Bản án số 31/2025/LĐ-PT ngày 22/05/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 31/2025/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 31/2025/LĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 31/2025/LĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 31/2025/LĐ-PT ngày 22/05/2025 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 31/2025/LĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/05/2025 |
Lĩnh vực: | Lao động |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông A khởi kiện Công ty V |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 31/2025/LĐ-PT
Ngày: 22-5-2025
Về tranh chấp về lao động,
tiền lương, bảo hiểm xã hội
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Bà Nguyễn Thị Phương Thuỷ
Các Thẩm phán: Ông Tống Quốc Thanh
Bà Dương Tuyết Mai
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Khánh Nam - Thư ký Tòa án
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Kim Thanh - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 16 và 22/5/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 02/2025/TLPT-LĐ
ngày 14/02/2025 về tranh chấp về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội.
Do Bản án lao động sơ thẩm số 17/2024/LĐ-ST ngày 20/12/2024 của
Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội bị Bị đơn kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 277/2025/QĐ-PT ngày
01/4/2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 329/2025/QĐ-PT ngày 14/4/2025,
giữa:
1. Nguyên đơn: Ông K; sinh năm 1986; Quốc tịch: Nga; Tạm trú tại:
P103, Toà nhà Ecohome Grasstield đường Nguyễn Văn Hưởng, phường Thảo
Điền, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo uỷ quyền của
nguyên đơn: Công ty Luật TNHH Alana Nhàn Nguyễn; Địa chỉ: số 122 Khuất
Duy Tiến, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; Người
đại diện: Luật sư Nguyễn Thị Nhàn – Chức danh: Giám đốc; Người đại diện
theo ủy quyền được cử: Bà Nguyễn Thị Nhàn và bà Dương Diệp Quần - Luật
sư Công ty Luật TNHH Alana Nhàn Nguyễn (Theo Giấy uỷ quyền lập ngày
20/3/2025 tại Văn phòng công chứng Trần Thị Thu Hằng, thành phố Hồ Chí
Minh và Quyết định về việc cử Luật sư tham gia tố tụng số 09/QĐ ngày
12/3/2025 của Công ty Luật TNHH Alana Nhàn Nguyễn); có mặt.
2
2. Bị đơn: Công ty V; Trụ sở: Số 01 - 02 Làng T, phường D, quận C,
thành phố Hà Nội; Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Chí K - Chức
danh: Chủ tịch Hội đồng quản trị; Người đại diện theo uỷ quyền: Bà Cao Thị
Thuý H; sinh năm 1985; thường trú tại: số 119 đường T, phường D, quận C,
thành phố Hà Nội (Theo Giấy uỷ quyền ngày 12/3/2024 của Công ty V); có
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm, vụ án có nội dung như sau:
[1] Tại Đơn khởi kiện ngày 20/11/2023, Đơn khởi kiện bổ sung ngày
25/01/2024, các bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp
cận công khai chứng cứ và hoà giải, nguyên đơn là ông K do người đại diện
theo ủy quyền trình bày:
Ngày 28/03/2022, Ông K (sau đây gọi là “ông K”) ký Hợp đồng lao
động và bắt đầu làm việc tại Công ty V Quốc tế Việt Nga (sau đây gọi tắt là
“Công ty V”). Sau hơn một năm làm việc, ông K nhận thấy môi trường làm
việc không phù hợp với mình nên căn cứ Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019,
ngày 07/7/2023 ông nộp đơn xin thôi việc đến Công ty V để đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động sau 45 ngày (tức là chấm dứt hợp đồng lao động
vào ngày 20/08/2023). Tuy nhiên, phía Công ty V không phối hợp để thực
hiện các thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động với ông, không chi trả tiền
lương, bảo hiểm xã hội và không trả bản chính chứng chỉ hành nghề khám
chữa bệnh cho ông.
Quá trình làm việc tại Công ty V cho đến khi chấm dứt hợp đồng lao
động, ông K đã thực hiện đúng Hợp đồng lao động, đúng quy định của Bộ luật
Lao động năm 2019 cho đến khi chấm dứt hợp đồng lao động. Ông không gây
ra thiệt hại gì cho Công ty V và đã thực hiện đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động đúng quy định. Ông đã nộp Đơn xin thôi việc hợp lệ cho Công ty V
trước 45 ngày. Đơn của ông được bà Nguyễn Kim Thanh - Phòng Hành chính
nhân sự Công ty V ký nhận vào hồi 08 giờ 45 phút ngày 07/7/2023. Sau khi
nộp đơn, ông vẫn tiếp tục làm việc tại Công ty V cho đến hết ngày 20/08/2023
và bắt đầu nghỉ việc từ ngày 21/08/2023.
Từ đó đến nay, ông đã nhiều lần yêu cầu Công ty V thực hiện các trách
nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông, bao gồm: thanh toán tiền
lương tháng 8, ban hành quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với ông và
xác nhận thời gian làm việc cho ông, giao trả cho ông bản chính chứng chỉ
hành nghề khám chữa bệnh, thực hiện thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo
hiểm xã hội và giao trả cho ông sổ bảo hiểm xã hội nhưng Công ty V không
thực hiện.
Hành động bất hợp tác của Công ty V là vi phạm pháp luật về lao động,
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của ông. Vì vậy căn cứ Điều 48 Bộ luật
3
lao động năm 2019, Điều 21 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, ông khởi kiện
vụ án lao động và yêu cầu Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy giải quyết buộc
Công ty V thực hiện các nội dung sau:
1. Ban hành Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động, xác nhận thời gian
làm việc của ông từ ngày 28/3/2022 đến ngày 20/08/2023 và giao các văn bản
này cho ông hoặc người được ông ủy quyền, chỉ định.
2. Thực hiện thủ tục xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội và giao trả
sổ bảo hiểm xã hội có đính kèm tờ xác nhận thời gian đóng bảo hiểm xã hội
tên ông. Việc bàn giao được thực hiện bằng cách giao cho ông K hoặc người
được ủy quyền hoặc người do ông K chỉ định.
3. Thanh toán toàn bộ tiền lương từ ngày 01/08/2023 đến ngày 20/8/2023
bằng hình thức chuyển vào tài khoản ngân hàng của ông K số tiền là 2627,8
USD, tương đương 64.722.000 đồng.
4. Giao trả bản chính Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số
047212/BYT-CCHN do Bộ y tế Việt Nam cấp ngày 11/07/2022 cho ông hoặc
người được ông ủy quyền hoặc chỉ định. Yêu cầu Công ty V lấy lại Chứng chỉ
hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số 047212/BYT-CCHN do Bộ Y tế Việt
Nam cấp ngày 11/07/2022 cho ông mà Công ty V đã nộp trả cho Cục Quản lý
khám chữa bệnh - Bộ y tế vì việc nộp trả này không đúng quy định của pháp
luật.
[2] Tại Văn bản số 18/MVN-HSNS ngày 12/3/2024, các bản khai, biên
bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà
giải, bị đơn là Công ty V do người đại diện trình bày:
2.1 Về hồ sơ khởi kiện của nguyên đơn:
Ông K có Quốc tịch Nga, không có chứng chỉ thành thạo ngôn ngữ tiếng
Việt, không biết tiếng Việt, do vậy khi tham gia khám, chữa bệnh, giao dịch
với người bệnh tại Công ty V phải thông qua phiên dịch có chứng nhận của cơ
quan có thẩm quyền xác nhận trình độ phiên dịch trong khám chữa bệnh từ
tiếng Nga sang tiếng Việt. Tuy nhiên, hồ sơ khởi kiện phía nguyên đơn gửi
cho Công ty V bao gồm: Đơn khởi kiện và các tài liệu kèm theo hoàn toàn
bằng tiếng Việt, không được dịch thuật hay thể hiện có người phiên dịch xác
nhận ông K đã được giải thích và hiểu nội dung các văn bản ký gửi đến Tòa
án. Đề nghị Tòa án xem xét tính khách quan của các tài liệu khởi kiện.
2.2 Về nội dung các yêu cầu khởi kiện:
Ông K là bác sĩ khám chữa bệnh chuyên khoa mắt, được Công ty V làm
thủ tục xin cấp Giấy phép lao động làm việc với vị trí chuyên gia tại Công ty
V, thời hạn từ ngày 28/3/2022 đến 17/02/2024 theo Giấy phép lao động số
067181/SLĐ-GP No: 2588/SHN/2022/OL do Sở Lao động, Thương binh và
Xã hội thành phố Hà Nội cấp ngày 28/02/2022.
4
Sau khi được cấp Giấy phép lao động nêu trên, ngày 28/3/2022, Công ty
V và ông K đã ký một Biên bản thỏa thuận có nội dung: ông K sẽ làm việc tại
Công ty V trong thời hạn 05 năm, nhằm đảm bảo cho toàn bộ chi phí Công ty
V bỏ ra để ông K đủ điều kiện hành nghề khám chữa bệnh và bảo lãnh cho gia
đình ông sang sinh sống cùng ông trong quá trình làm việc cho Công ty V tại
Việt Nam. Cụ thể:
- Công ty V phải bảo lãnh và mua vé máy bay cho cả gia đình ông K
gồm 04 người sang Việt Nam; hoàn tất các thủ tục xin cấp thị thực, đăng ký
tạm trú, nhà ở, sinh hoạt, đi lại, xin cấp Giấy phép lao động; hoàn tất thủ tục
cấp Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và được Bộ Y tế cấp chứng
chỉ số 047218/BYT-CCHN ngày 11/7/2022 theo quy định của pháp luật Việt
Nam.
- Ông K cam kết làm việc tại Công ty V trong thời hạn 05 năm với mức
lương, thưởng theo thỏa thuận. Sau khi xác nhận hoàn thành đào tạo, ông K có
nghĩa vụ nộp tiền đặt cọc 200 USD/tháng. Nếu vi phạm thỏa thuận thì tiền đặt
cọc sẽ không được hoàn trả. Nếu ông K chấm dứt thỏa thuận trước hạn, ông
phải hoàn trả cho Công ty V chi phí đào tạo của người lao động và bồi thường
thiệt hại gây ra cho Công ty V do việc phá hợp đồng trước thời hạn.
Trên cơ sở thỏa thuận trên, Công ty V và ông K thực hiện ký Hợp đồng
lao động. Công ty V đã bảo lãnh ông K và gia đình (gồm 04 người) đến Việt
Nam để sinh sống và làm việc. Đồng thời, trong quá trình hợp tác, Công ty V
đã cử ông K tham gia các khóa đào tạo chuyên sâu quốc tế ở trong nước và
nước ngoài.
Quá trình thực hiện Hợp đồng, ông K đã nhiều lần không hoàn thành
nhiệm vụ, hiệu quả làm việc thấp, nhiều lần Ban lãnh đạo Công ty phải họp có
sự tham gia của ông K và lập biên bản, trong đó có Biên bản đánh giá kết quả
làm việc sau thời gian thử thách ngày 27/6/2023 đã kết luận: “Bác sĩ Artem
không thực hiện lệnh điều động của BGĐ, chuyển BS Artem về tập đoàn kể từ
ngày 01/7/2023”. Mặc dù ông K chưa hoàn thành nhiệm vụ, xong Công ty V
vẫn cử ông tham dự khóa đào tạo tại Singapore để nâng cao trình độ.
Ngày 07/7/2023, ông K có đơn xin nghỉ việc và không đến làm việc tại
Công ty V từ ngày 21/8/2023. Công ty V đã tính lương 20 ngày công tháng 8
và đã thông báo cho ông qua email.
Sau khi nghỉ việc tại Công ty V, ông K và gia đình đã chuyển vào sinh
sống tại thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên Công ty V không biết địa chỉ cụ
thể. Công ty V nhiều lần gửi thư mời qua bưu điện theo địa chỉ của Luật sư
ông K và qua email để mời ông đến văn phòng Công ty V để thỏa thuận chấm
dứt Hợp đồng lao động, chi trả tiền lương còn lại, bảo hiểm xã hội... nhưng
ông K đã từ chối đến Công ty V làm việc để chấm dứt Hợp đồng theo quy
định.
5
Ông K được cấp Giấy phép lao động làm việc tại Công ty V trong thời
hạn từ ngày 28/3/2022 đến ngày 17/02/2024, nhưng sau khi nghỉ việc ông K
và chưa giải quyết dứt điểm việc chấm dứt hợp đồng, ông đã đến làm việc bất
hợp pháp tại cơ sở khám mắt Châu Âu, tên tiếng Anh là “European Eye
center” có địa chỉ tại: 41 Nguyễn Duy Hiệu, Thảo Điền, thành phố Thủ Đức,
thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung này được văn phòng Thừa phát lại Ba Đình
tiến hành lập Vi bằng ngày 30/11/2023 theo yêu cầu của Công ty V.
Ngày 02/12/2023, Công ty V có Công văn số 56/2023/CV-MVN gửi Sở
y tế thành phố Hồ Chí Minh, Thanh tra Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh, Phòng
khám mắt Châu Âu (41 Nguyễn Duy Hiệu, Thảo Điền, thành phố Thủ Đức,
thành phố Hồ Chí Minh) để thông báo về những sai phạm của ông K. Tháng
02/2024, Phòng khám mắt Châu Âu bị Sở y tế thành phố Hồ Chí Minh xử phạt
vi phạm hành chính về việc sử dụng người hành nghề không đăng ký khám
bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Công ty V đã có văn bản gửi các Cơ quan quản lý Nhà nước
(Cục xuất nhập cảnh, Sở lao động, Bộ Y tế và Đại sứ quán Nga tại Việt Nam)
về việc ông K không còn làm việc theo sự bảo lãnh của Công ty V. Công ty đã
nộp bản gốc Giấy phép lao động về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội
thành phố Hà Nội, nộp Chứng chỉ hành nghề của ông K về Bộ y tế để rút
phiên dịch viên sử dụng cho các chuyên gia khác.
Như vậy, ông K đã vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng lao động, đơn
phương vi phạm thỏa thuận hợp tác với Công ty V, đến làm việc bất hợp pháp
tại cơ sở khám chữa bệnh khác và nhiều lần Công ty V gửi văn bản thư và
email đề nghị ông K đến Công ty V để giải quyết dứt điểm các vấn đề vướng
mắc nhưng ông K không đến. Việc ông K khởi kiện cho rằng Công ty V có vi
phạm khi không giải quyết chế độ cho ông K xin nghỉ việc là điều hết sức vô
lý.
Đối với nội dung khởi kiện yêu cầu Công ty V trả lại Chứng chỉ hành
nghề: Chứng chỉ hành nghề số 047212/BYT-CCHN được Bộ Y tế cấp ngày
11/7/2022 cho ông K do Công ty V thực hiện các thủ tục xin cấp, trong đó
thành phần hồ sơ bắt buộc phải có: Giấy phép lao động, Giấy chứng nhận
người phiên dịch. Công ty V có cử người phiên dịch là anh Nguyễn Minh
Quân được Cục Quản lý khám chữa bệnh - Bộ Y tế cấp Giấy xác nhận phiên
dịch cho người nước ngoài hành nghề tại Việt Nam số 992/KCB-QLHN ngày
04/8/2022. Tại thời điểm ông K không làm việc tại Công ty V, đồng nghĩa với
việc Chứng chỉ hành nghề không đáp ứng điều kiện sử dụng theo quy định của
Luật khám bệnh, chữa bệnh bởi: Người phiên dịch sẽ không tiếp tục phiên
dịch cho ông K và địa điểm làm việc theo Giấy phép lao động cấp cho ông K
là tại Công ty V. Vì vậy, Công ty V đã nộp lại chứng chỉ hành nghề cho Bộ Y
tế, tránh việc ông K sử dụng chứng chỉ khi không còn đáp ứng đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật. Do đó, ông K khởi kiện yêu cầu Công ty V trả lại

6
Chứng chỉ hành nghề là không có căn cứ. Khi ông K không còn làm việc cho
Công ty V thì Giấy phép lao động, Chứng chỉ hành nghề đã cấp, người phiên
dịch không còn hiệu lực theo quy định của pháp luật.
Ông K là chuyên gia nước ngoài được Công ty V bảo lãnh sang làm việc
tại Việt Nam. Vì vậy, ông phải thực hiện đúng những cam kết đã ký với Công
ty V. Tuy nhiên, ông đã vi phạm nội dung hợp tác, tự ý nghỉ việc. Do vậy,
Công ty V không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của ông K.
Mặt khác, sau hơn 01 năm hợp tác với ông K, Công ty V đã hoàn thành
đầy đủ trách nhiệm của mình, đã tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề, tổ chức
cho bác sỹ được thực hành và tham gia hội thảo khoa học ở nước ngoài. Ông
K đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động đã ký, đơn phương bỏ việc
làm đình trệ các hoạt động cũng như gây thiệt hại lớn cho Công ty V.
Vì vậy, Công ty V đề nghị ông K phải đền bù chi phí đào tạo cũng như
các chi phí thiệt hại cho Công ty V gồm những khoản sau:
STT
Nội dung
Số tiền
1
Chi phí tuyển dụng, tư vấn, lọc hồ sơ tìm kiếm ứng
viên, dịch thuật giấy tờ mời sang công tác theo quy
định của pháp luật Việt Nam từ tháng 7/2021 đến
tháng 4/2022
160.536.922
2
Chi phí tiếp nhận và hỗ trợ chuyên gia sau khi chuyên
gia sang Việt Nam cho tới khi chuyên gia nhận được
Chứng chỉ hành nghề, gồm:
685.450.013
2.1
Phí công chứng, sao y, dịch thuật hồ sơ giấy tờ liên quan
tới ông K
3.152.000
2.2
Chi phí khám sức khỏe ông K tại Bệnh viện Bảo Sơn và
chi phí sao y Giấy khám sức khỏe
2.010.000
2.3
Chi phí vé máy bay cho ông K chặng DME-DXB-HAN
ngày 23/3/2022 + 24/3/2022
20.900.000
2.4
Chi phí mua vé máy bay ông K từ HN-TPHCM ngày
5/5/2023 và từ TPHCM-HN ngày 7/5/2023
3.728.000
2.5
Chi phi công tác cho ông K từ HN đi TPHCM
3.285.000
2.6
Chi phí chuẩn bị giấy tờ thủ tục đăng ký xuất nhập cảnh,
visa, vé máy bay mời vợ con ông K sang Việt Nam thủ tục
tạm trú tạm vắng của cả gia đinh, ăn uống sinh hoạt và hỗ
trợ gia đình ông K các vấn đề phát sinh tại Việt Nam
456.583.187
2.7
Chi phí tiền lương thực tế cho ông K trong thời gian học
việc (nhằm chi trả cuộc sống nuôi vợ và con) từ lúc sang
Việt Nam từ ngày 24/3/2022 cho tới khi nhận được chứng
chỉ hành nghề ngày 11/7/2022
194.941.825

7
3
Chi phí đào tạo cho ông K biết vận hành và sử dụng
máy mổ, gồm:
994.989.058
3.1
Chi phí license đào tạo theo qui định của Hãng Zeiss
974.450.000
3.2
Chi phí gửi ông K đi tham gia hội thảo và đào tạo tại
Kuala lumpur Malaysia (3 ngày 2 đêm)
20.539.058
4
Chi phí yêu cầu bồi thường thiệt hại do ông K nghỉ
(trong trường hợp ông K còn làm việc thì cơ hội có
doanh thu, tuy nhiên từ khi ông K bỏ việc từ 21/8/2023
đến 14/3/2024 phải tìm bác sỹ mới và đào tạo, hoàn
thiện thủ tục do phá hợp đồng).
3.373.205.735
4.1
Chi phí nhà ở sinh hoạt cho ông K từ 24/3/2023 đến
14/3/2024
542.660.505
4.2
Chi phí tiền lương phiên dịch từ ngày 21/8/2023 đến ngày
14/3/2024 (bao gồm cả BHXH và phúc lợi)
199.555.070
4.3
Thiệt hại do ông K gây ra cho việc suy giảm doanh số và
phải tìm kiếm chuyên gia mới thay thế
2.630.990.160
Tổng cộng
5.214.181.728 VND
Quy đổi từ VND sang USD theo tỷ giá 24.000 VND/USD
217,257.57 USD
2.3 Bị đơn có ý kiến về các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn như sau:
- Đối với yêu cầu khởi kiện thứ nhất: Sau khi ông K thực hiện nghĩa vụ
tài chính đối với Công ty V thì Công ty V sẽ trao Quyết định chấm dứt hợp
đồng lao động với ông K.
- Đối với yêu cầu khởi kiện thứ hai: Về bảo hiểm xã hội Công ty V xác
định đã báo tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội với cơ quan bảo hiểm quận Cầu
Giấy và đã trả sổ Bảo hiểm xã hội cho ông K vào ngày 12/6/2023. Do vậy để
chốt sổ bảo hiểm, ông K cầm sổ bảo hiểm xã hội đến bảo hiểm xã hội quận
Cầu Giấy để chốt sổ.
- Đối với yêu cầu khởi kiện thứ ba: Căn cứ theo bản chấm công thực tế,
Công ty V xác định chưa thanh toán tiền lương từ 01/8/2023 - 16/8/2023 cho
ông K, số tiền là: 2.030 USD, tương đương 56.768.950 Việt Nam đồng (2.030
USD x 24.650 VNĐ/USD = 56.768.950 đồng). Lý do chưa thanh toán là do:
Công ty V đã nhiều lần gửi thông báo mời ông K đến nhận nhưng ông không
đến nhận. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán toàn bộ tiền lương từ
01/08/2023 - 20/08/2023 số tiền là 2627,8 USD tương đương 64.722.000 đồng
thì bị đơn chỉ đồng ý thanh toán 56.768.950 đồng.
- Đối với yêu cầu khởi kiện thứ tư:
Trước khi xin cấp Chứng chỉ hành nghề, giữa hai bên đã thỏa thuận Công
ty V ứng toàn bộ chi phí xin cấp chứng chỉ hành nghề cho ông K, còn ông K
phải làm việc tại Công ty V trong 10 năm. Tuy nhiên, ông K vi phạm thỏa
8
thuận về thời hạn trên. Cùng với đó, để được cấp chứng chỉ hành nghề, Công
ty V đã phải cử một phiên dịch viên kèm theo. Kể từ khi ông K vi phạm, Công
ty V đã rút phiên dịch viên cho một bác sĩ khác và giao lại cho Cục Quản lý
khám chữa bệnh - Bộ y tế chứng chỉ hành nghề. Do vậy, Công ty V không còn
quản lý chứng chỉ hành nghề của Artem. Theo Giấy phép lao động, thời hạn
làm việc của ông K tại Công ty V từ ngày 28/3/2022 đến ngày 17/02/2024.
Nay thời hạn này đã hết nên ông K không thuộc quyền quản lý của Công ty V.
Theo quy định tại Điều 2 Luật khám chữa bệnh thì chứng chỉ hành nghề
thuộc về cá nhân ông K nên yêu cầu khởi kiện buộc Công ty V trả lại bản
chính Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số 047212/BYT-CCHN do
Bộ y tế cấp ngày 11/07/2022 cho ông K là không có căn cứ nên bị đơn không
chấp nhận. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Bị đơn xác định không có yêu cầu phản tố, không nộp đơn yêu cầu phản
tố. Bị đơn giữ nguyên các ý kiến tại Văn bản số 18/MVN-HCNS ngày
12/3/2024 và các ý kiến tại các biên bản hòa giải tại Tòa án.
[3] Tại Bản án sơ thẩm số 17/2024/LĐ-ST ngày 20/12/2024 của Tòa
án nhân dân quận Cầu Giấy đã xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông K đối với Công ty Cổ
phần Viện mắt. Cụ thể:
1. Buộc Công ty V phải ban hành Quyết định chấm dứt Hợp đồng lao
động với ông K.
2. Đối với sổ bảo hiểm xã hội của ông K không xác định được hiện do ai
đang quản lý, ông K có quyền đề nghị Cơ quan bảo hiểm xã hội có thẩm
quyền cấp lại sổ Bảo hiểm xã hội theo quy định.
3. Công ty V phải thanh toán cho ông K tiền lương tương ứng với số
ngày công làm việc từ 01/08/2023 - 16/08/2023 số tiền là: 2.030 USD, tương
đương 56.768.950 đồng.
4. Ông K liên hệ với Cục Quản lý khám, chữa bệnh - Bộ Y tế để được
giải quyết về bản gốc Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số
047212/BYT-CCHN do Bộ Y tế cấp ngày 11/7/2022 cho ông K theo quy định
pháp luật của Việt Nam đối với người lao động nước ngoài tại Việt Nam.
5. Đối với yêu cầu của Công ty V đề nghị ông K phải đền bù chi phí đào
tạo, chi phí thiệt hại cho Công ty V số tiền là: 217.257,57 USD, tương đương
5.214.181.728 đồng theo bảng tổng hợp chi phí Công ty V đã lập đối với ông
K nhưng Công ty V không nộp đơn yêu cầu phản tố, không giao nộp tài liệu
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu này nên không có căn cứ để xem xét. Công
ty V có quyền khởi kiện bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu và giao nộp tài
liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu này.
Ngoài ra bản án còn tuyên về lãi suất thi hành án, quyền yêu cầu thi hành
án, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
9
[4] Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 03/01/2025, bị đơn kháng
cáo một phần bản án sơ thẩm với nội dung:
1. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên ông K đơn phương chấm dứt hợp
đồng trái pháp luật, vì:
Theo Hợp đồng lao động và theo Thỏa thuận hợp tác, ông K phải làm
việc tại Công ty V trong thời hạn 05 năm. Tuy nhiên, ông K mới làm việc
được hơn 01 năm đã nộp đơn xin nghỉ việc vào ngày 07/7/2023, là vi phạm
thỏa thuận.
Từ khi ông K nộp đơn xin nghỉ việc (ngày 07/7/2023) cho đến ngày ông
K nghỉ hẳn (ngày 16/8/2023) được 41 ngày, là chưa đủ thời hạn báo trước (45
ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn) quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 35 Bộ luật lao động năm 2019. Do đó xác định ông K đơn
phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật. Tòa sơ thẩm nhận định ông K đơn
phương chấm dứt hợp đồng đúng quy định của pháp luật là không đúng.
2. Do ông K đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật, nên theo
khoản 2, 3 Điều 40 Bộ luật Lao động năm 2019, ông phải bồi thường cho
Công ty V: nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền
tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo
trước; phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo. Tuy nhiên
Tòa sơ thẩm đã không buộc ông K phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường các
khoản tiền nêu trên cho Công ty V.
Do đó, Công ty V kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc sửa bản án sơ thẩm
với hai nội dung:
- Tuyên xác định ông K đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái với
quy định của pháp luật.
- Buộc ông K phải bồi thường cho Công ty V tổng số tiền: 1.021.528.234
đồng, bao gồm:
+ Chi phí đào tạo cho ông K biết vận hành và sử dụng máy mổ:
994.989.058 đồng;
+ Nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động do vi phạm thời hạn báo
trước: 26.539.176 đồng.
[5] Tại phiên toà phúc thẩm:
1. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày:
Công ty V đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên ông K đã vi phạm thời
hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Cụ thể bị đơn nộp
đơn xin thôi việc ngày 07/7/2023 nhưng ngày 16/8/2023 đã nghỉ việc, mới
được 41 ngày, là chưa đủ 45 ngày báo trước đối với hợp đồng lao động không
xác định thời hạn quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật lao động năm
10
2019. Do đó xác định ông K đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật.
Công ty V yêu cầu ông K phải bồi thường cho Công ty V số tiền
1.021.528.234 đồng, bao gồm: chi phí đào tạo là 994.989.058 đồng và số tiền
do vi phạm thời hạn báo trước là 26.539.176 đồng. Đối với số tiền chi phí đào
tạo 994.989.058 đồng, Công ty V đã yêu cầu đòi tại cấp sơ thẩm. Còn số tiền
vi phạm thời hạn báo trước là 26.539.176 đồng, Công ty V mới bổ sung tại
cấp phúc thẩm.
Tại cấp sơ thẩm, Công ty V đã có yêu cầu đòi bị đơn phải bồi thường
tổng số tiền là 5.214.181.728 đồng theo bảng chi phí Công ty đã lập. Đây là số
tiền mà Công ty V đã phải chi trả để đảm bảo các điều kiện cho ông K được
làm việc hợp pháp tại Công ty. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm,
Công ty không có đơn yêu cầu phản tố và không thực hiện các thủ tục phản tố
đối với yêu cầu đòi bồi thường số tiền 5.214.181.728 đồng nêu trên. Tại phiên
tòa phúc thẩm, Công ty V xác nhận chỉ yêu cầu ông K phải bồi thường số tiền
là 1.021.528.234 đồng, mà không phải là 5.214.181.728 đồng như cấp sơ
thẩm.
2. Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và trình bày ý kiến đối với
yêu cầu kháng cáo của bị đơn:
Đơn kháng cáo của Công ty V không có giá trị do bà Cao Thị Thuý
Hường không có thẩm quyền ký đơn kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét tính hợp lệ của đơn kháng cáo.
Ông K nộp đơn xin thôi việc từ ngày 07/7/2023 và nghỉ việc từ ngày
21/8/2023, đã đủ 45 ngày báo trước theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật
lao động. Do đó, ông K đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng
pháp luật, không vi phạm thời hạn báo trước.
Đối với kháng cáo của Công ty V yêu cầu ông K bồi thường cho số tiền
1.021.528.234 đồng: Ông K không đồng ý bồi thường cho Công ty V. Hơn
nữa, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, Công ty V không có đơn phản
tố và thực hiện các thủ tục phản tố đối với yêu cầu này. Mặc dù tại Tòa án cấp
sơ thẩm đã nhiều lần thông báo và giải thích cho bị đơn việc làm đơn phản tố,
cung cấp tài liệu chứng cứ chứng minh để Tòa án xem xét thụ lý yêu cầu,
nhưng bị đơn đều không thực hiện. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị đơn
cũng xác nhận không có yêu cầu phản tố trong vụ án. Do đó, nguyên đơn đề
nghị Tòa phúc thẩm không xem xét và chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phát biểu ý kiến:
* Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Xét thấy đơn kháng cáo của
nguyên đơn làm trong hạn luật định, có nội dung và hình thức phù hợp quy
định của pháp luật và người kháng cáo được miễn nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm nên xác định kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ
11
lý và giải quyết vụ án phúc thẩm là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ
án và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử
đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Những người
tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về
quyền và nghĩa vụ của mình.
* Về việc giải quyết vụ án:
- Tính hợp lệ của kháng cáo: Bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định và
đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên xác định là hợp lệ.
- Xét nội dung kháng cáo:
Ngày 28/03/2022, Công ty V và Ông K ký kết Hợp đồng lao động số
14/HĐLĐ-MVN, Thỏa thuận hợp tác số 14/HĐLĐ-MV, theo đó các bên thỏa
thuận: Thời hạn Hợp đồng lao động: Không xác định thời hạn; Thời hạn thỏa
thuận hợp tác: 5 năm; Địa điểm làm việc: Bệnh viện mắt Quốc tế Việt Nga;
Chức danh chuyên môn: Bác sĩ nhãn khoa, khám bệnh, chữa bệnh chuyên
khoa mắt. Theo Hợp đồng lao động, hai bên thỏa thuận về chế độ làm việc,
quyền lợi nghĩa vụ của người lao động, quyền hạn, nghĩa vụ của người sử
dụng lao động. Theo Thỏa thuận hợp tác, hai bên thỏa thuận về phương thức
hoạt động, quyền hạn, trách nhiệm của người lao động và người sử dụng lao
động. Sau khi ký kết Hợp đồng lao động và Thỏa thuận hợp tác, ông K đã làm
việc tại Bệnh viện mắt Quốc tế Việt Nga.
Ông K là người lao động nước ngoài, đã được cấp Sở Lao động, Thương
binh và Xã hội thành phố Hà Nội cấp Giấy phép lao động số 067181/SLĐ-GP
No: 2588/SHN/2022/OL, thời hạn từ ngày 28/3/2022 đến 17/02/2024 làm việc
tại Công ty V và được Bộ Y tế cấp Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh số 047212/BYT-CCHN ngày 11/7/2022, phạm vi hoạt động chuyên môn
là Bác sĩ khám bệnh, chữa bệnh chuyên khoa mắt.
Việc ký kết Hợp đồng lao động và Thỏa thuận hợp tác giữa hai bên là
hoàn toàn tự nguyện, hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp
luật nên có giá trị pháp lý, có hiệu lực thi hành đối với các bên tham gia ký
kết.
Xét việc bị đơn kháng cáo cho rằng ông K đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động trái với quy định của pháp luật do vi phạm thời hạn báo trước,
nhận thấy: Ngày 07/7/2023, ông K nộp đơn xin thôi việc đến Công ty. Tuy
nhiên, bị đơn không phối hợp để thực hiện các thủ tục chấm dứt hợp đồng lao
động với ông K. Ông K xác định ông làm việc tại Công ty đến hết ngày
20/8/2023 thì nghỉ việc. Tại Văn bản số 18/MVN-HCNS ngày 12/3/2024,
Công ty V thừa nhận: “ … ngày 07/7/2023 thì ông K đã có đơn xin nghỉ việc
và không đến làm việc tại Công ty từ ngày 21/8/2023. Công ty đã tính lương
20 ngày công tháng 8 và đã thông báo cho ông qua email”. Tại Biên bản hòa
12
giải ngày 27/8/2024 và tại phiên tòa ngày 20/12/2024, Công ty cũng xác định
ông K không đến làm việc tại Công ty từ ngày 21/8/2023.
Như vậy, ông K đã nộp đơn xin thôi việc từ ngày 07/7/2023 và đề nghị
đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động với Công ty là đảm bảo đúng quy
định khoản 1 Điều 35 Bộ luật lao động năm 2019. Kháng cáo của Công ty cho
rằng căn cứ vào bảng chấm công đối với ông K (đến hết ngày 16/8/2023), ông
K chỉ báo trước Công ty 41 ngày là vi phạm thời hạn báo trước theo quy định
tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật lao động năm 2019 nên Công ty xác định
ông K đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là không có căn
cứ.
Sau khi ông K nghỉ việc, bị đơn vẫn chưa ban hành quyết định chấm dứt
hợp đồng lao động với ông K. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định và chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông K buộc bị đơn phải ban hành Quyết định
chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông K theo đúng quy định của pháp luật
là có căn cứ.
Xét yêu cầu của bị đơn về việc buộc nguyên đơn phải đền bù chi phí đào
tạo cũng như các chi phí thiệt hại cho Công ty số tiền theo bảng tổng hợp chi
phí Công ty đã lập đối với ông K nhận thấy:
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã ra Thông báo yêu cầu
bị đơn giao nộp tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đòi bồi thường.
Trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố thì phải nộp Đơn yêu cầu phản tố và
phải nộp các tài liệu chứng cứ kèm theo để chứng minh cho yêu cầu của bị
đơn. Tuy nhiên, hết thời hạn theo Thông báo của Tòa án và tại các phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, bị đơn đều
xác định không có yêu cầu phản tố, không nộp đơn yêu cầu phản tố nhưng bị
đơn vẫn giữ nguyên các ý kiến tại Văn bản số 18/MVN-HCNS ngày
12/03/2024, yêu cầu ông K phải đền bù chi phí đào tạo cũng như các chi phí
thiệt hại cho Công ty số tiền là 217.257,57USD tương đương 5.214.181.728đ
theo bảng tổng hợp chi phí Công ty đã lập đối với ông K. Sau khi ông K thực
hiện nghĩa vụ tài chính đối với Công ty thì Công ty sẽ trao quyết định chấm
dứt hợp đồng lao động với ông K. Nhận thấy, bị đơn không nộp đơn yêu cầu
phản tố để Tòa án làm thủ tục thụ lý yêu cầu phản tố nên không có căn cứ để
xem xét giải quyết trong vụ án này, bị đơn có quyền khởi kiện bằng vụ án
khác khi có đơn yêu cầu như Tòa án cáp sơ thẩm nhận định là có căn cứ. Nay
bị đơn kháng cáo cho rằng ông K đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
trái với quy định của pháp luật là không có căn cứ. Do đó, kháng cáo yêu cầu
buộc ông K phải thực hiện nghĩa vụ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái với quy định của pháp luật, bồi thường cho Công ty do vi phạm thời
hạn báo trước và hoàn trả 100% chi phí đào tạo cho Công ty tổng số tiền
1.021.528.234đ là không có cơ sở.
13
Do đó, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án lao
động sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy. Do kháng cáo không được
chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí lao động phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên toà, sau khi nghe các bên đương sự tranh tụng, trình bày và
tranh luận, quan điểm của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
1.1 Về thẩm quyền giải quyết vụ án:
Ông K là người nước ngoài (Quốc tịch Nga) khởi kiện Công ty Cổ phần
Viện mắt Quốc tế tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy để yêu cầu giải quyết
các nội dung liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng lao động, đòi tiền lương
và bảo hiểm xã hội. Tại thời điểm khởi kiện, ông K đang cư trú hợp pháp (có
thị thực) tại Việt Nam, được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy
phép lao động, Chứng chỉ hành nghề để làm việc tại Việt Nam. Do đó, căn cứ
khoản 2 Điều 464, Điều 469, Điều 470 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án
không thuộc trường hợp đương sự ở nước ngoài nên thẩm quyền giải quyết vụ
án vẫn thuộc Tòa án nhân dân cấp huyện. Bị đơn là Công ty Cổ phần Viện mắt
Quốc tế có trụ sở tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Do đó căn cứ khoản 1
Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng
dân sự, xác định đây là tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với
người sử dụng lao động, thuộc thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm
của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 03/01/2025, bị đơn là Công ty V
đã kháng cáo một phần bản án. Quá trình giải quyết tại cấp phúc thẩm, đại
diện ông K có ý kiến cho rằng Đơn kháng cáo của Công ty V không có giá trị
do bà Cao Thị Thuý Hường không có quyền ký đơn kháng cáo. Xét thấy:
Theo Giấy ủy quyền ngày 12/3/2024 (Bút lục 75), bà Cao Thị Thúy Hđược
Công ty V ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án, trong đó có nội dung ủy
quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Do đó, việc bà H đại diện Công ty V ký đơn
kháng cáo là trong phạm vi ủy quyền hợp pháp. Ý kiến của đại diện nguyên
đơn nêu trên là không có căn cứ.
Xét thấy, bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định và đã nộp tạm ứng án
phí nên căn cứ các điều: 272, 273, 274, 276 Bộ luật tố tụng dân sự xác định
kháng cáo là hợp lệ, Tòa nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết vụ án
theo trình tự phúc thẩm là đúng thẩm quyền.
1.2 Về điều kiện khởi kiện:
Tranh chấp lao động do nguyên đơn khởi kiện không thuộc trường hợp
bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải trước khi khởi kiện. Tuy nhiên tài liệu trong
14
hồ sơ thể hiện tranh chấp trên cũng đã được Phòng lao động, Thương binh xã
hội quận Cầu Giấy hòa giải ngày 25/01/2024 không thành. Do đó căn cứ
khoản 1 Điều 32 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Điều 188 Bộ luật Lao động năm
2019, xác định nguyên đơn đủ điều kiện khởi kiện.
1.3 Về phạm vi xét xử phúc thẩm:
Do Công ty V kháng cáo một bản án sơ thẩm về nội dung ông K đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động và buộc ông bồi thường cho Công ty V
chi phí đào tạo và tiền vi phạm thời gian báo trước nên Tòa án cấp phúc thẩm
xem xét phần của bản án sơ thẩm, quyết định của bản án sơ thẩm có kháng cáo
hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo. Những nội dung khác
của bán án không có kháng cáo, Tòa phúc thẩm không xem xét.
[2] Về nội dung:
2.1 Xét việc Công ty V kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên
xác định ông K đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:
Ông K là Bác sĩ khám chữa bệnh chuyên khoa mắt, được Công ty V làm
thủ tục xin cấp Giấy phép lao động làm việc với vị trí chuyên gia tại Công ty
V, thời hạn từ ngày 28/3/2022 đến 17/02/2024 theo Giấy phép lao động số
067181/SLĐ-GP No: 2588/SHN/2022/OL do Sở Lao động, Thương binh và
Xã hội thành phố Hà Nội cấp ngày 28/02/2022.
Sau khi được cấp Giấy phép lao động, ngày 28/3/2022, Công ty V và ông
K xác nhận đã ký bản Thỏa thuận hợp tác số 14/HĐLĐ-MVN theo đó các bên
thỏa thuận: ông K sẽ làm việc tại Công ty V trong thời hạn 05 năm và những
nội dung khác liên quan đến quyền và nghĩa vụ của hai bên trong quá trình
ông K làm việc cho Công ty V tại Việt Nam. Quá trình giải quyết vụ án,
nguyên đơn xuất trình bản phô tô Thỏa thuận hợp tác số 14/HĐLĐ-MVN bằng
tiếng nước ngoài và bản dịch ra tiếng Việt nhưng không được dịch công
chứng, chứng thực hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam (bút lục
216). Tuy nhiên tại phiên tòa, cả hai bên đương sự đều thừa nhận và không
phản đối việc ký kết Thỏa thuận hợp tác số 14/HĐLĐ-MVN (bằng tiếng Nga)
(bút lục 219) và có nội dung như bản dịch tiếng Việt mà nguyên đơn xuất trình
(bút lục 216), nên căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự coi
đây là tình tiết sự kiện không cần chứng minh và có cơ sở xác định các bên có
ký bản Thỏa thuận hợp tác số 14/HĐLĐ-MVN nêu trên.
Cùng ngày 28/3/2022, Công ty V và ông K đã ký kết Hợp đồng lao động
số 14/HĐLĐ-MVN với những nội dung cơ bản sau:
- Loại hợp đồng: Không xác định thời hạn.
- Nơi làm việc: Bệnh viện Mắt Quốc tế Việt - Nga, địa chỉ: Số 1, 2 làng
quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
- Chức danh chuyên môn: Bác sĩ khám bệnh, chữa bệnh chuyên khoa
mắt.
15
- Mức lương: 1.700 USD (được quy đổi ra Việt Nam đồng theo tỷ giá
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam tại thời điểm trả lương).
Đến ngày 11/7/2022, ông K được Bộ trưởng Bộ y tế cấp Chứng chỉ hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh số 047212/BYT-CCHN với phạm vi hoạt động
chuyên môn: khám bệnh, chữa bệnh chuyên khoa Mắt.
Xét Hợp đồng lao động số 14/HĐLĐ-MVN và Thỏa thuận hợp tác số
14/HĐLĐ-MVN cùng ghi ngày 28/3/2022 được ông K và Công ty V giao kết
bằng văn bản, đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, có nội
dung thỏa thuận về việc làm, tiền lương, thời hạn, điều kiện lao động, quyền
và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Thỏa thuận trên không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với các
điều: 13, 14, 15, 18, 20, 21 Bộ luật lao động 2019, nên có hiệu lực pháp luật,
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Sau khi ký hợp đồng lao động, ông K làm việc tại Công ty Cổ phần Viện
mắt Quốc tế Việt Nga theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Tại đơn khởi
kiện, ông trình bày: sau hơn một năm làm việc ông nhận thấy môi trường làm
việc không phù hợp nên căn cứ Điều 35 Bộ luật lao động năm 2019, ngày
07/7/2023 ông đã nộp Đơn xin thôi việc đến Công ty với mục đích để đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty sau 45 ngày, tức là chấm dứt
hợp đồng lao động vào ngày 20/8/2023. Ông xác nhận sau khi gửi đơn, ông
tiếp tục làm việc tại Công ty V đến hết ngày 20/8/2023 và bắt đầu nghỉ việc từ
ngày 21/8/2023. Từ đó đến nay, Công ty V không phối hợp để thực hiện các
thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động với ông K, không chi trả tiền lương, bảo
hiểm xã hội và bản chính chứng chỉ hành nghề khám chữa bệnh cho ông. Do
đó, ông đã khởi kiện vụ án lao động với nội dung như trình bày ở phần trên.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Công ty V trình bày ông K đã vi phạm
thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Do đây là
hợp đồng lao động không xác định thời hạn nên theo điểm a khoản 1 Điều 35
Bộ luật lao động năm 2019, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động phải báo trước cho người sử dụng lao động ít nhất 45 ngày. Ngày
07/7/2023, ông K gửi đơn xin thôi việc. Theo bảng chấm công thể hiện ông
làm việc đến hết ngày 16/8/2023, mới được 41 ngày, là chưa đủ 45 ngày nên
xác định ông đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái quy định của
pháp luật.
Về vấn đề này thấy: Theo tài liệu trong hồ sơ thể hiện, ngày 07/07/2023,
Artem có Đơn xin thôi việc gửi Ban lãnh đạo Công ty Cổ phần Viện mắt Quốc
tế Việt Nga. Tại đơn này, ông trình bày lý do xin thôi việc và đề nghị: “….Vậy
tôi làm đơn này xin được nghỉ việc từ 07/7/2023. Trong thời hạn 45 ngày kể từ
ngày nộp đơn, tôi sẽ bàn giao công việc của mình một cách đầy đủ và có trách
nhiệm. Đồng thời, tôi kính đề nghị Công ty bàn giao lại đầy đủ toàn bộ hồ sơ,
16
bằng cấp, chứng chỉ cá nhân của tôi khi hai bên tiến hành thủ tục chấm dứt
hợp đồng lao động. Rất mong được sự giúp đỡ của ban Lãnh đạo Công ty”.
Tại Văn bản số 18/MVN-HCNS ngày 12/3/2024 (Bút lục 82) gửi Tòa án
cấp sơ thẩm, Công ty V trình bày: “ … ngày 07/7/2023 thì ông K đã có đơn
xin nghỉ việc và không đến làm việc tại Công ty từ ngày 21/8/2023. Công ty đã
tính lương 20 ngày công tháng 8 và đã thông báo cho ông qua email”. Ngoài
ra, tại Biên bản hòa giải ngày 27/8/2024, Công ty cũng xác định ông K không
đến làm việc tại Công ty từ ngày 21/8/2023 và “Công ty xác định chưa thanh
toán tiền lương từ 01/8/2023 - 20/8/2023 cho ông K, lý do Công ty đã nhiều
lần gửi thông báo mời ông K đến nhận nhưng ông không đến nhận” (Bút lục
266, 271). Như vậy, tại các văn bản trên, Công ty V đều xác nhận ông K
không đến làm việc tại Công ty từ ngày 21/8/2023 và Công ty chưa thanh toán
lương đến 20/8/2023, nên có cơ sở xác định ông K nộp đơn xin thôi việc từ
ngày 07/7/2023 và nghỉ việc từ ngày 21/8/2023. Do đó, xác định ông K đã
thực hiện đúng quy định về thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật lao động năm
2019 và Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty V phải ban hành Quyết định chấm
dứt hợp đồng lao động với ông K là có căn cứ. Do đó, yêu cầu kháng cáo nêu
trên của Công ty V là không có căn cứ chấp nhận.
2.2 Xét việc Công ty V kháng cáo buộc ông K phải đền bù chi phí đào tạo
và bồi thường số tiền do vi phạm những ngày báo trước khi đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động, thấy:
Tại cấp sơ thẩm, Công ty V yêu cầu ông K bồi thường tổng số tiền
5.214.181.728 đồng (như bảng kê nêu tại phần nội dung bản án).
Tại cấp phúc thẩm, Công ty V chỉ yêu cầu ông K bồi thường tổng số tiền
1.021.528.234 đồng mà không yêu cầu tổng số tiền 5.214.181.728 đồng nữa.
Số tiền 1.021.528.234 đồng bao gồm:
- Chi phí đào tạo cho ông K biết vận hành và sử dụng máy mổ:
994.989.058 đồng;
- Nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động do vi phạm thời hạn báo
trước: 26.539.176 đồng. Đối với số tiền này, đại diện Công ty V xác nhận là
mới bổ sung mới tại cấp phúc thẩm.
Về nội dung kháng cáo này, Hội đồng xét xử thấy:
Tại cấp sơ thẩm, Công ty V cho rằng việc ông K đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Do đó Công ty V đã và yêu cầu ông K phải đền bù chi phí đào tạo cũng
như các chi phí thiệt hại cho Công ty số tiền là 217.257,57USD tương đương
5.214.181.728 đồng theo bảng tổng hợp chi phí Công ty đã lập đối với ông K.
Theo Công ty V, số tiền này là các chi phí mà Công ty V phải bỏ ra để đảm
bảo các điều kiện cần thiết và hợp pháp cho ông K làm việc tại Công ty V gồm
17
chi phí đào tạo, chi phí xin cấp phép lao động, chi phí bảo lãnh gia đình ông K
sang Việt Nam sinh sống, chi phí vé máy bay…. Do đó, việc ông K đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động sớm hơn thời hạn thỏa thuận với Công ty
V đã gây thiệt hại cho Công ty. Nay Công ty yêu cầu ông K thực hiện nghĩa
vụ tài chính đối với Công ty thì Công ty sẽ trao quyết định chấm dứt hợp đồng
lao động với ông K. Mặc dù có quan điểm như trên nhưng Công ty V lại
không có Đơn yêu cầu phản tố kèm tài liệu chứng cứ chứng minh và thực hiện
các thủ tục phản tố của bị đơn. Mặc dù khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ
thẩm đã có Thông báo yêu cầu bị đơn nộp Đơn yêu cầu phản tố và các tài liệu
chứng cứ kèm theo để chứng minh cho yêu cầu (Bút lục 105) nhưng bị đơn
không thực hiện. Tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm
Công ty V đều xác định không có đơn yêu cầu phản tố đối với việc đòi nguyên
đơn bồi thường các khoản nêu trên.
Nhận thấy, bị đơn không nộp đơn yêu cầu phản tố để Tòa án làm thủ tục
thụ lý yêu cầu phản tố nên Tòa án không có căn cứ để xem xét giải quyết yêu
cầu đòi bồi thường của bị đơn trong vụ án này. Công ty V có quyền khởi kiện
bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu như Tòa án cấp sơ thẩm nhận định là có
căn cứ.
Do Công ty V kháng cáo cho rằng ông K đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trái với quy định của pháp luật là không có căn cứ, cũng như Công ty
V không thực hiện thủ tục phản tố như phân tích ở trên, nên yêu cầu kháng
cáo của Công ty V buộc ông K phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và hoàn trả 100% chi phí
đào tạo vận hành và sử dụng máy mổ với tổng số tiền 1.021.528.234 đồng là
không có cơ sở chấp nhận.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty V và cần thiết giữ nguyên bản án sơ
thẩm của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy.
Đối với các nội dung khác của bản án, các đương sự không kháng cáo
nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.
2.3 Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Nguyên đơn thuộc trường hợp được miễn án phí theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nên không phải chịu án phí sơ
thẩm. Bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm đối với phần yêu cầu nguyên đơn được
chấp nhận.
- Án phí phúc thẩm: Do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ
thẩm bị kháng cáo nên bị đơn kháng cáo phải chịu án phí lao động phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,

18
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ:
- Khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
khoản 2, 3 Điều 92, Điều 147, khoản 2 Điều 148, khoản 1 Điều 308 và Điều
313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Các Điều: 13, 14, 15, 18, 20, 21, 90, 95, 179, khoản 1 Điều 35, khoản 3
Điều 187 và Điều 188 Bộ luật lao động năm 2019;
- Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt
vi phạm;
- Điểm a khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án,
Xử:
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty V. Giữ nguyên Bản án lao động sơ
thẩm số 17/2024/LĐ-ST ngày 20/12/2024 của Tòa án nhân dân quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội và xử như sau:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ông K đối với Công ty V. Cụ
thể:
1. Buộc Công ty V phải ban hành Quyết định chấm dứt Hợp đồng lao
động với Ông K.
2. Đối với Sổ bảo hiểm xã hội của Ông K không xác định được hiện do
ai đang quản lý. Ông K có quyền đề nghị Cơ quan Bảo hiểm xã hội có thẩm
quyền cấp lại sổ Bảo hiểm xã hội theo quy định.
3. Công ty V phải thanh toán trả tiền lương cho Ông K tương ứng với số
ngày công làm việc từ 01/08/2023 - 16/08/2023 số tiền là: 2.030 USD, tương
đương 56.768.950 đồng (Năm mươi sáu triệu bảy trăm sáu mươi tám nghìn
chín trăm năm mươi đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ
ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản
tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Ông K liên hệ với Cục Quản lý Khám, chữa bệnh - Bộ Y tế để được
giải quyết về bản gốc Chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh số
047212/BYT-CCHN do Bộ Y tế cấp ngày 11/7/2022 cho Ông K theo đúng
quy định pháp luật của Việt Nam đối với người lao động nước ngoài tại Việt
Nam.
19
5. Đối với yêu cầu của Công ty V đề nghị Ông K phải đền bù chi phí đào
tạo cũng như các chi phí thiệt hại cho Công ty số tiền là: 217.257,57 USD
tương đương 5.214.181.728 đồng theo bảng tổng hợp chi phí Công ty đã lập,
do Công ty V không nộp đơn yêu cầu phản tố, không giao nộp tài liệu chứng
cứ chứng minh nên Tòa án không xem xét giải quyết trong vụ án này. Dành
quyền khởi kiện cho Công ty V đối với yêu cầu nêu trên khi có đơn yêu cầu
theo quy định của pháp luật.
6. Về án phí lao động:
- Án phí sơ thẩm: Ông K được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm. Công ty V
phải chịu 1.703.068 đồng (Một triệu bảy trăm linh ba nghìn không trăm sáu
mươi tám đồng) án phí sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm: Công ty V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) án phí phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0046902 ngày
10/01/2025 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,
7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
* Nơi nhận:
- VKSND TP Hà Nội;
- TAND quận Cầu Giấy;
- Chi cục THADS quận Cầu Giấy;
- Các đương sự;
- Lưu VP, TKT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Phương Thuỷ
20
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm