Bản án số 317/2025/HC-PT ngày 06/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 317/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 317/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 317/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 317/2025/HC-PT ngày 06/05/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 317/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/05/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | đề nghị Tòa án giải quyết |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 317/2025/HC-PT
Ngày: 06/5/2025
V/v: Khiếu kiện Quyết định hành
chính về quản lý đất đai
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Tuyển;
Ông Phạm Văn Lợi;
Ông Bùi Anh Thắng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Triệu Hương Thùy - Thư ký Toà án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên
tòa: Ông Phạm Quốc Huy, Kiểm sát viên cao cấp.
Trong ngày 06 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành
chính thụ lý số 237/2025/TLPT-HC ngày 25 tháng 3 năm 2025 về việc “Khiếu
kiện Quyết định hành chính về quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 228/2024/HC-ST ngày 18 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 4179/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng
4 năm 2025 giữa:
1. Người khởi kiện: Ông Trần Văn H, sinh năm 1962 và bà Viên Thị B,
sinh năm 1964; địa chỉ: Khu phố T, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Vắng
mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Xuân D, sinh năm 1991; địa
chỉ: Khu phố S, T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn T – Chủ tịch.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Ngọc B1 – Phó Chủ tịch. Vắng
mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. UBND huyện Q, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Huy N – Chủ tịch. Vắng mặt,
2
có đơn xin xét xử vắng mặt.
3.2. UBND phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Cao Văn H1 - Chủ tịch. Vắng mặt, có
đơn xin xét xử vắng mặt.
3.3. Ông Trương Văn L và bà Lê Thị N1; cùng địa chỉ: Khu phố T, phường
Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Người bị kiện là UBND thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi
kiện là ông Trần Văn H, bà Viên Thị B trình bày:
Vợ chồng ông bà là chủ sử dụng đất của thửa đất số 738, tờ bản đồ số 4.
diện tích: 1.557m
2
, hồ sơ địa chính năm 1993 phường Q, loại đất: T, chủ sử dụng
trong sổ mục kê là Trần Văn H; Tương ứng với thửa đất số 335, tờ bản đồ số 13
theo trích lục bản đồ địa chính số 736/TLBD ngày 26/10/2020 của Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Thanh Hóa; Diện tích hiện trạng: 1476,6m
2
; Địa
chỉ thửa đất trước đây là xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa; nay là phường Q, thành
phố S, tỉnh Thanh Hóa.
Nguồn gốc thửa đất: Ông, bà đã sử dụng toàn bộ thửa đất nêu trên với mục
đích sử dụng là đất ở, trên đất có nhà ở từ trước ngày 18/12/1980, sử dụng ổn
định, không tranh chấp, nguyên hiện trạng; không thay đổi vị trí, giáp ranh tứ cận,
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế đất ở với Nhà nước. Thửa đất của ông bà nằm
trong ngõ, không thuộc ven đường giao thông, khu vực trung tâm thành phố S
hiện nay, diện tích đất nêu trên của ông bà chưa được Cơ quan có thẩm quyền cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSD đất).
Để thực hiện dự án Đầu tư xây dựng công trình đường giao thông từ ngã ba
V đi thành phố S (viết tắt là Dự án), UBND huyện Q ban hành Quyết định số
668/QĐ-UBND ngày 18/05/2011 (viết tắt là Quyết định số 668) thu hồi một phần
diện tích đất 1.376,4m² của ông bà và được xác định là đất ở nông thôn (ONT).
Khi dự án được tiếp tục triển khai, đến ngày 15/10/2023, UBND thành phố
S có vận động các gia đình có đất bị thu hồi đến cơ quan có thẩm quyền để nhận
tiền đền bù thì lúc này đại diện cho Ủy ban nhân dân thành phố S mới giao cho
ông bà các Quyết định hành chính thì ông bà mới biết ông bà đã được Ủy ban
nhân dân thành phố S ban hành các quyết định về việc thu hồi và bồi thường về
đất gồm:
- Quyết định số 3819/QĐ-UBND ngày 05/07/2022 (viết tắt là Quyết định
số 3819) về việc điều chỉnh diện tích đất thu hồi của ông bà lại Quyết định số
668/QĐ-UBND ngày 18/05/2011 của UBND huyện Q từ 1.376,4m² thành
1.381,3m².
- Quyết định số 3820/QĐ-UBND ngày 05/07/2022 (viết tắt là Quyết định
số 3820) về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB cho ông bà khi
3
bị thu hồi đất.
Theo đó, UBND thành phố S xác định diện tích đất ở của ông bà là 200m²,
diện tích đất trồng cây lâu năm là 1.181,3m² và bồi thường, hỗ trợ cho ông bà với
tổng số tiền là: 852.955.000 đồng. Trong đó:
⁃ Bồi thường về đất: 414.677.000 đồng.
⁃ Bồi thường về tài sản vật kiến trúc: 261.347.000 đồng.
⁃ Cây cối, hoa màu: 48.344.000 đồng.
⁃ Hỗ trợ: 128.587.000 đồng.
Diện tích đất còn lại của ông bà không bị Nhà nước thu hồi là 95,3m
2
(phần
diện tích đất này đủ điều kiện để ở cho nên cần được xác định là đất ở). Việc
UBND thành phố S xác định toàn bộ diện tích đất bị thu hồi của ông bà là 200,0m²
đất ở và 181,3m² đất trồng cây lâu năm để bồi thường, hỗ trợ GPMB là không
đúng quy định của pháp luật, không xem xét đầy đủ, khách quan. Theo quy định
pháp luật về đất đai và quy định của UBND tỉnh T khi thu hồi đất, UBND thành
phố S phải xác định diện tích đất ở của ông bà là 1.000 m² trong tổng số diện tích
hiện trạng: 1.476,6m
2
cho đủ hạn mức công nhận đất ở theo đúng nguồn gốc sử
dụng đất. Phần diện tích còn lại của ông bà sau khi đã xác định đủ diện tích đất ở
được xác định là đất cây lâu năm.
Đề nghị Toà án giải quyết:
- Hủy một phần Quyết định số 3820 đối với phần diện tích đất 1.181,3m
2
đất trồng cây lâu năm.
- Buộc UBND thành phố S công nhận hạn mức đất ở của gia đình hộ ông
Trần Văn H và bà Viên Thị B là 1.000m².
- Buộc UBND thành phố S xác định phần diện tích 704,7m² trong tổng diện
tích đất 1.181,3m
2
(đang được xác định là đất trồng cây lâu năm) là đất ở và ban
hành bổ sung quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB đối với
phần diện tích đất ở 704,7m² nêu trên cho ông Trần Văn H và bà Viên Thị B.
- Buộc UBND thành phố S xác định diện tích đất còn lại 95,3m
2
không bị
thu hồi là đất ở và thực hiện các thủ tục hành chính để cấp GCNQSD đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Trần Văn H và bà Viên Thị
B theo quy định của pháp luật.
- Buộc UBND thành phố S phải bố trí bổ sung đất ở tái định cư cho gia đình
hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B tương ứng với diện tích 704,7m² đất ở được
phê duyệt bồi thường bổ sung khi bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật và
chủ trương, chính sách chung của dự án.
Trên thực tế, ông bà đã chuyển nhượng một phần diện tích đất 200m
2
đất
ở; 25,4m
2
đất vườn cho vợ chồng ông Trương Văn L theo Hợp đồng chuyển
nhượng ngày 13/05/2003. Do vậy, ngày 23/7/2024, người khởi kiện rút một phần
yêu cầu khởi kiện, chỉ đề nghị Tòa án giải quyết:
1. Hủy một phần Quyết định số: 3820 đối với phần diện tích đất 1.181,3m
2
4
đất trồng cây lâu năm.
2. Buộc UBND thành phố S xác định phần diện tích 504,7m
2
trong tổng
diện tích đất 1.181,3m
2
(đang được xác định là đất trồng cây lâu năm) là đất ở và
ban hành bổ sung quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB đối
với phần diện tích đất ở 504,7m
2
nêu trên cho gia đình hộ ông Trần Văn H và bà
Viên Thị B.
3. Buộc UBND thành phố S phải bố trí bổ sung đất ở tái định cư cho gia
đình hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B tương ứng với diện tích 504,7m
2
đất ở
được phê duyệt bồi thường bổ sung khi bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật
và chủ trương, chính sách chung của dự án.
Người bị kiện là UBND thành phố S, tỉnh Thanh Hóa trình bày:
Theo Biên bản xác nhận về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất cho hộ ông
Trần Văn H và bà Viên Thị B ngày 20/6/2022 của UBND phường Q thì:
* Về nguồn gốc thửa đất: Thửa đất của ông Trần Văn H và bà Viên Thị B
có nguồn gốc là đất có nhà ở sử dụng trước ngày 18/12/1980. Đất sử dụng ổn định
không tranh chấp.
* Về hồ sơ địa chính thửa đất qua các thời kỳ:
- Hồ sơ địa chính năm 1985 (299): Thửa đất số 206, tờ bản đồ 4, diện tích
9.878,0m
2
; sổ mục kê không ghi chủ sử dụng, loại đất T1
- Hồ sơ địa chính 1995 (382): Thửa đất số 738, tờ bản đồ 4, diện tích
1.557,0m
2
, loại đất T, đăng ký sử dụng ông Trần Văn H.
- Hồ sơ địa chính 2015: Gồm 02 thửa:
+ Thửa đất số 335, tờ bản đồ 13, diện tích 1.476,4m
2
, loại đất ONT, đăng
ký sử dụng ông Trần Văn H.
+ Thửa đất số 1664, tờ bản đồ 13, diện tích 225,9m
2
, loại đất ONT, đăng
ký sử dụng ông Trương Văn L nhận chuyển nhượng của ông Trần Văn H và bà
Viên Thị B diện tích 225,4m
2
(trong đó có 200,0m
2
đất ở; 25,4m
2
đất vườn) theo
Hợp đồng chuyển nhượng đã được UBND xã Q xác nhận ngày 13/5/2003.
Diện tích thu hồi dự án là 1.381,3m
2
; hiện trạng phần diện tích còn lại
95,3m
2
không nằm trong phạm vi dự án (không phải thu hồi đất) gia đình ông có
01 ngôi nhà diện tích khoảng 50m
2
.
* Về hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Hộ ông Trần Văn H
và bà Viên Thị B chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
* Về việc thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho hộ ông
Trần Văn H và bà Viên Thị B: Ông Trần Văn H và bà Viên Thị B không có giấy
tờ về quyền sử dụng đất theo Điều 100 Luật đất đai 2013 và Điều 18 Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
Căn cứ khoản 2 Điều 1 Quyết định số 4655/2017/QĐ-UBND ngày
04/12/2017 của UBND tỉnh T, ông Trần Văn H và bà Viên Thị B được công nhận
5
không quá 5 lần hạn mức giao đất ở (90,0m
2
x 5 = 450,0m
2
đất ở). Ông Trần Văn
H và bà Viên Thị B đủ điều kiện xác định diện tích đất ở là 450,0m
2
.
Năm 2003, ông Trần Văn H và bà Viên Thị B đã chuyển nhượng 225,4m
2
(trong đó có 200,0m
2
đất ở; 25,4m
2
đất vườn) cho ông Trương Văn L và bà Lê Thị
N1. Vì vậy, hạn mức công nhận đất ở của hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B
đủ điều kiện công nhận là 250,0m
2
đất ở.
Diện tích thu hồi dự án là 1.381,3m
2
; hiện trạng phần diện tích còn lại
395,3m
2
không nằm trong phạm vi dự án (không phải thu hồi đất) gia đình ông có
01 ngôi nhà diện tích khoảng 50m
2
đang sử dụng ổn định (theo Biên bản xác nhận
về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất ngày 20/6/2022 của UBND phường Q). Do
đó, hạn mức công nhận đất ở trong phạm vi thu hồi dự án của hộ ông Trần Văn H
và bà Viên Thị B là 200,0m
2
đất ở.
Ngày 05/7/2022, UBND thành phố S ban hành Quyết định số 3819 về việc
điều chỉnh diện tích đất thu hồi của ông Trần Văn H đã được thu hồi tại Quyết
định số 668 và Quyết định số 3820 phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho
hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B để thực hiện dự án, theo đó, thu hồi và bồi
thường, hỗ trợ cho hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B diện tích 1.381,3m
2
(trong đó diện tích đất ở bồi thường là 200,0m
2
; đất cây lâu năm là 1.181,3m
2
) là
đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H và bà Viên Thị B là không
có cơ sở. Đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là UBND phường Q trình bày:
Nguồn gốc đất và Hồ sơ địa chính qua các thời kỳ như UBND thành phố S
đã trình bày. Căn cứ nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất và hồ sơ địa chính qua
các thời kỳ lưu trữ tại UBND phường. UBND phường Q đề nghị Toà án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa xem xét, giải quyết nội dung khiếu kiện của ông Trần Văn H, bà
Viên Thị B theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trương Văn L và bà Lê Thị
N1 trình bày:
Năm 2003 vợ chồng ông bà nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông H, bà
B một phần diện tích đất: 225,4m
2
(Trong đó 200m
2
đất ở; 25,4m
2
đất vườn) theo
Hợp đồng chuyển nhượng ngày 13/05/2003 được UBND xã Q xác nhận. Sau khi
nhận chuyển nhượng đất vợ chồng ông bà đã làm nhà và sử dụng ổn định. Đến
năm 2010 có dự án, UBND huyện Q đã thu hồi một phần diện tích đất là: 131,6
m
2
của vợ chồng ông bà và xác định là đất ở. Sau này, UBND thành phố S đã phê
duyệt bồi thường cho ông bà đối với diện tích đất bị thu hồi nêu trên. Ông bà nhất
trí và không có thắc mắc hoặc khiếu nại về diện tích đất ở bị thu hồi. Ông bà đã
được UBND thành phố S cấp cho ông bà 01 lô đất tái định cư tại mặt bằng T và
đã được cấp GCNQSD đất ngày 22/11/2023. Diện tích đất còn lại ông bà đang sử
dụng là: 99,3m
2
đã được UBND thành phố S làm thủ tục cấp GCNQSD đất. Vợ
chồng ông bà và vợ chồng ông H, bà B không có thắc mắc khiếu nại hay tranh
chấp gì liên quan đến đất đai. Đề nghị Tòa án căn cứ các quy định của pháp luật
6
đất đai để giải quyết cho ông H, bà B theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân huyện Q: Tòa
án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt và không có ý kiến gì về việc
khởi kiện của người khởi kiện.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 228/2024/HC-ST ngày 18 tháng 9 năm
2024, Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:
Căn cứ khoản 4 Điều 32; khoản 1 Điều 115; điểm a khoản 2, điểm a khoản
3 Điều 116; khoản 1 Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 204; khoản 1 Điều
206 Luật Tố tụng hành chính; điểm a khoản 2 Điều 66; điểm a khoản 3 Điều 69;
khoản 2 Điều 103; khoản 2 Điều 143 Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 12
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ; khoản 2 Điều 32
Nghị quyết số 326/2016/QH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xử: Chấp nhận
đơn khởi kiện của ông Trần Văn H và bà Viên Thị B.
- Hủy một phần Quyết định số 3820/QĐ-UBND ngày 05/07/2022 của
UBND thành phố S về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB cho
hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B sử dụng đất tại phường Q để thực hiện dự
án: Đầu tư xây dựng công trình đường giao thông từ ngã ba V (thành phố T) đi
thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Hủy đối với phần diện tích đất 1.181,3 m
2
đất trồng
cây lâu năm được nêu tại Điều 1 của Quyết định.
- Buộc UBND thành phố S xác định phần diện tích 504,7m
2
trong tổng diện
tích đất 1.181,3m
2
(đang được xác định là đất trồng cây lâu năm) là đất ở và ban
hành bổ sung quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB đối với
phần diện tích đất ở 504,7m
2
nêu trên cho gia đình hộ ông Trần Văn H và bà Viên
Thị B.
- Buộc UBND thành phố S phải bố trí bổ sung đất ở tái định cư cho gia
đình hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B tượng ứng với diện tích 504,7m
2
đất ở
được phê duyệt bồi thường bổ sung khi bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật
và chủ trương, chính sách chung của dự án.
- Buộc UBND thành phố S xác định diện tích đất còn lại 95,3m
2
không bị
thu hồi là đất ở và thực hiện các thủ tục hành chính để cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Trần
Văn H và bà Viên Thị B theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/10/2024, người bị kiện là UBND thành
phố S có đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện, người bị kiện, Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt; Người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện đề nghị Hội đồng xét xử (viết
tắt là HĐXX) bác kháng cáo của người bị kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm:
7
Bản án sơ thẩm có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Đề nghị HĐXX phúc
thẩm căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, bác kháng cáo của người
bị kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Ông Trần Văn H, bà Viên Thị B khởi kiện yêu cầu hủy một phần
Quyết định số 3820/QĐ-UBND ngày 05/07/2022 củ UBND thành phố S, tỉnh
Thanh Hóa về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB cho hộ ông
Trần Văn H và bà Viên Thị B liên quan đến phần diện tích 1.181,3m
2
đất bị thu
hồi; Đây là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai bị kiện thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại các khoản 1, khoản 2 Điều 3
và khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính.
Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hóa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền,
đảm bảo về thời hiệu và điều kiện khởi kiện theo quy định tại khoản 4 Điều 32 và
điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính 2015.
[1.2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện, người bị kiện và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đều có đơn xin xét xử vắng mặt;
căn cứ quy định tại Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành xét xử vụ
án.
[2]. Xét yêu cầu kháng cáo của UBND thành phố S, HĐXX thấy:
[2.1]. Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất:
- Hồ sơ địa chính năm 1985 (299): Thửa đất số 206, tờ bản đồ 4, diện tích
9.878,0m
2
; sổ mục kê không ghi chủ sử dụng, loại đất T1
- Hồ sơ địa chính 1995 (382): Thửa đất số 738, tờ bản đồ 4, diện tích
1.557,0m
2
, loại đất T, đăng ký sử dụng ông Trần Văn H.
- Hồ sơ địa chính 2015 (Gồm 02 thửa):
+ Thửa đất số 335, tờ bản đồ 13, diện tích 1.476,4m
2
, loại đất ONT, đăng
ký sử dụng ông Trần Văn H.
+ Thửa đất số 1664, tờ bản đồ 13, diện tích 225,9m
2
, loại đất ONT, đăng
ký sử dụng ông Trương Văn L nhận chuyển nhượng của ông Trần Văn H và bà
Viên Thị B diện tích 225,4m
2
(trong đó đất ở 200,0 m
2
; đất vườn 25,4 m
2
) theo
hợp đồng chuyển nhượng đã được UBND xã Q xác nhận ngày 13/5/2003.
Diện tích thu hồi dự án là 1.381,3 m
2
; diện tích đo đạc thực tế là 1702,3m
2
(gồm 02 thửa đất của ông H và ông L), tăng 145,3m
2
đất so với hồ sơ địa chính
năm 1995, phần diện tích tăng lên thuộc diện tích ông H sử dụng, được xác định
là do sai số đo đạc, trước đây ranh giới với các hộ dân liền kề là vườn cây rậm
rạp, ông H, bà B không lấn chiếm hoặc nhận chuyển nhượng của các hộ liền kề,
hiện nay ranh giới thửa đất đã được xây tường bao khuôn viên, quá trình sử dụng
đất ổn định, không tranh chấp.
Theo Biên bản xác nhận về nguồn gốc, thời điểm sử dụng đất cho hộ ông
8
Trần Văn H và bà Viên Thị B ngày 20/6/2022 của UBND phường Q thì ông H,
bà B sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, trên đất có nhà ở sử dụng từ trước
ngày 18/12/1980, diện tích thực tế gia đình đang quản lý, sử dụng là 1.476,6m
2
đất, diện tích đất thu hồi là 1.381,3m
2
đất, hiện trạng phần diện tích còn lại 95,3m
2
không nằm trong phạm vi dự án (không phải thu hồi đất) gia đình ông có 01 ngôi
nhà diện tích khoảng 50m
2
. Ông H, bà B chưa được cấp GCNQSD đất.
[2.2]. Về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ cho ông Trần Văn
H, bà Viên Thị B:
[2.2.1]. Trước ngày 18/12/1980 đất của ông Trần Văn H và bà Viên Thị B
thuộc địa giới hành chính của xã Q, huyện Q, tỉnh Thanh Hóa. Tại Quyết định số:
157-HĐBT ngày 18/12/1981 của Hội đồng Bộ trưởng, quyết định thành lập 02 thị
xã thuộc tỉnh Thanh Hóa, trong đó thị xã S được thành lập từ thị trấn S và các xã
Q, Q, Q và xóm V (xã Q) thuộc huyện Q. Năm 2017, phường Q được thành lập
trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số xã Q.
[2.2.2]. Khoản 1 Điều 7 Quy định ban hành kèm theo Quyết định số
4463/2014/QĐ-UBND ngày 12/12/2014 của UBND tỉnh T quy định: “Đối với
những hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở hoặc đất vườn ao mà đất đó được
hình thành trước thời điểm được công nhận là đô thị (thị trấn, phường) thì áp
dụng hạn mức địa bàn nông thôn theo quy định tại Điều 4 Quy định này”.
Quyết định số 2027/2015/QĐ-UBND ngày 08/6/2015 của UBND tỉnh T về
việc đính chính khoản 1 Điều 7 của Quyết định số 4463/2014/QĐ-UBND quy
định: “Đối với những hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở hoặc đất vườn ao
mà đất đó được hình thành trước thời điểm được công nhận là đô thị (thị trấn,
phường) thì áp dụng hạn mức địa bàn nông thôn theo quy định tại Điều 5 Quy
định này”.
Khoản 2 Điều 1 Quyết định số 4655/2017/QĐ-UBND ngày 04/12/2017 của
UBND tỉnh T sửa đổi, bổ sung Điều 5 Quyết định số 4463/2014/QĐ-UBND như
sau:
“Điều 5. Hạn mức công nhận đất ở đối với trường hợp thửa đất có vườn,
ao
1. Trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở được hình thành từ
ngày 18/12/1980 đến trước ngày 01/7/2004 và người đang sử dụng đất có một
trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 Luật Đất đai
năm 2013 và Điều 18 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
mà trong giấy tờ đó không ghi rõ diện tích đất ở thì diện tích đất ở được xác định
như sau:
a. Địa bàn phường: 125 m
2
/hộ
b. Địa bàn thị trấn đồng bằng: 150 m
2
/hộ
c. Địa bàn thị trấn miền núi: 200 m
2
/hộ
d. Địa bàn xã đồng bằng: 200 m
2
/hộ
9
đ. Địa bàn xã miền núi: 400 m
2
/hộ
Trường hợp diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa
phương thì diện tích đất ở được xác định bằng hạn mức công nhận đất ở tại địa
phương; trường hợp diện tích thửa đất nhỏ hơn hạn mức công nhận đất ở tại địa
phương thì diện tích đất ở được xác định là toàn bộ diện tích thửa đất.
2. Đối với trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại
Điều 100 Luật đất đai năm 2013 và Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ nhưng có tên trong sổ mục kê hoặc sổ đăng ký ruộng
đất theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10/11/1980 của Thủ tướng Chính phủ hoặc có các
tài liệu chứng cứ khác chứng minh nguồn gốc sử dụng đất ổn định từ trước ngày
15/10/1993 thì diện tích đất ở được xác định như sau:
a) Trường hợp đã sử dụng đất ổn định từ ngày 18/12/1980 đến trước ngày
15/10/1993 thì diện tích đất ở được xác định theo mức quy định tại khoản 1 Điều
này.
b) Trường hợp đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 18/12/1980 thì diện
tích đất ở được xác định theo thực tế đang sử dụng, nhưng không quá 05 lần hạn
mức giao đất ở quy định tại khoản 1, Điều 3 và khoản 1, Điều 4 của quy định
này”.
Như vậy, căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 5 Quyết định số
4463/2014/QĐ-UBND (được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 4655/2017/QĐ-
UBND) thì: “Trường hợp đã sử dụng đất ổn định từ trước ngày 18/12/1980 thì
diện tích đất ở được xác định theo thực tế đang sử dụng, nhưng không quá 05 lần
hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 1, Điều 3 và khoản 1, Điều 4 của quy định
này”.
Điểm b khoản 1 Điều 4 Quyết định số 4463/2014/QĐ-UBND quy định:
“1. Hạn mức giao đất ở cho mỗi hộ gia đình, cá nhân.
...
b) Đối với địa bàn xã đồng bằng thuộc huyện.
- Tối đa 150 m
2
/hộ đối với các vị trí ven đường giao thông, khu vực trung
tâm xã, cụm xã T cho hoạt động thương mại, dịch vụ, sinh hoạt;
- Tối đa 200 m
2
/hộ đối với các vị trí còn lại”.
Mặt khác, tại Điều 2 Quyết định số 4655/2017/QĐ-UBND ngày
04/12/2017 của UBND tỉnh T sửa đổi, bổ sung Quyết định số 4463/2014/QĐ-
UBND còn quy định: “Các trường hợp chưa được xác định đất ở theo quy định
này, nay người sử dụng đất có đơn đề nghị được xác định lại diện tích đất ở hoặc
khi Nhà nước thu hồi đất thì diện tích đất ở được xác định lại theo quy định này”.
Đối chiếu với các quy định pháp luật trên thì Khu đất của ông H, bà B
không nằm ở khu vực trung tâm xã, cụm xã thuận lợi cho hoạt động thương mại,
dịch vụ, sinh hoạt, không nằm ven đường giao thông. Diện tích đất của ông H, bà
B có nguồn gốc sử dụng từ trước ngày 18/12/1980, được áp dụng “hạn mức địa
10
bàn xã đồng bằng: 200m
2
/hộ” theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 4, khoản
1 Điều 7 Quy định về hạn mức công nhận đất ở ban hành kèm theo Quyết định
số: 4463/2014/QĐ-UBND ngày 12/12/2014 của UBND tỉnh T.
UBND thành phố S chỉ áp dụng hạn mức giao đất ở cho hộ gia đình tối đa
90m
2
x 5 = 450m
2
tại phường thuộc thành phố, thị xã theo điểm a khoản 1 Điều 3
Quy định ban hành kèm theo Quyết định số: 4463/2014/QĐ-UBND ngày
12/12/2014 của UBND tỉnh T là chưa xem xét đầy đủ thời điểm, địa bàn sử dụng
đất, các quy định của Nhà nước, của địa phương về hạn mức đất ở khi thu hồi đất,
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với ông H, bà
B. Trong trường hợp này, đất của ông H, bà B được công nhận diện tích đất ở tối
đa là 1.000m
2
, còn lại đất trồng cây lâu năm. Năm 2003, ông H, bà B đã chuyển
nhượng cho ông Trương Văn L, bà Lê Thị N1 tổng diện tích 225,43m
2
(trong đó
200,0m
2
là đất ở, đất vườn 25,4m
2
). Ông H, bà B có diện tích bị thu hồi 1.381,3m
2
;
phần diện tích còn lại 95,3m
2
không nằm trong phạm vi thu hồi dự án có nhà trên
đất được công nhận là đất ở; nên phần diện tích đất ở còn lại được công nhận là:
1000m
2
(hạn mức đất ở được công nhận) - 200m
2
(đất ở đã được công nhận theo
phương án bồi thường) - 200m
2
(đất ở đã chuyển nhượng cho ông L, bà N1) -
95,3m
2
(phần đất ở còn lại chưa bị thu hồi) = 504,7m
2
đất ở.
Quyết định số 3820/QĐ-UBND ngày 05/7/2022 của UBND thành phố S về
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB cho hộ ông ông Trần Văn H
và bà Viên Thị B lại xác định diện tích 1.381,3 m
2
đất của ông H, bà B bị thu hồi,
gồm 200,0m
2
đất ở và 1.181,3m
2
đất trồng cây lâu năm là chưa chính xác. Vì vậy,
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn H và bà Viên
Thị B, hủy một phần quyết định nêu trên của UBND thành phố S liên quan đến
việc xác định loại đất trong tổng diện tích 1.381,3m
2
đất là phù hợp quy định
pháp luật.
[2.3]. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc UBND thành phố S
phải xác định phần diện tích 504,7m
2
trong tổng diện tích đất 1.181,3m
2
(đang
được xác định là đất trồng cây lâu năm) là đất ở và ban hành bổ sung quyết định
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB đối với phần diện tích đất ở
504,7m
2
nêu trên cho gia đình hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B là không
chính xác. Trong phạm vi giải quyết của vụ án hành chính, Tòa án chỉ có thẩm
quyền xem xét tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn ban hành,
tính hợp pháp về hình thức và nội dung của quyết định hành chính bị kiện. Quá
trình bồi thường, hỗ trợ và tái định cư bổ sung, UBND thành phố S có trách nhiệm
thực hiện nhiệm vụ, công vụ xác định lại diện tích 504,7m
2
đất trong tổng diện
tích đất 1.181,3m
2
là đất ở, từ đó ban hành quyết định phê duyệt bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư bổ sung đối với phần diện tích 504,7m
2
đất ở đang bị xác định
là đất trồng cây lâu năm. Do đó, cần sửa một phần bản án sơ thẩm về nội dung
này.
[2.4]. Đối với yêu cầu buộc UBND thành phố S xác định diện tích đất còn
lại 95,3m
2
không bị thu hồi là đất ở và thực hiện các thủ tục hành chính để cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
11
với đất cho ông Trần Văn H và bà Viên Thị B theo quy định của pháp luật là vượt
quá phạm vi giải quyết trong vụ án hành chính do việc kê khai sử dụng đất là
quyền và nghĩa vụ của người dân. Trên cơ sở hồ sơ đăng ký kê khai quyền sử
dụng đất hợp lệ của ông Trần Văn H, bà Viên Thị B, UBND thành phố S mới thực
hiện nhiệm vụ, công vụ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân
theo quy định pháp luật. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm buộc UBND thành phố
S phải cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích 95,3m
2
là
không phù hợp quy định pháp luật nên HĐXX phúc thẩm sẽ sửa một phần bản án
sơ thẩm về nội dung này.
[3]. Từ những phân tích, nhận định nêu trên, có cơ sở để chấp nhận một
phần kháng cáo của UBND thành phố S, cần sửa một phần bản án sơ thẩm theo
hướng đã phân tích kể trên.
[4]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên UBND thành
phố S không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của người bị kiện là Ủy ban nhân dân
thành phố S; sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 228/2024/HC-ST ngày 18 tháng
9 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, cụ thể:
Căn cứ khoản 4 Điều 32; khoản 1 Điều 115; điểm a khoản 2, điểm a khoản
3 Điều 116; khoản 1 Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 193; Điều 204; khoản 1 Điều
206 Luật Tố tụng hành chính; điểm a khoản 2 Điều 66; điểm a khoản 3 Điều 69;
khoản 2 Điều 103; khoản 2 Điều 143 Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 12
Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ; khoản 2 Điều 32
Nghị quyết số 326/2016/QH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Xử: Chấp nhận
đơn khởi kiện của ông Trần Văn H và bà Viên Thị B.
- Hủy một phần Quyết định số: 3820/QĐ-UBND ngày 05/07/2022 của
UBND thành phố S về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ GPMB cho
hộ ông Trần Văn H và bà Viên Thị B sử dụng đất tại phường Q để thực hiện dự
án: Đầu tư xây dựng công trình đường giao thông từ ngã ba V (thành phố T) đi
thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Hủy đối với phần diện tích đất 1.181,3m
2
đất trồng
cây lâu năm được nêu tại Điều 1 của Quyết định.
- Buộc UBND thành phố S, tỉnh Thanh Hóa thực hiện nhiệm vụ, công vụ
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bổ sung cho hộ gia đình ông Trần Văn H, bà Viên
Thị B theo quy định của pháp luật đối với phần diện tích 504,7m
2
đất ở nằm trong
tổng diện tích 1.181,3m
2
đất đang bị xác định là đất trồng cây lâu năm.
2. Về án phí:
2.1. Án phí hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh
12
Hóa phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
2.2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố S, tỉnh
Thanh Hóa không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
3. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
- Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Thanh Hóa;
- VKSND tỉnh Thanh Hóa;
- Cục THADS tỉnh Thanh Hóa;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HSVA, phòng HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Phạm Văn Tuyển
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm