Bản án số 45/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 45/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 45/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 45/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 45/2025/DS-PT ngày 18/02/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 45/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | BAPT huỳnh thị N -trần Thị T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH SÓC TRĂNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 45/2025/DS-PT
Ngày: 18/02/2025
“V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hồ Văn Phụng.
Các Thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Văn Dũ.
2. Ông Nguyễn Hoàng Thành.
- Thư ký phiên tòa: Ông Đinh Quốc Thanh– Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Như Huỳnh– Kiểm sát viên.
Trong các ngày 10 và ngày 18/02/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sóc
Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 185/2023/TLPT-DS
ngày 23/10/2024 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 125/2024/DS-ST ngày 20 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 258/2024/QĐ-PT ngày 07/10/2024
và Thông báo số 19/2025/TB-TA ngày 16/01/2025 về việc tiếp tục phiên tòa tạm
ngừng, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1973 (có mặt);
Địa chỉ: Số F ấp Â, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Huỳnh Thị N: Ông
Nguyễn Thái L, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp H, xã N, huyện M, tỉnh Sóc Trăng;
(văn bản ủy quyền ngày 25/8/2023, ông L có mặt).
2. Bị đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1958 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Võ Thái T1, sinh năm 1963.
Địa chỉ: Ấp T, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; (văn bản ủy quyền ngày 01/11/2023,
ông T1 có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960; (vắng mặt).
3.2. Anh Nguyễn Văn Ú, sinh năm 1980; (vắng mặt).
3.3. Chị Nguyễn Thị Thanh P, sinh năm 1984; (vắng mặt).
3.4. Em Nguyễn Thanh T2, sinh năm 2005; (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
2
4. Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị N là nguyên đơn.
5. Người kháng nghị: Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, nội dung vụ kiện được tóm tắt như
sau:
* Trong đơn khởi kiện ngày 22/11/2022, Đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung ngày
12/12/2023 của nguyên đơn bà Huỳnh Thị N cũng như tại phiên tòa người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Thời điểm cha bà Huỳnh Thị N là ông Huỳnh P1 (chết năm 2006) lúc còn
sống có sử dụng phần đất có diện tích là 1.200m
2
, thửa số 385 (số mới 769), tờ bản
đồ số 8, tọa lạc tại ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Năm 1998, cha bà N có
cho bà Trần Thị T ở nhờ một phần đất trong phần diện tích đất nêu trên là 55m
2
(ngang 5,5m; dài 10m). Năm 2004, cha của bà Huỳnh Thị N không cho bà Trần
Thị T ở nhờ nữa và yêu cầu bà Trần Thị T di chuyển đến chỗ ở khác và hỗ trợ cho
bà T 02 triệu đồng chi phí di dời, đồng thời trả lại cho bà T 03 chỉ vàng mà bà N đã
giữ hộ của bà T, nhưng bà T không đồng ý. Sau đó cha bà N tiến hành đổ đất san
lấp mặt bằng chỉ chừa lại nền nhà của bà T đang ở từ đó phát sinh tranh chấp với
bà T.
Nay bà Huỳnh Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết như sau: Buộc bà Trần Thị
Tuyết di D toàn bộ nhà cửa, chuồng trại và các tài sản khác gắn liền với diện tích
đo đạc thực tế là 1.672,26m
2
thuộc thửa số 769, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp C, xã
L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng để bà T trả lại cho bà N toàn bộ diện tích đất đo đạc
thực tế nêu trên.
Về phần định giá tài sản: Bà Huỳnh Thị N không yêu cầu định giá tài sản
gắn liền với quyền sử dụng đất và tài sản trên đất (nhà ở, cây trồng, chuồng trại)
diện tích 1.672,26m
2
thuộc thửa đất số 769, tờ bản đồ số 8; tọa lạc tại ấp C, xã L,
thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
* Tại đơn phản tố ngày 06/3/2023, bản tự khai ngày 31/10/2023 cũng như
tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Trần Thị T trình bày:
Phần đất tranh chấp có diện tích là 1.672,26m
2
thuộc thửa số 769, tờ bản đồ
số 8, tọa lạc tại ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là vào năm 1998
bà Trần Thị Tuyết N1 chuyển nhượng từ ông Huỳnh P1 (cha bà Huỳnh Thị N, ông
P1 hiện nay đã chết) với giá 06 chỉ vàng 24K. Bà Trần Thị Tuyết T3 trước 03 chỉ
vàng còn lại 03 chỉ vàng khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thì bà T sẽ
trả ông Phân S vàng còn lại là 3 chỉ vàng 24K. Việc chuyển nhượng nêu trên chỉ
thực hiện bằng lời nói, không có giấy tờ. Sau khi chuyển nhượng bà Trần Thị T đã
cất nhà ở, quản lý sử dụng liên tục, ổn định, không phát sinh tranh chấp diện tích
nhận chuyển nhượng nêu trên từ năm 1998 đến nay.
3
Đến ngày 15/7/2024, bà Trần Thị Tuyết R yêu cầu phản tố và có ý kiến
không đồng ý trả đất theo yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị N. Bà Trần Thị T
đồng ý trả số vàng còn lại là 03 chỉ vàng 24K cho bà Huỳnh Thị N.
Về định giá tài sản: Bà Trần Thị T không yêu cầu định giá tài sản gắn liền
với quyền sử dụng đất và tài sản trên đất (nhà ở, cây trồng, chuồng trại) diện tích
1.672,26m
2
thuộc thửa đất số 769, tờ bản đồ số 8; tọa lạc tại ấp C, xã L, thị xã V,
tỉnh Sóc Trăng.
* Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 125/2024/DS-ST ngày 20 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định: Căn cứ Căn
cứ vào: Khoản 1 Điều 5; khoản 11 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a
khoản 1 Điều 39; các Điều 144, 146, 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều
228; khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 500, 501, 502
của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 167, 168, 169 của Luật đất đai năm 2013;
Điểm đ khoản 1 Điều 12; Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị N
đối với bị đơn bà Trần Thị Tuyết .
1.1. Buộc bà Trần Thị T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
gồm Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Ú, Nguyễn Thị Thanh P, Nguyễn Thanh T2 có
nghĩa vụ di dời, tháo dở các vật kiến trúc và cây trồng để giao trả lại cho bà Huỳnh
Thị N phần đất có diện tích là 830,60m
2
(phần 3 theo sơ đồ đo đạc) nằm trong thửa
số 769, tờ bản đồ số 08, toạ lạc tại ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, có tứ cận
như sau:
Hướng Đông giáp thửa 333, số đo 20.19m + 2.92m
Hướng Tây giáp đường L, số đo 0.45m + 14.35m
Hướng Nam giáp Kênh H - C, số đo 5.09m + 41.05m
Hướng Bắc giáp một phần thửa 769, số đo 5.09m + 37.61m.
(có sơ đồ kèm theo)
1.2. Ổn định cho bà Trần Thị Tuyết P2 đất có diện tích là 841,66m
2
(phần 1
và phần 2 theo sơ đồ đo đạc) nằm trong thửa số 769, tờ bản đồ số 08, toạ lạc tại ấp
C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, có tứ cận như sau:
Hướng Đông giáp thửa 333, số đo 15.83m + 9.15m
Hướng Tây giáp đường L, số đo 5.65m + 9.75m
Hướng Nam giáp một phần thửa 769, số đo 5.09m + 37.61m
Hướng Bắc giáp thửa 385, số đo 4.5m + 26.1m + 11.34m
(có sơ đồ kèm theo)

4
2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị Tuyết .
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí thẩm định và định giá tài
sản và thông báo quyền kháng cáo cho các đương sự theo luật định.
* Ngày 21/8/2024, Bà Huỳnh Thị N là nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ
bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà. Buộc bà
Trần Thị Tuyết di D toàn bộ nhà cửa, chuồng trại và các tài sản khác gắn liền trên
đất đi nơi khác, trả lại cho bà toàn bộ phần đất mà bà T đang chiếm giữ.
* Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 23/QĐ-VKS-DS ngày 19/9/2024
của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng đối với bản án dân sự sơ thẩm số:
125/2024/DS-ST ngày 20 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng và đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng khoản 3 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho
cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thẩm quyến.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Thái L là người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và đơn kháng cáo; Đại diện Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng thay đổi một phần kháng nghị từ kháng nghị áp
dụng khoản 3 xuống còn khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự và không rút
kháng nghị; các đương sự không có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về tính có căn cứ và hợp
pháp của kháng cáo và kháng nghị, về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng
của những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm; Đồng thời, phát biểu quan
điểm về nội dung kháng cáo và kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng
khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự chấp nhận một phần kháng cáo của bà
Huỳnh Thị N và chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Người kháng cáo và kháng nghị, nội dung và hình thức đơn kháng cáo và
kháng nghị, thời hạn kháng cáo và kháng nghị của nguyên đơn là bà Huỳnh Thị N
và kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng là đúng theo
quy định tại Điều 271, Điều 272, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2015, nên kháng cáo và kháng nghị hợp lệ và đúng theo luật định.
[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn bà Trần Thị T vắng mặt nhưng có người đại
diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là
ông Nguyễn Văn H, anh Nguyễn Văn Ú, chị Nguyễn Thị Thanh P và em Nguyễn
Thanh T2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; việc
vắng mặt của những người này cũng không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do vậy,
Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến
hành xét xử vụ án.

5
Về nội dung:
[3] Nguyên đơn bà Huỳnh Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Thị
Tuyết di D toàn bộ nhà cửa, chuồng trại và các tài sản khác gắn liền với diện tích
đo đạc thực tế là 1.672,26m
2
thuộc thửa số 769, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại ấp C, xã
L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng để bà T trả lại cho bà N toàn bộ diện tích đất đo đạc
thực tế nêu trên và bà Huỳnh Thị N không yêu cầu định giá tài sản gắn liền với
quyền sử dụng đất và tài sản trên đất (nhà ở, cây trồng, chuồng trại) theo diện tích
và địa chỉ nêu trên.
[4] Bị đơn bà Trần Thị T có đơn phản tố ngày 06/3/2023 và đến ngày
15/7/2024, bà Trần Thị Tuyết R yêu cầu phản tố và có ý kiến không đồng ý trả đất
theo yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị N. Bà Trần Thị T đồng ý trả số vàng còn
lại là 03 chỉ vàng 24K cho bà Huỳnh Thị N và bà Trần Thị T không yêu cầu định
giá tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và tài sản trên đất (nhà ở, cây trồng,
chuồng trại) diện tích 1.672,26m
2
thuộc thửa đất số 769, tờ bản đồ số 8; tọa lạc tại
ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.
[5] Xét kháng cáo của bà Huỳnh Thị N về việc không đồng ý theo bản án sơ
thẩm số: 125/2024/DS-ST ngày 20 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết
theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà. Buộc bà Trần Thị Tuyết
di D toàn bộ nhà cửa, chuồng trại và các tài sản khác gắn liền gắn liền trên đất đi
nơi khác, trả lại cho bà toàn bộ phần đất mà bà T đang chiếm giữ. Xét thấy, theo
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện:
[5.1] Tại phiên tòa, các đương sự thống nhất phần đất tranh chấp qua đo đạc
thực tế có diện tích là 1.672,26m
2
, thuộc thửa số 769, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp
C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có diện tích và tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp thửa số 333 có số đo 45,17m;
- Hướng Tây giáp lộ C – Đại Bái có số đo 5,66m + 3.34m + 6,41m + 0,45m
+ 14,35m;
- Hướng Nam giáp kênh H – Ca Lạc có số đo 2,92m + 41,05m + 5,09m;
- Hướng Bắc giáp thửa số 385 có số đo 11,34m + 26,10m + 4,5m;
Tài sản tồn tại trên đất gồm nhà ở, chuồng nuôi bò, cây lâu năm và hiện nay
do gia đình bà Trần Thị T đang quản lý sử dụng.
[5.2] Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị N cho rằng phần
đất tranh chấp có diện tích là 1.672,26m
2
, thuộc thửa số 769, tờ bản đồ số 08, tọa
lạc tại ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng là của gia đình bà Huỳnh Thị N (phần
đất này năm 2009 bà Huỳnh Thị N cấp giấy chứng quyền sử dụng đất theo quyết
định hành chính giải quyết khiếu về đất đai, đến năm 2018 Ủy ban nhân thị xã V ra
quyết định thu hồi) cho gia đình bà Trần Thị Tuyết M ở vào năm 1998. Phía bà N
không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc gia đình bà cho bà T
mượn đất.
[5.3] Phía bà Trần Thị T cho rằng toàn bộ diện tích đất nêu trên là do nhận
chuyển nhượng của ông Huỳnh P1 (cha bà Huỳnh Thị N) vào năm 1998. Tuy
nhiên, ngoài lời trình bày của bà T và 03 chỉ vàng 24k mà bà Huỳnh Thị N thừa
6
nhận, thì bà T không đưa được tài liệu, chứng cứ gì khác để chứng minh toàn bộ
diện tích đất 1.672,26m
2
nêu trên thuộc quyền quản lý hợp pháp của gia đình bà T.
Trong khi đó, tại thời điểm giải quyết tranh chấp theo thủ tục hành chính, bà Trần
Thị T cho rằng nhận chuyển nhượng đất của ông Huỳnh P1 diện tích đất chiều
ngang 20 mét, dài hết đất. Đồng thời, bà Huỳnh Thị N thì cho rằng phần đất mà bà
Trần Thị T đang quản lý sử dụng là cho mượn, nhưng ngoài lời thừa nhận về
nguồn gốc đất của bà T thì bà Huỳnh Thị N không đưa ra được chứng cứ chứng
minh cho lời trình bày của mình.
[6] Tại các tiểu mục [5.2] đến [5.3] mục [5] thì căn cứ quy định tại khoản 4
Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì bà Trần Thị T và bà Huỳnh Thì N2 đều
phải có nghĩa vụ chứng minh cho lời trình bày của mình là có căn cứ.
[7] Về chứng cứ để giải quyết vụ án:
[7.1] Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Trần Thị T cho rằng thời điểm
năm 1998 ông Huỳnh P1 (lúc còn sống) có chuyển nhượng cho bà Trần Thị Tuyết
P2 đất có chiều ngang 20 mét, dài hết thửa đất với giá 06 chỉ vàng 24K, bà T đã trả
trước 03 chỉ vàng 24K, còn lại 03 chỉ vàng 24K. Tại phiên tòa bà Huỳnh Thị N
cũng thừa nhận có nhận của bà T 03 chỉ vàng 24K nêu trên nhưng bà N cho rằng
bà T gởi.
[7.2] Đối với Ủy nhân dân thị xã V, do nhận thấy trong quá trình giải quyết
về tranh chấp đất đai vào năm 2005 không đúng với quy định của pháp luật, nên
dẫn đến việc ban hành Quyết định số 1097/QĐ-UBND ngày 24/11/2009 về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Huỳnh Thị N đối với thửa đất số
769, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng không đúng.
Từ đó, UBND thị xã V ban hành Quyết định số 1959/QĐ-UBND ngày 29/8/2018
về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 157/QĐ-UB ngày 04/7/2005 của Chủ tịch
UBND huyện V (nay là thị xã V), đồng thời ban hành Thông báo số 73/TB-UBND
ngày 10/9/2018 thông báo về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của
bà Huỳnh Thị N đối với thửa số 769, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp C, xã L, thị xã
V, tỉnh Sóc Trăng.
[7.3] Tại Bản án số 05/2021/HC-HS ngày 29/4/2021 về việc khởi kiện
quyết định hành chính về việc thu hồi, hủy bỏ quyết định giải quyết tranh chấp đất
đai, Bản án quyết định “Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Huỳnh Thị
N về việc yêu cầu: Hủy quyết định số 1959/QĐ-UBND ngày 29/8/2018 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thị xã V về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định số 157/QĐ- UB
ngày 04/7/2005 của chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V (nay là thị xã V)” (BL 48-
52). Tuy nhiên, Bản án số 05/2021/HC-HS ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng đã bị hủy bởi Quyết định số 470/2021/QĐ-PT ngày 10/12/2021 của
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh do người khởi kiện rút toàn
bộ đơn khởi kiện. Do đó, tính đến thời điểm xét xử Quyết định số 1959/QĐ-UBND
ngày 29/8/2018 của Ủy ban nhân dân thị xã V về việc thu hồi, hủy bỏ Quyết định
số 157/QĐ-UB ngày 04/7/2005 của Chủ tịch UBND huyện V (nay là thị xã V) và
Thông báo số 73/TB-UBND ngày 10/9/2018 thông báo về việc thu hồi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của bà Huỳnh Thị N, ngụ tại ấp Â, xã V, thị xã V là quyết
định hành chính đang có hiệu lực pháp luật chưa bị hủy bỏ, thu hồi. Đồng thời, tại
Công văn số 757/CCTT-CNVC ngày 20/6/2024 của Chi nhánh văn phòng đăng ký
đất đai thị xã V trả lời “Ngày 29/8/2018 Ủy ban nhân dân thị xã V ban hành Quyết
7
định số 1959/QĐ-UBND về việc thu hồi, huỷ bỏ quyết định số 157//QĐ-UB ngày
04/7/2005 theo đề nghị của Chánh Thanh Tra tại tờ trình số 11/2018/TTr-TT của
Chánh Thanh tra thi xã V ngày 17/8/2018. Xem như việc giải quyết khiếu nại tranh
chấp đất đai giữa ông Huỳnh P1 (cha bà Huỳnh Thị N) và bà Trần Thị T chưa kết
thúc (do quyết định giải quyết bị huỷ), vụ việc còn tranh chấp”. Do đó, Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AP623650 cấp ngày 24/11/2009 cho bà Huỳnh Thị N
hiện nay không còn giá trị pháp lý và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay
đã hết thời hạn sử dụng đất.
[7.4] Tại các biên bản xác minh: Ông Dương K (nguyên là chủ tịch xã L),
ông Lâm Xô N3 (Trưởng ban N4, xã L) và ông Trần Văn K1 (người dân ở gần nhà
bà T) đều khẳng định: Phần đất hiện nay do gia đình bà Trần Thị T đang ở, thời
điểm năm 1998 là đất hoang hóa, đất thấp và đường lộ đất, nên giá trị không cao,
tương đương 01 công khoảng từ 05 phân vàng 24k đến 01 chỉ vàng 24k. Đồng
thời, tại biên bản ghi lời khai cũng như tại phiên tòa người làm chứng bà Nguyễn
Thị P3 cũng khẳng định phần đất mà gia đình của Huỳnh Thị T4 đang ở là mua của
gia đình ông Huỳnh P1 (cha bà N) năm 1998 đến nay và trả 03 chỉ vàng 24k tại
nhà ông Huỳnh Phân .1
[8] Từ những phân tích tại các tiểu mục [7.1] đến [7.4] mục [7] thì cấp sơ
thẩm xác định phần diện tích đất tranh chấp 1.672,26m
2
, thuộc thửa số 769, tờ bản
đồ số 08, tọa lạc tại ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là do bà
Trần Thị Tuyết N1 chuyển nhượng của ông Huỳnh P1 (phần đất này lúc còn sống
ông Huỳnh P1 đã lập di chúc cho bà Huỳnh Thị N) với giá 06 chỉ vàng 24K, hiện
bà T4 mới giao cho ông P1 do bà N nhận thay 03 chỉ vàng 24k, nhưng cho đến thời
điểm hiện nay các bên không có ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và cũng chưa làm thủ tục đăng ký, sang tên giấy CNQSD đất theo đúng quy
định của pháp luật về đất đai; hơn nữa, phần đất các bên thỏa thuận chuyển nhượng
có nguồn gốc là đất của ông P1 nhưng tại thời điểm chuyển nhượng năm 1998 thì
ông P1 chưa được cấp giấy CNQSD đất.
[9] Căn cứ theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II Nghị quyết
02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thì
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác
lập sau ngày 15/10/1993 thì phải đủ các điều kiện theo quy định tại các điểm a, b
và c, nên về nguyên tắc thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác
lập là bị vô hiệu, trừ trường hợp hợp đồng đã được thực hiện và thuộc các trường
hợp: “b.1) Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được UBND cấp có
thẩm quyền cấp giấy CNQSD đất theo quy định của pháp luật về đất đai; b.2)
Trường hợp đất chưa được cấp giấy CNQSD đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy CNQSD đất tại UBND có thẩm
quyền, UBND đã cho phép việc chuyển nhượng; b.3) Bên nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư
sản xuất, kinh doanh không vi phạm quy định về quy hoạch và bên chuyển nhượng
cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình
kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó” thì mới
được công nhận. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa
đất số 769 (giữa ông P1, bà T4) được công nhận cho bà T4 một phần, vì bà T4 đã
tiến hành cất nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm... trên đất mà gia đình
8
bà N không phản đối theo quy định nêu trên. Do đó, một phần thửa đất số 769 đã
thuộc quyền sử dụng của bà T4.
[10] Theo thẩm định tại chỗ ngày 15/11/2023, ngày 02/8/2024 và ngày
02/01/2025, đất tranh chấp được chia ra làm 3 phần: phần 1 là chuồng bò được cất
sau khi thẩm định tại chỗ ngày 15/11/2023, phần số 2 là nhà của gia đình bà T4
đang ở, phần số 3 là đất trống. Mặc dù, bà T4 không có cất nhà kiên cố hay bán
kiên cố, nhưng ngoài căn nhà này ra thì bà T4 không có đất, không còn chỗ ở nào
khác. Do đó, cần ổn định cho bà T4 phần đất đã cất nhà ở, Do gia đình bà T4 cất
nhà ở trên phần đất số 2 theo thẩm định, nếu ổn định cho gia đình bà T4 phần số 2,
thì 02 phần đất trả cho bà N nằm ở hai bên căn nhà của bà T4 làm cho đất của bà N
bị manh múng, không liền nhau, sẽ gây khó khăn cho bà N trong việc đăng ký
quyền sử dụng đất và gây khó trong sử dụng và canh tác sau này, nhà của bà T4 là
nhà lá tạm, không còn giá trị sử dụng và hiện nay cũng được chính quyền địa
phương đang chuẩn bị cất nhà cho bà T4 nhằm mục đích xóa nhà dột nát và nhà
tạm. Do đó, cần ổn định cho gia đình bà T4 phần đất số 1 và một phần phần 2 theo
thẩm định nhưng phải đảm bảo diện tích là trên 500 m
2
. Buộc gia đình bà T4 tháo
dở, di dời căn nhà theo thẩm định ở phần số B để trả lại cho bà N một phần phần
đất số 2 và số 3 theo thẩm định.
[11] Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm nhận định, đánh giá chứng cứ xác định
phần đất tranh chấp là thửa 769 diện tích đo thực tế là 1.672,26 m
2
có nguồn gốc là
do bà Trần Thị Tuyết N1 chuyển nhượng của ông Huỳnh Phân C bà N, giá chuyển
nhượng là 6 chỉ vàng 24k, bà T4 đã trả cho ông P1 3 chỉ vàng 24k, nên ổn định cho
bà T4 tương đương ½ diện tích phần đất tranh chấp, nhưng cấp sơ thẩm không
nhận xét, đánh giá gì về hình thức, điều kiện, hậu quả pháp lý của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà T4 với ông P1 cha bà N và cũng không
xem xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu hay không vô hiệu,
xử lý hậu quả pháp lý như thế nào. Tuy nhiên, mặc dù hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông P1 và bà T4 vô hiệu một phần theo quy định tại Điều
123 Bộ luật dân sự năm 2015, nhưng hai bên không yêu cầu định giá theo giá thị
trường và cũng không yêu cầu xử lý hậu quả theo quy định tại Điều 131 Bộ luật
dân sự 2015. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm tách phần giải quyết hậu quả
của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thành vụ án khác nếu có đương
sự yêu cầu.
[12] Về đường lối giải quyết của cấp sơ thẩm là có căn cứ. Tuy nhiên, cấp sơ
thẩm tuyên xử: 1. Buộc bà Trần Thị T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan gồm Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Ú, Nguyễn Thị Thanh P, Nguyễn Thanh
T2, có nghĩa vụ di dời, tháo dở các vật kiến trúc và cây trồng để giao trả lại cho bà
Huỳnh Thị N phần đất có diện tích là 830,60m
2
(phần 3 theo sơ đồ đo đạc); 2. Ổn
định cho bà Trần Thị Tuyết P2 đất có diện tích là 841,66 m
2
(phần 1 và phần 2
theo sơ đồ đo đạc) nằm trong thửa số 769, tờ bản đồ số 08, toạ lạc tại ấp C, xã L, là
thị xã V, tỉnh Sóc Trăng là chưa phù hợp theo quy định tại mục 2 Phần II Nghị
quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối
cao, nên cấp phúc thẩm điều chỉnh lại cho phù hợp.
9
[13] Giá chuyển nhượng đất: Có căn cứ xác định việc chuyển nhượng quyền
sử dụng đất 1.672,26 m
2
là 06 chỉ vàng 24k. Như vậy, 06 chỉ vàng 24k : 1.672,26
m
2
=0,0035 chỉ vàng 24 k/m
2
; phần bà T được công nhận là 502,8 m
2
x 0,0035 chỉ
vàng 24 k/ m
2
= 01 chỉ 7 phân 59 ly vàng 24k. Khấu trừ số vàng đã trả 03 chỉ vàng
24k - 01 chỉ 7 phân 59 ly vàng 24k (phần bà T được công nhận), nên bà T được
nhận lại số vàng trả thừa là 01 chỉ 02 phân 41 ly vàng 24k x 9.000.000 đồng/chỉ
giá trị tại thời điểm xét xử phúc thẩm = 11.169.000 đồng. Do đó, bà N có trách
nhiệm trả cho bà T số tiền 11.169.000 đồng.
[14] Từ những phân tích tại các mục [7] đến mục [13], Hội đồng xét xử
quyết định chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, chấp nhận thay đổi
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng và căn cứ vào khoản 2 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa một phần bản án sơ thẩm.
[15] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị sửa một phần, nên
bà N không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 148
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn là bà Huỳnh Thị N và chấp
nhận thay đổi Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 23/QĐ-VKS-DS ngày
19/9/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Sửa một phần bản án dân sự
sơ thẩm số 125/2024/DS-ST ngày 20 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng như sau:
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 5; khoản 11 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35;
điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 144, 146, 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản
3 Điều 228; khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 500,
501, 502 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 167, 168, 169 của Luật đất đai
năm 2013; Điểm đ khoản 1 Điều 12; Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị N
đối với bị đơn bà Trần Thị Tuyết .
10
1.1. Buộc bà Trần Thị T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
gồm Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn Ú, Nguyễn Thị Thanh P, Nguyễn Thanh T2 có
nghĩa vụ di dời, tháo dở các vật kiến trúc và cây trồng trên đất để giao trả lại cho
bà Huỳnh Thị N phần đất có diện tích là 1.169,5m
2
(phần 2 diện tích là 338,9 m
2
,
phần 3 diện tích là 830,60m
2
theo sơ đồ) nằm trong thửa số 769, tờ bản đồ số 08,
toạ lạc tại ấp C, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có số đo, tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp thửa 333, số đo: 0,23m + 9,15m + 20,19m.
- Hướng Tây giáp đường L, số đo: 6,41m + 0,45m + 14,35m.
- Hướng Nam giáp Kênh Hòa T5 – C, số đo: 5.09m + 41,05m.
- Hướng Bắc giáp một phần thửa 769, số đo: 5,01m + 18,51m +7,83 m +
37.61m.
(có sơ đồ kèm theo)
1.2. Ổn định cho bà Trần Thị Tuyết P2 đất có diện tích là 502,8m
2
(phần 1
theo sơ đồ) nằm trong thửa số 769, tờ bản đồ số 08, toạ lạc tại ấp C, xã L, thị xã V,
tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có số đo, tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp thửa 333, số đo: 12,37m + 2,83m.
- Hướng Tây giáp đường L, số đo: 5,66m + 3,34m
- Hướng Nam giáp một phần thửa 769, số đo: 5,01m + 18,51m + 7,83m +
10,84m.
- Hướng Bắc giáp thửa 385, số đo: 4,5m + 26,1m + 11,34m
(có sơ đồ kèm theo)
1.3. Buộc bà Huỳnh Thị N có trách nhiệm hoàn trả cho bà Trần Thị T số tiền
là 11.169.000 đồng (Mười một triệu một trăm chín mươi sáu ngàn đồng).
Kể từ ngày bà Trần Thị T có đơn yêu cầu thi hành án đối với các khoản tiền
trên thì bà Huỳnh Thị N còn phải chịu tiền lãi do chậm thi hành án theo mức lãi
suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời
gian và số tiền chậm trả.
2. Đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị Tuyết .
3. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ: Số tiền là 4.443.600 đồng (bốn
triệu bốn trăm bốn mươi ba nghìn sáu trăm đồng), các đương sự phải chịu theo quy
định của pháp luật, cụ thể như sau:
11
3.1. Nguyên đơn bà Huỳnh Thị N phải chịu số tiền là 2.221.800 đồng (hai
triệu hai trăm hai mươi mốt nghìn sáu trăm đồng). Bà Huỳnh Thị N đã thực hiện
xong.
3.2. Bị đơn bà Trần Thị T phải chịu số tiền là 2.221.800 đồng (hai triệu hai
trăm hai mươi mốt nghìn sáu trăm đồng). Do bà Huỳnh Thị N đã nộp trước và đã
thanh toán xong. Bà Trần Thị T có nghĩa vụ hoàn trả lại cho bà Huỳnh Thị N số
tiền nêu trên.
4. Án phí dân sự sơ thẩm:
4.1. Bị đơn bà Trần Thị T được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho bà
Trần Thị Tuyết T6 tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007950 ngày 26/04/2023 của Chi cục Thi hành án
dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
4.2. Nguyên đơn bà Huỳnh Thị N phải chịu án phí không có giá ngạch với
số tiền là 300.000 đồng và án phí có giá ngạch 558.450 đồng. Được khấu trừ tiền
tạm ứng án phí đã nộp với số tiền là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên
lai thu số 0006034 ngày 11/12/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh
Châu, tỉnh Sóc Trăng. Bà Huỳnh Thị N phải nộp 558.450 đồng tiền án phí dân sự
sơ thẩm.
5. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị N không phải chịu. Hoàn trả cho
bà N số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng thheo Biên lai thu số 0004938
ngày 22/8/2024 của Chi cuc Thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
6. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND thị xã Vĩnh Châu;
- Chi cục THADS thị xã Vĩnh Châu;
- Lưu: HSVA - VP.
Hồ Văn Phụng
12
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm