Bản án số 37/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND TP. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng tín dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2025/DS-ST ngày 31/03/2025 của TAND TP. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Trà Vinh (TAND tỉnh Trà Vinh)
Số hiệu: 37/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L với bị đơn Trương Thị Gia B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Khoa.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Cao Minh Sơn;
2. Bà Thạch Thị Mỹ Kim.
- Thư phiên tòa: Ông Anh Duy, Thư Tòa án nhân thành phố Trà
Vinh, tỉnh Trà Vinh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh tham
gia phiên tòa: Bà Phạm Thu Giang - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 3 m 2025 tại trụ sở a án nhân dân thành phố Trà Vinh,
tỉnh Trà Vinh xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 226/2023/TLST-DS ngày
10 tháng 10 năm 2023 v“Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 89/2025/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 02 năm 2025 giữa các
đương sự:
1. Nguyên đơn: Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L;
Địa chỉ: Số D L, Khóm A, Phường D, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Quốc T, chức vụ: Chủ tịch Hội đồng
quản trị.
Ông Quốc T ủy quyền cho ông Trần Quốc T1, chức vụ: Cán bộ tín dụng
tham gia tố tụng theo văn bản ủy quyền số: 346/UQ-QTD ngày 25 tháng 10 năm
2023 (có mặt);
2. Bị đơn:Trương Thị Gia B, sinh năm 1991 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp E, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.`
Địa chỉ cư trú hiện tại: Ấp C, xã A, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lâm Thị N, sinh năm 1966
(vắng mặt);
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ TRÀ VINH
TỈNH TRÀ VINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 37/2025/DS-ST
Ngày 31-3-2025
V/v tranh chấp hợp đồng tín dụng
1
Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án,
ông Trần Quốc T1 người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 15 tháng 7 năm 2014, bà Trương Thị Gia B có vay tại Quỹ tín dụng nhân dân
sở L số tiền 320.000.000 đồng. Hợp đồng tín dụng thế chấp cầm cố số
29A,B/7/2014 ngày 15 tháng 7 năm 2014 (số hợp đồng kế toán theo dõi 19/8/14
ngày 11 tháng 8 năm 2014), thời hạn vay 12 tháng , đến hạn ngày 11 tháng 8 năm
2015. Lãi suất 1,66%/tháng, lãi suất quá hạn 2,49%/tháng. Mục đích vay: Mua bán
lúa, mua máy kéo lúa. Nợ vay đã quá hạn. Tài sản thế chấp là:
Thửa đất số 92, tờ bản đồ số 13, loại đất ở, diện tích 96 m
2
, đất chuyên trồng
lúa nước, diện tích 3,8 m
2
, nhà diện tích sàn 97,7 m
2
tại Khóm D, Phường E,
thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số BM 982441 được Ủy ban nhân dân thành phố
T cấp ngày 17 tháng 4 năm 2013 cho bà Lâm Thị N.
Quỹ tín dụng nhân dân sở L yêu cầu Trương Thị Gia B trả cho Qu tín
dụng nhân dân sở L số tiền 1.134.329.600 đồng. Trong đó nợ gốc
320.000.000 đồng, nợ lãi tính từ ngày 08 tháng 11 năm 2016 đến hết ngày 31 tháng
3 năm 2025 là 814.329.600 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 01 tháng 4 năm 2025
cho đến khi trả hết nợ theo lãi suất quá hạn ghi trong hợp đồng tín dụng thế chấp
và cầm cố.
Trường hợp Trương Thị Gia B không trả nợ thì Quỹ tín dụng nhân dân
sở L yêu cầu cơ quan thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ gồm:
Thửa đất số 92, tbản đồ số 13, loại đất ở, diện tích 96 m
2
, đất chuyên trồng lúa
nước, diện tích 3,8 m
2
, nhà diện tích sàn 97,7 m
2
tại Khóm D, Phường E, thành
phố T, tỉnh Trà Vinh. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số BM 982441 được Ủy ban nhân dân thành phố T
cấp ngày 17 tháng 4 năm 2013 cho bà Lâm Thị N.
Trương Thị Gia B bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai
trong quá trình giải quyết vụ án như sau:Trương Thị Gia B có vay tiền tại Quỹ
tín dụng nhân dân sở L nhưng vay giùm cho Lâm Thị N. Người thực tế vay
tiền Lâm Thị N. Lâm Thị N người nhận tiền vay. Nay đối với yêu cầu
của Quỹ tín dụng nhân dân sở L thì Trương Thị Gia B không đồng ý.
Trương Thị Gia B yêu cầu bà Lâm Thị N phải có trách nhiệm trả số tiền đã vay tại
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L.
Lâm Thị N người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên
tòa. Trong quá trình giải quyết vụ án Lâm Thị N cũng không nộp cho Tòa án
văn bản trình bày ý kiến.
Sau khi thụ vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh đã tiến hành hòa
giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên việc
hòa giải không tiến hành được do bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
2
vắng mặt tại các phiên họp, đại diện nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án không tiến
hành hòa giải. Do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai nhưng vắng mặt không do. Các đương sự không nộp bổ sung tài liệu,
chứng cứ và không yêu cầu triệu tập thêm đương sự, người làm chứng, người tham
gia tố tụng khác tham gia phiên tòa.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh phát biểu
quan điểm như sau:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư đã thực hiện đúng các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định. Bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa chấp hành đúng quy định.
Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân
dân sở L. Buộc Trương Thị Gia B trả cho Qu tín dụng nhân dân sở L
Bình số tiền 1.134.329.600 đồng. Trong đó nợ gốc 320.000.000 đồng, nợ lãi
814.329.600 đồng tiền lãi phát sinh từ ngày 01 tháng 4 năm 2015 cho đến khi
thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.
Trường hợp Trương Thị Gia B không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ trả nợ thì Quỹ tín dụng nhân sở L quyền yêu cầu quan
thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp gồm: Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 92, tờ bản đồ số 13, loại đất ở, diện
tích 96 m
2
, đất chuyên trồng lúa nước, diện tích 3,8 m
2
nhà trên đất diện tích
xây dựng 76,2 m
2
, diện tích sàn 97,7 m
2
, kết cấu tường gạch, khung BTCT, sàn
BTCT, mái tôn, nền gạch men tại Khóm D, Phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.
Về án phí chi phí ttụng: Trương Thị Gia B phải chịu theo quy định
của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được xem xét tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật của vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín
dụng”. Bị đơn hiện trú tại Ấp C, A, huyện C, tỉnh Trà Vinh. Tuy nhiên theo
hợp đồng tín dụng đã ký kết các bên thỏa thuận lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn có
trụ sở Tòa án thẩm quyền giải quyết vụ án. Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a
khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh. Tại phiên
tòa, bà Trương Thị Gia B bị đơn Lâm Thị N là người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không
do. Căn cứ Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành
xét xử vắng mặt bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về mặt nội dung: Căn cứ hợp đồng tín dụng, thế chấp cầm cố số
3
29A,B/7/2014 ngày 15 tháng 7 năm 2014 thì bà Trương Thị Gia B có vay của Quỹ
tín dụng nhân dân sL số tiền 550.000.000 đồng. Thời hạn vay 12 tháng, từ
ngày11 tháng 8 năm 2014 đến ngày11 tháng 8 năm 2015. Hợp đồng tín dụng
chữ của Trương Thị Gia B. Trương Thị Gia B thừa nhận vay tiền tại
Quỹ tín dụng nhân dân sở L nhưng vay giùm cho Lâm Thị N. Trương
Thị Gia B không nhận tiền. Do quan hệ quen biết nên Lâm Thị N nhờ
Trương Thị Gia B đứng tên hợp đồng vay giùm.
[3] Căn cứ hồ tín dụng được Quỹ tín dụng nhân dân sở L cung cấp thì
khoản vay của Trương Thị Gia B được đảm bảo bằng hợp đồng thế chấp quyền
sử dụng đất số 29A/7/2014 ngày 15 tháng 7 năm 2014 của m Thị N. Tài sản
đảm bảo quyền sử dụng đất thuộc thửa số 92, tbản đồ s13, loại đất ở, diện
tích 96 m
2
, đất chuyên trồng lúa nước, diện tích 3,8 m
2
nhà trên đất tại Khóm
D, Phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh của Lâm Thị N nhưng hợp đồng thế
chấp này chỉ đảm bảo cho số tiền 320.000.000 đồng. Số tiền 230.000.000 đồng còn
lại được đảm bảo bằng Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 29B/7/2014 ngày
15 tháng 7 năm 2014 của ông Thái Văn A, Hiếu Á. Tài sản đảm bảo
quyền sử dụng đất thuộc thửa số 254A, tờ bản đồ số 13, diện tích 3.670 m
2
; thửa số
391, tờ bản đồ số 13, diện tích 5.168 m
2
; thửa số 254C, tờ bản đồ số 13, diện tích
460 m
2
tại ấp C, T, huyện C, tỉnh Trà Vinh của hộ ông Thái Văn A. Qua xác
minh ông Thái Văn A, bà Hiếu Á thì do ông A, bà Á chỗ xóm giềng, gần nhà
Lâm Thị N nên cách nay khoảng 10 năm, bà N có mượn giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất của ông A, bà Á để vay tiền. Sau đó người của Quỹ tín dụng nhân
dân sở L đến yêu cầu ông A, Á trả tiền thì ông A, bà Á mới biết N lấy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông A, bà Á đi vay tiền tại Quỹ tín
dụng nhân dân sở L. Ông A, Á yêu cầu N trả giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nhưng N không trả. Ông A, Á phải bán đất để trả tiền cho Quỹ
tín dụng nhân dân cơ sở L sau đó tiếp tục vay tiền lại tại Quỹ tín dụng nhân dân
sở L để lấy giấy chứng nhận quyền sdụng đất ra do giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông A, Á kèm chung với khoảng vay của N. Hồ vay do
người của Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L nhờ người vay giùm. Còn Trương Thị
Gia B ai thì ông A, Á không biết. Lời khai của ông A, Á phù hợp với hồ
tín dụng được Quỹ tín dụng nhân dân L cung cấp. Trong đó thể hiện ngày 18
tháng 11 năm 2016 Hiếu Á đơn xin rút một phần tài sản thế chấp Quỹ
n dụng nhân dân L phụ lục hợp đồng điều chỉnh nợ vay gốc của Gia Bảo
xuống còn 320.000.000 đồng. Hiện tại ông A, Á không còn thế chấp tài sản nào
tại Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L.
[4] Căn cứ lời khai của ông Thái Văn A, Hiếu Á kết hợp với 03 phiếu
thu cùng ngày 05 tháng 02 năm 2016, ghi người nộp tiền Trương Thị Gia B
nhưng Lâm Thị N tại phần người nộp; 02 phiếu thu cùng ngày 08 tháng 11
năm 2016 ghi người nộp tiền là Trương Thị Gia B nhưng Hiếu Á ký tại
phần người nộp sở xác định Trương Thị Gia B vay giùm cho Lâm
Thị N số tiền 550.000.000 đồng tại Quỹ tín dụng nhân dân sở L. Trong đó
Lâm Thị N sử dụng quyền sử dụng đất của mình đảm bảo cho số tiền 320.000.000
đồng và quyền sử dụng đất của ông Thái Văn A, bà Lê Hiếu Á đảm bảo cho số tiền
4
230.000.000 đồng.
[5] Qua xem xét ý kiến của bà Trương Thị Gia B trình bày trong quá trình giải
quyết vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy Trương Thị Gia B xác định Trương
Thị Gia B vay tiền tại Quỹ tín dụng nhân dân sở L nhưng vay giùm cho
Lâm Thị N. Việc Trương Thị Gia B vay tiền giùm cho m Thị N do hai
bên thống nhất với nhau. Trương Thị Gia B biết việc vay tiền vay giùm cho
Lâm Thị N chứ không phải vay cho bản thân mình nhưng vẫn chấp nhận.
Trương Thị Gia B người đã trưởng thành, đầy đủ năng lực hành vi nên phải
biết hậu quả của việc đứng ra vay tiền giùm cho Lâm Thị N sẽ phải chịu
trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay này trong trường hợp Lâm Thị N không
thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Trong trường hợp này Trương Thị Gia B phải
nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc 320.000.000 đồng như Quỹ tín dụng nhân dân sở
L yêu cầu. Còn việc thỏa thuận vay tiền giùm thỏa thuận giữa Trương Thị
Gia B với Lâm Thị N. Trương Thị Gia B quyền khởi kiện Lâm Thị N
trong một vụ án khác.
[6] Về tiền lãi: Căn cứ Căn cứ hợp đồng tín dụng, thế chấp cầm cố số
29A,B/7/2014 ngày 15 tháng 7 năm 2014 Quỹ tín dụng nhân dân sở L
Trương Thị Gia B thỏa thuận về tiền lãi, bao gồm lãi trong hạn lãi quá hạn
nên trường hợp Trương Thị Gia B không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì
Quỹ tín dụng nhân dân sL quyền yêu cầu tính lãi theo như đã thỏa thuận.
Theo hsơ tín dụng của Quỹ tín dụng nhân dân sở L cung cấp thì vào ngày 29
tháng 12 năm 2015 giữa Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L với bà Trương Thị Gia B,
Lâm Thị N có thỏa thuận giao tài sản thế chấp cho Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
L bán để thu hồi nợ. Kể từ khi giao tài sản cho Quỹ tín dụng nhân dân sở L thì
số nợ chỉ tính lãi trong hạn cho đến khi bán tài sản để thu hồi nợ hoặc đến khi
thanh toán xong hợp đồng tín dụng đã ký. Như vậy xem như giữa Quỹ tín dụng
nhân dân cơ sở L Trương Thị Gia B, bà Lâm Thị N thỏa thuận lại về hợp
đồng tín dụng liên quan đến việc tính lãi. Tuy nhiên tài sản thế chấp hiện tại
Lâm Thị N vẫn đang quản lý, không giao cho Quỹ n dụng nhân dân sở L
nên thỏa thuận này không phát sinh hiệu lực. Do đó Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L
yêu cầu tính lãi quá hạn đối với khoản vay của bà Trương Thị Gia B là có cơ sở để
chấp nhận.
[7] Tính đến ngày xét xử (ngày 31 tháng 3 năm 2025) tổng số nợ Trương
Thị Gia B còn nợ tại Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L 1.134.329.600 đồng. Trong
đó nợ gốc 320.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 814.329.600 đồng. Như vậy
Trương Thị Gia B phải nghĩa vụ trả cho Quỹ tín dụng nhân dân sở L số tiền
1.134.329.600 đồng. Yêu cầu của Quỹ tín dụng nhân dân sở L sở để
chấp nhận.
[8] Kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2025 cho đến khi thi hành án xong, bà Trương
Thị Gia B còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức
lãi suất quá hạn các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký kết.
[9] Trường hợp Trương Thị Gia B không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì Quỹ tín dụng nhân dân sL quyền yêu cầu
5
quan thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp gồm: Quyền sdụng đất, quyền sở
hữu nhà tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 92, tờ bản đồ s13, loại đất
ở, diện tích 96 m
2
, đất chuyên trồng lúa nước, diện tích 3,8 m
2
nhà trên đất
diện tích xây dựng 76,2 m
2
, diện tích sàn 97,7 m
2
, kết cấu tường gạch, khung
BTCT, sàn BTCT, mái tôn, nền gạch men tại Khóm D, Phường E, thành phố T,
tỉnh Trà Vinh.
[10] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Trương Thị Gia B phải
chịu toàn bộ án phí dân sự thẩm chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ theo quy
định.
[11] Xét thấy ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Trà Vinh phợp với tình tiết khách quan của vụ án cũng như phù hợp với
quan điểm của Hội đồng xét xử nên có cơ sở để chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 5; khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản
1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 157; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
Căn cứ quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm
2015.
Căn cứ vào Điều 91; Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017).
Căn cứ vào Điều 7, Điều 8, Điều 12, Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-
HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật v lãi, lãi suất, phạt vi
phạm.
Căn cứ vào Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân sở L. Buộc
Trương Thị Gia B trả cho Quỹ tín dụng nhân dân sở L số tiền 1.134.329.600
đồng. Trong đó nợ gốc là 320.000.000 đồng, nợ lãi quá hạn là 814.329.600 đồng.
Kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2025 cho đến khi thi hành án xong, bà Trương Thị
Gia B còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi
suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký kết.
Trường hợp Trương Thị Gia B không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ nghĩa vụ trả nợ thì Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L có quyền yêu cầu quan có
thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp gồm: Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 92, tờ bản đồ số 13, loại đất ở, diện
tích 96 m
2
, đất chuyên trồng lúa nước, diện tích 3,8 m
2
nhà trên đất diện tích
6
xây dựng 76,2 m
2
, diện tích sàn 97,7 m
2
, kết cấu tường gạch, khung BTCT, sàn
BTCT, mái tôn, nền gạch men tại Khóm D, Phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.
Về án phí: Buộc Trương Thị Gia B phải chịu 78.686.592 đồng án phí dân
sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho Quỹ tín dụng nhân dân sở L số tiền 20.942.900
đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu tiền số 0018162 ngày 09 tháng 10 năm 2023
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.
Về chi phí tố tụng: Buộc bà Trương Thị Gia B phải chịu 500.000 đồng chi phí
xem xét, thẩm định tại chỗ. Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L đã nộp tạm ứng
1.000.000 đồng. Tòa án đã chi 500.000 đồngcho việc xem xét, thẩm định tại chỗ.
Còn lại 500.000 đồng được hoàn trả lại cho Quỹ tín dụng nhân dân sở L.
Trương Thị Gia B nghĩa vụ nộp số tiền 500.000 đồng tại quan thi hành án
dân sự thành phố T để trả lại cho Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở L.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án. Bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quyền
kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể tngày nhận được bản án hoặc kể tngày
bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Trà Vinh;
- VKSND Tp Trà Vinh;
- Chi cục THADS Tp Trà Vinh;
- Đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Anh Khoa
Tải về
Bản án số 37/2025/DS-ST Bản án số 37/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 37/2025/DS-ST Bản án số 37/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất