không có giấy biên nhận giao
tiền nhưng trong giấy sang nhượng đất thể hiện rõ nội dụng “Tôi đã nhận đủ số
tiền….”, phía dưới giấy chuyển nhượng có chữ ký của người chuyển nhượng là
ông H1, bà M ký tên nên có đủ cơ sở xác định ông K đã thực hiện xong nghĩa vụ
giao tiền cho ông H1.
[3.4] Ông Trần Văn D2, bà Trương Thị D1 trình bày ông D, bà D1 chỉ chuyển
nhượng cho ông Kim phần đất diện tích 180m
2
(trong phần đất tranh chấp) nên
kháng cáo yêu cầu chỉ công nhận một phần hợp đồng chuyển nhượng. Tuy nhiên
ông D2, bà D1 không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày này.
[3.5] Trong phần đất tranh chấp có diện tích 108,3m
2
thuộc Nhà nước thu hồi xây
dựng cầu K, Nhà nước đã đền bù cho hộ ông H1 số tiền 74.930.000 đồng. Ông
H1, bà M đã nhận đủ số tiền 74.930.000 đồng. Tuy nhiên, ông Kim C yêu cầu ông
H1, bà M trả số tiền đã nhận bồi thường là 40.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử
ghi nhận.
[4] Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ xác định giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông K, ông H1, bà M có diễn ra trên thực tế. Ông K đã
giao đủ tiền chuyển nhượng cho ông H1, bà M. Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hoàng K; buộc ông Nguyễn Văn
H, bà Nguyễn Thị M giao trả phần đất tranh chấp cho ông Nguyễn Hoàng K là
phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Xét kháng cáo chấp nhận đơn yêu cầu độc lập của ông H, bà M đề ngày
24/4/2024. Đồng thời, xem xét việc áp giá san lấp mặt bằng, hoàn trả 17.000.000
đồng chi phí giám định cho ông H, bà M. Hội đồng xét xử xét thấy:
7
[5.1] Yêu cầu của ông H, bà M đề ngày 24/4/2024 chưa được Tòa án cấp sơ thẩm
xem xét giải quyết nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo
này. Trong trường hợp có phát sinh tranh chấp, ông H, bà M có quyền yêu cầu
trong một vụ án độc lập khác.
[5.2] Đối với yêu cầu bồi thường chi phí san lắp mặt bằng số tiền là 135.560.000
đồng. Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ phần đất và định giá thì xác
định diện tích san lắp là 677,8m
2
, chiều cao 0,8m, tổng khối lượng 542,24m
3
, giá
mỗi khối là 56.000 đồng. Tổng giá trị được sang lắp là 542,24m
3
x 56.000 đồng/m
3
= 30.365.400 đồng. Sau khi định giá, ông H, bà M không có ý kiến về giá của Hội
đồng đã định. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, ông H, bà M không yêu cầu định
giá lại cũng không cấp được tài liệu chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu bồi
thường này. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu này của ông H, bà M. Xét
thấy, việc san lấp là có diễn ra trên thực tế nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông Kim
hoàn T4 chi phí san lắp 30.365.400 đồng cho ông ông H, bà M là phù hợp.
[5.3] Đối với chi phí giám định, đại diện Viện kiểm sát cho rằng ông H, bà M yêu
cầu Phân viện hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh giám định nhưng Tòa án cấp
sơ thẩm trưng cầu Phòng giám định kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B giám định là
không đúng quyền định đoạt của đương sự. Do đó, ông H, bà M không phải chịu
chi phí giám định chữ viết và chữ ký, hoàn lại cho ông H, bà M số tiền 17.000.000
đồng. Xét thấy, theo Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định đương sự có quyền
yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định và theo Điều 21 Luật giám định tư pháp quy
định quyền chọn cơ quan giám định là của người trưng cầu giám định. Do đó,
Thẩm phán tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm có Quyết định trưng cầu Phòng K1
Công an tỉnh B giám định là đúng pháp luật. Ngoài ra, đương sự phải chịu chi phí
giám định theo quy định tại Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án cấp sơ thẩm
buộc ông H, bà M phải chịu chi phí giám định 17.000.000 đồng là phù hợp.
[6] Về chi phí tố tụng: Tòa án cấp sơ thẩm xác định chi phí xem xét, thẩm
định tại chỗ và định giá tài sản là 6.800.000 đồng, đồng thời buộc ông H, bà M
hoàn trả cho ông K 6.000.000 đồng là chưa phù hợp. Chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ, định giá tài sản và thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
là 5.541.000 đồng. Trong đó, ông K đã nộp 4.471.000 đồng, ông H đã nộp 800.000
đồng, đều được chi phí hết. Do có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện ông K nên
ông H, bà M phải chịu chi phí tố tụng là 5.541.000 đồng. Buộc ông H, bà M hoàn
lại cho ông K số tiền 4.471.000 đồng.
[7] Từ toàn bộ phân tích nêu trên, có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo của
ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M; không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của
ông Trần Văn D, bà Trương Thị D1. Ghi nhận một phần ý kiến của kiểm sát viên
tại phiên tòa. Sửa một phần bản án sơ thẩm đối với chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ và định giá tài sản.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm:
8
[8.1] Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M không phải chịu.
[8.2] Ông Trần Văn D, bà Trương Thị D1 là người cao tuổi, có đơn xin miễn án
phí nên ông D, bà D1 được miễn án phí phúc thẩm theo quy định.
Các phần khác của bản án không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng
xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn D, bà Trương Thị
D1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2024/DS-ST ngày 03/5/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều
39; Điều 147, Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, 698, 700, 701, 702 Bộ
luật dân sự 2005; Điều 127 Luật đất đai năm 2003; Điều 167 Luật đất đai năm
2013;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hoàng K về việc
tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng đất với ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị
M.
1.1. Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày
26/01/2005 giữa ông Nguyễn Hoàng K và ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M.
1.2. Buộc ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M giao trả phần đất cho ông
Nguyễn Hoàng K diện tích đất theo đo đạc thực tế 790,9m
2
(trong đó đã trừ đi
diện tích Nhà nước thu hồi 108,3m
2
) tại thửa đất số 284, tờ bản đồ số 07, tọa lạc
ấp T, xã L, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. (kèm theo bản sơ đồ trích đo thửa đất).
Ông Nguyễn Hoàng K được quyền đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
làm thủ tục đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần
đất có vị trí, kích thước nêu trên.
2. Buộc ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị M có nghĩa vụ giao trả cho
ông Nguyễn Hoàng K số tiền là 40.000.000 đồng.
3. Buộc ông Nguyễn Hoàng K trả số tiền san lắp mặt bằng cho ông Nguyễn
Văn H, bà Nguyễn Thị M là 30.365.000 đồng.
9
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn
Thị M.
5. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Văn D2 và bà Trương
Thị D1.
6. Về chi phí giám định: Ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị M phải
chịu toàn bộ chi phí giám định là 17.000.000 đồng. Ông H, bà M đã nộp đủ và chi
phí xong.
7. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Ông Nguyễn Văn
H và bà Nguyễn Thị M phải chịu số tiền 5.541.000 đồng. Ông Nguyễn Hoàng K
đã nộp 4.741.000 đồng, ông Nguyễn Văn H đã nộp 800.000 đồng. Buộc ông
Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị M có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn
Hoàng K số tiền 4.741.000 đồng.
8. Về án phí:
8.1. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Hoàng K không phải chịu. Ông
Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M, ông Trần Văn D, bà Trương Thị D1 là người
cao tuổi, có đơn xin miễn án phí nên ông H, bà M, ông D, bà D1 được miễn án
phí dân sự sơ thẩm.
8.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị M
không phải chịu. Ông Trần Văn D, bà Trương Thị D1 là người cao tuổi, có đơn
xin miễn án phí nên ông D, bà D1 được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất cơ bản
do ngân hàng N3 quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án theo quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND huyện Đông Hải;
- CCTHADS huyện Đông Hải;
- Đương sự;
- Lưu Tổ HCTP, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
10
Lê Thanh Hùng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 10/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm