Bản án số 175/2024/HC-ST ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 175/2024/HC-ST

Tên Bản án: Bản án số 175/2024/HC-ST ngày 10/12/2024 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Số hiệu: 175/2024/HC-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/12/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Văn C - UBND thành phố V - Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TINH BÀ RỊA-NG TÀU
Bản án số: 175/2024/HC-ST
Ngày 10-12-2024
V/v “Kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Hiếu
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đặng Văn Chánh
Ông Trần Quốc Thái
- Thư phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hảo Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Rịa Vũng Tàu tham gia
phiên tòa: Bà Lương Thị Yến– Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Rịa – Vũng
Tàu xét xử thẩm công khai vụ án hành chính thsố 220/2024/TLST- HC
ngày 17-6-2024 vviệc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 239/2024/QĐXXST-HC ngày
02-12-2024, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1957; Địa chỉ: Số A Đường C,
Phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn A, sinh năm 1982; địa chỉ: A C,
phường A, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố V.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Vũ T- Chủ tịch. (vắng mặt, có đơn xin
xét xử vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Mạnh D- Phó Giám đốc
Trung tâm P; Khổng Thị Thu H- Viên chức Trung tâm phát triển quỹ đất thành
phố V. (ông D vắng mặt, bà H có mặt)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Thị H1, sinh năm 1956;
địa chỉ: Số A Đường C, Phường A, thành phố V, tỉnh Rịa - Vũng Tàu. (vắng
mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo đơn khởi kiện, quá trình làm việc tại Tòa án, người khởi kiện
người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:
Ngày 18/6/2019 UBND thành phố V ban hành quyết định số 2747/QĐ-
UBND về việc thu hồi 28.479,9m
2
đất của ông (bà) Nguyễn Văn C, tại Phường A
để xây dựng công trình Hạ tầng kỹ thuật khu tiểu thủ công nghiệp P, phục vụ di
dời các cơ sở gây ô nhiễm trên địa bàn thành phố V
Cùng ngày, UBND thành phố V ban hành quyết định số 2749/QĐ-UBND
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ tr tái định cho ông (bà)
Nguyễn Văn C.
Ngày 17/01/2020 UBND thành phố V ban hành quyết định số 416/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông (bà)
Nguyễn Văn C.
Do không được bồi thường với diện tích 28.479,90m
2
nên ông C làm đơn
khiếu nại đến UBND thành phố V.
Ngày 19/01/2021 Chủ tịch UBND thành phố V ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại s369/QĐ-UBND, theo đó bác toàn bộ nội dung đơn khiếu nại
của ông C.
Không đồng ý với nội dụng giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thành
phố V ông C tiếp tục khởi kiện ra TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tại Bản án số
43/2022/HC-ST ngày 10/5/2022 của TAND tỉnh Rịa - Vũng Tàu, tuyên xử:
Hủy một phần quyết định số 2749/QĐ-UBND ngày 18/6/2019 của U về việc phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cho ông (bà) Nguyễn Văn C,
địa chỉ 1471 Đường C, Phường A, TP . do nhà nước thu hồi để thực hiện dự án
Hạ tầng kỹ thuật khu tiểu thủ công nghiệp P, phục vụ di dời các sở gây ô nhiễm
trên địa bàn TP .; Huỷ quyết định số 369/QĐ-UBND ngày 19/01/2021 của Chủ
tịch U về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với hộ ông Nguyễn Văn C; Buộc
Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường 25.329,9m
2
đất thuộc một phần thửa
128 + 129 , tờ bản đồ số 23(cũ), mới thửa 13+50+51+59+65, tờ bản đồ địa
chính số A, Phường A, Tp . cho hộ ông Nguyễn Văn C theo quy định pháp luật
(theo đồ vị trí thửa đất do chính nhánh văn phòng ĐKĐĐ TP . lập ngày
31/10/2018 phục vụ công tác thu hồi đất).
Do bản án bị kháng cáo nên được xét xử phúc thẩm tại TAND Cấp Cao tại
thành phố Hồ Chí Minh.
Tại bản án số 885/2022/HC-PT ngày 10/11/2022 của TAND Cấp Cao tại
thành phố Hồ Chí Minh, tuyên xử: Giữ nguyên bản án hành chính thẩm số:
43/2022/HC-ST ngày 10/5/2022 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngày 22/05/2023 của UBND thành phố V ban hành quyết định 2442/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cho ông
3
(bà) Nguyễn Văn C theo bản án số 885/2022/HC-PT ngày 10/11/2022 của Toà án
nhân dân cấp cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh.
Tại điều 1 mục A quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 22/05/2023: Bồi
thường giá trị quyền sử dụng đất.
Đất nuôi trồng thuỷ sản vị trí 5, đường loại 2 ( đường C).
Diện tích đất bồi thường: 25,329,9m
2
x 706.000đ = 17.882.909.400đ.
Giá bồi thường được tính theo quyết định số 2268/QĐ-UBND ngày
16/8/2018 của UBND Tỉnh B-VT.
Tại thời điểm ban hành quyết định 2442/QĐ-UBND về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, ông C không để ý tới giá đất bồi thường được tính
giá của năm 2018 trong khi đó thời điểm phê duyệt phương án bồi thường là tháng
5/2023, thời gian tính giá đất chênh lệnh là 5 năm.
Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “3. Việc
quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định được quy định như sau: a) Ủy ban nhân dân cấp thẩm quyền
quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng mt ngày”.
Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai 2013 quy định: “2. Việc bồi thường được
thực hiện bằng việc giao đất cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu
không có đất để bồi thường thì được bi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của
loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định
thu hồi đất.”
Như vậy, toàn bộ diện tích 25,329,9m
2
đất nuôi trồng thuỷ sản của ông C
phải được nhà nước khảo sát lại giá đất bồi thường tại thời điểm của tháng 5/2023
là mới đúng quy định pháp luật.
Do đó, ông C khởi kiện yêu cầu:
- Huỷ một phần quyết định 2442/QĐ-UBND ngày 22/05/2023 của U v
việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Nguyễn
Văn C, địa chỉ 1471 Đường C, Phường A, TP . do nhà nước thu hồi để thực hiện
dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tiểu thủ công nghiệp P, Phường A, TP . theo bản án
số 885/2022/HC-PT ngày 10/11/2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành Phố
Hồ Chí Minh. Tại điều 1, mục A.
- Buộc UBND thành phố V phải bồi thường đối với phần diện tích
25,329,9m
2
đất nuôi trồng thuỷ sản cho ông (bà) Nguyễn Văn C theo giá trị khảo
sát thực tế tại thời điểm tháng 5 năm 2023.
2. Tại văn bản số 13413/UBND-PTQĐ ngày 09-12-2024, người bị kiện
UBND thành phố V trình bày:
Về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất:
Diện tích đất thu hồi 28.479,9m
2
, trong đó diện tích 25.329,9m
2
thuộc 02
thửa 128 +129, tờ bản đồ số 26 (cũ) và diện tích 3.150,0m
2
thuộc thửa đất đường
mương và sông D do Nhà nước quản lý; Theo xác nhận đơn xin cấp giấy của ông
4
(bà) Nguyễn Văn C - Thị H1 được UBND phường A1 xác nhận ngày
12/12/2013 thể hiện đất nguồn gốc do Tập đoàn muối khai thác, sử dụng làm
đùm tôm năm 1980. Đến năm 1990, đùm tôm hỏng không kinh phí sửa chữa
nên Tập đoàn giao trả lại đất cho Nhà nước quản lý. Ngày 04/10/1990, ông
Nguyễn Văn Đ đơn xin sử dụng được UBND phường A2 xác nhận ngày
03/11/1990 với nội dung tạm giao để phục hồi sử dụng và thực hiện nghĩa vụ của
địa phương. Đến năm 1993, ông Đình H2 cũng đơn xin xác nhận hợp tác
khai thác sản xuất với ông Đ và được UBND phường A2 xác nhận ngày
29/5/1993. Sử dụng đến năm 2003, ông H2 ông Đ bán lại cho ông Nguyễn Văn
C sử dụng bằng giấy viết tay.
Về quá trình thu hồi, bồi thường, hỗ trợ giải quyết đơn khiếu nại của ông
C:
Căn cứ nguồn gốc quá trình sử dụng đất như trên, ngày 18/6/2019,
UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2747/QĐ-UBND về việc thu hồi
28.479,9m2 đất tại phường A, thành phố V do ông Nguyễn Văn C đang sử dụng
Quyết định số 2749/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ cho hộ ông C với nội dung cụ thể như sau:
- Không bồi thường đất theo khoản 2, 4 Điều 82 Luật Đất đai 2013. Tuy
nhiên về việc xem xét hỗ trợ, ngày 30/5/2019 UBND thành phố V đã có Văn bản
số 2694/UBND-TNMT trình UBND Tỉnh về việc xin chủ trương htrợ cho một số
hộ dân có nguồn gốc đất nhà nước giao không đúng thẩm quyền vượt hạn mức
sử dụng đất thuộc dự án. Do đó, trong trường hợp UBND Tỉnh chấp thuận chủ
trương hỗ trợ, UBND Thành phố sẽ ban hành Quyết định phê duyệt phương án
hỗ trợ bổ sung cho hộ dân theo quy định; Trong trường hợp UBND Tỉnh không
chấp thuận chủ trương hỗ trợ thì căn cứ quyết định này.
- Bồi thường hoa màu, cây trái.
- Không hỗ trợ nhà tạm loại 3 các vật kiến trúc do xây dựng trên phần đất
không đủ điều kiện bồi thường.
- Htrợ mặt nước diện tích 23.053,4m
2
đang nuôi tôm, theo hình quảng
canh cải tiến.”
Ngày 17/01/2020, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 416/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung cho ông Nguyễn
Văn C. Theo đó, UBND thành phố V đã tính hỗ trợ diện tích 25.329,9m
2
đất nuôi
trồng thủy sản (50% giá đất NTTS vị trí 5, đường loại 2) theo Văn bản số
7996/UBND-VP ngày 12/8/2019 của UBND Tỉnh và Văn bản số 4296/STNMT-
CCQLĐĐ ngày 25/7/2019 của Sở T2.
Không đồng ý với nội dung Quyết định trên, hộ dân đề nghị được hỗ trợ
như bồi thường toàn bộ diện tích 28.479,9m
2
đất có nguồn gốc Nhà nước giao từ
năm 1990.
Ngày 19/01/2021, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 369/QĐ-
UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của ông Nguyễn Văn C; Theo đó,
5
UBND Thành phố bác toàn bộ nội dung đơn khiếu nại của ông C giữ nguyên
các Quyết định số 416/QĐ-UBND ngày 17/01/2020 của UBND thành phố V.
Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của UBND thành
phố V, ông C khởi kiện đến Tòa án tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và yêu cầu:
- Tuyên hủy một phần Quyết định số 2749/QĐ-UBND ngày 18/6/2019 của
Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, htrợ, tái
định cho ông Nguyễn Văn C do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Hạ
tầng kỹ thuật Khu T phục vụ di dời các cơ sở ô nhiễm trên địa bàn thành phố V.
- Tuyên hủy Quyết định số 369/QĐ-UBND ngày 19/01/2021 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố V về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) đối với hộ ông Nguyễn
Văn C
- Buộc UBND thành phố V phải bồi thường diện tích 28.479,7m
2
đất bị thu hồi
theo quy định.
Ngày 10/5/2022, Tòa án tỉnh Rịa Vũng Tàu ban hành Bản án số
43/2022/HC-ST với nội dung tuyên xử:
“3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C;
3.1 Hủy Quyết định số 2749/QĐ-UBND ngày 18/6/2019 của UBND thành
phố V về việc pduyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cho ông
Nguyễn Văn C do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu
T, phường A, thành phố V;
3.2 Hủy Quyết định số 369/QĐ-UBND ngày 19/01/2021 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố V về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) đối với hộ ông
Nguyễn Văn C.
Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V bồi thường 25.329,9m2 đất thuộc một
phần thửa 128+129, tờ bản đồ số 23 (cũ), mới là thửa 13+50+51+59+68 tờ bản
đồ địa chính số A, phường A, thành phố V cho hộ ông Nguyễn Văn C theo quy
định pháp luật (theo đồ vị trí thửa đất do Chi nhánh Văn phòng đăng đất
đai thành phố V lập ngày 31/10/2018 phục vụ công tác thu hồi đất).”
UBND thành phố V, Chủ tịch UBND thành phố V kháng cáo toàn bộ Bản
án nêu trên và đã được Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh giải
quyết tại Bản án phúc thẩm số 885/2022/HC-PT ngày 10/11/2022 với nội dung
“Không chấp thuận yêu cầu kháng cáo của UBND thành phố V giữ nguyên
Bản án hành chính sơ thẩm số 43/2022/HC-ST ngày 10/5/2022 của Toà án nhân
nhân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.”
Ngày 22/5/2023, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2442/QĐ-
UBND việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cho ông
Nguyễn Văn C, địa chỉ 1471 đường C, Phường A, thành phố V do Nhà nước thu
hồi đất để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật Khu T, thành phố V theo Bản án số
885/2022/HC-PT ngày 10/11/2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh với tổng kinh phí bồi thường, hỗ trợ 25.077.281.920 đồng. Gồm các
nội dung sau:
6
+ Bồi thường 25.329,9m
2
đất nuôi trồng thuỷ sản vị trí 5, đường loại 2
(đường C).
+ Không bồi thường 3.150,0m
2
đất sông D do Nhà nước quản lý.
+ Bồi thường hoa màu, cây trái
+ Hỗ trợ 100% nhà, vật kiến trúc.
+ Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp tìm kiếm việc làm đối với diện
tích 25.329,9m
2
và hỗ trợ đùng nuôi tôm, cá theo mô hình quảng canh cải tiến.
Ngày 16/6/2023, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố P đã thực hiện chi
trả số tiền bồi thường, hỗ trợ theo Quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 22/5/2023
của UBND thành phố V.
Ngày 17/6/2024, Toà án nhân dân tỉnh Rịa Vũng Tàu Thông báo
số 220/2024/TLST –HC thông báo về việc thụ lý ván hành chính thẩm về
việc “khởi kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai.” Theo đó, ông Nguyễn
Văn C khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân Tỉnh giải quyết:
- Huỷ một phần Quyết định 2442/QĐ-UBND ngày 22/5/2023 của Ủy ban
nhân dân thành phố V tại điều 1 mục A về việc phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ tái định cho ông Nguyễn Văn C, địa chỉ 1471 đường C, Phường A,
thành phố V do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dán Hạ tầng kthuật khu tiểu
thủ công nghiệp P, phường A, thành phố V theo Bản án số 885/2022/HC-PT ngày
10/11/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V phải bồi thường đối với phần diện
tích 25.329,9m
2
đất nuôi trồng thuỷ sản cho ông Nguyễn Văn C theo giá trị khảo
sát thực tế tại thời điểm tháng 5 năm 2023.
Về quan điểm giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện:
Tại Điều 74 Luật Đất đai năm 2013 về nguyên tắc bồi thường về đất khi
Nhà nước thu hồi đất, quy định:
“1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu có đủ điều kiện được
bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này thì được bồi thường.
2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử
dụng với loại đất thu hồi, nếu không đất để bồi thường thì được bồi thường
bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
3. Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách
quan, công bằng, công khai, kịp thời và đúng quy định ca pháp luật.”
Căn cứ quy định nêu trên, tại thời điểm tháng 06/2019, UBND thành phố
V ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường
cho ông (bà) Nguyễn Văn C, trong đó không bồi thường tính bồi thường đối với
diện tích thu hồi 28.479,9m
2
. do: Tại thời điểm Nhà nước thu hồi đất, ông
Nguyễn Văn C đang sử dụng đất được Nhà nước giao để quản lý không cung
cấp được các giấy tờ pháp chứng minh về quyền sử dụng đất hợp pháp theo
quy định của pháp luật.
7
Trong quá trình khởi kiện và yêu cầu Toà án nhân dân các cấp (sơ thẩm và
phúc thẩm) giải quyết bồi thường đối với toàn bộ diện tích đất thu hồi thì ông
Nguyễn Văn C được Toà án“chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện cụ thlà hu
một phần các quyết định đối với nội dung không bồi thường phần đất bị thu hồi
25.329,9m
2
tại các Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định
số 2749/QĐ-UBND ngày 17/6/20219 Quyết định giải quyết khiếu nại lần
đầu số 369/QĐ-UBND ngày 19/01/2021 của Chủ tịch UBND thành phố V.” Nội
dung cụ thể được thể hiện tại Bản án sơ thẩm số 43/2022/HC-ST ngày 10/5/2022
và Bản án phúc thẩm số 885/HC-PT ngày 10/11/2022
Ngày 22/5/2023, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2442/QĐ-
UBND việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho ông (bà)
Nguyễn Văn C, địa chỉ 1471 đường C, Phường A, thành phố V do Nhà nước thu
hồi đất để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật Khu T, thành phố V theo Bản án số
885/HC-PT ngày 10/11/2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ C
Minh; Theo đó, đã áp dụng giá đất tính bồi thường tại Quyết định số 2268/QĐ-
UBND ngày 16/8/2018 của UBND tỉnh B phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất đthực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật Khu tiểu thủ
công nghiệp P, Phường A, thành phố V.
Tại thời điểm hiện nay, ông Nguyễn Văn C khởi kiện yêu cầu UBND thành
phố V phải bồi thường đối với phần diện tích 25.329,9m
2
đất nuôi trồng thuỷ sản
theo giá khảo sát thực tế tại thời điểm tháng 5/2023 không căn cứ để xem
xét theo Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013.
Do đó, đề nghị tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Văn C.
Đại diện VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát biểu quan điểm về vụ án:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp thẩm đã thực hiện
đúng theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Tại phiên tòa người tiến hành t
tụng người tham gia tố tụng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Quyết
định đưa vụ án ra xét xử quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều
130 và khoản 6 Điều 131 Luật tố tụng hành chính.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử:
p dụng điểm b khoản 2 Điều 193 Lut T tng hành chính; Điều 69, Điều
74, Điều 75 Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C về việc: Hủy Mục A
Điều 1 Quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 22/5/2023 của UBND thành phố V;
Buộc UBND thành phố V phải bồi thường đối với phần diện tích 25.329,9m
2
đất
nuôi trồng thủy sản cho ông Nguyễn Văn C theo giá đất khảo sát tại thời điểm ban
hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư số 2442/QĐ-
UBND ngày 22/5/2023; n phí hành chính sơ thẩm người bị kiện phải chịu
300.000 đồng.
8
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Người bị kiện được Tòa án triệu tập hợp lnhưng vắng mặt,
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tham
gia phiên tòa. Căn cứ Điều 157, 158 Luật Tố tụng hành chính thì sự vắng mặt của
đương sự không ảnh hưởng tới việc xét xử vụ án.
[2] Đối tượng khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp thẩm quyền của
Tòa án:
Ông Nguyễn Văn C khởi kiện yêu cầu hủy một phần quyết định số
2442/QĐ-UBND ngày 22/05/2023 của U về việc phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông (bà) Nguyễn Văn C, địa chỉ 1471 Đường C,
Phường A, thành phố V do nhà nước thu hồi để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật
khu tiểu thủ công nghiệp P, Phường A, thành phố V theo bản án số 885/2022/HC-
PT ngày 10/11/2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại Thành Phố Hồ Chí Minh
(gọi tắt là quyết định 2442). Quyết định số 2442 đối tượng khởi kiện trong vụ
án. Quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực đất đai thuộc trường hợp thu hồi đất bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư”.
Quyết định bị khiếu kiện do UBND thành phố V ban hành nên thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu theo quy định tại
Điều 30, Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính.
[3] Về thời hiệu khởi kiện:
Ngày 22-5-2023, UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2442. Ngày
20-5-2024, Tòa án nhân dân tỉnh Rịa - Vũng Tàu nhận được đơn khởi kiện
quyết định số 2442 của ông C. Do đó, việc khởi kiện là còn trong thời hiệu khởi
kiện theo điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
[4] Xét tính hợp pháp và có căn cứ của Quyết định số 2442 thì thấy:
[4.1] Về thẩm quyền ban hành quyết định:
Ngày 18-6-2019 UBND thành phố V ban hành quyết định số: 2747/QĐ-
UBND về việc thu hồi 28.479,9m
2
đất của ông (bà) Nguyễn Văn C, tại Phường A
để xây dựng công trình Hạ tầng kỹ thuật khu tiểu thủ công nghiệp P, phục vụ di
dời các cơ sở gây ô nhiễm trên địa bàn thành phố V.
Ngày 22-05-2023 của UBND thành phố V ban hành quyết định 2442/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cho ông
(bà) Nguyễn Văn C, địa chỉ 1471 Đường C, Phường A, TP . do nhà nước thu hồi
để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tiểu thủ công nghiệp P, Phường A, TP .
theo bản án số 885/2022/HC-PT ngày 10-11-2022 của Toà án nhân dân cấp cao
tại Thành Phố Hồ Chí Minh .
Đối chiếu điểm a khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc
quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư được quy định như sau: “Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy
định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương
9
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày” điểm a khoản 2 Điều
66 Luật Đất đai năm 2013 quy định về thẩm quyền thu hồi đất “Ủy ban nhân dân
cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: a, Thu hồi đất đối
với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư” tỦy ban nhân dân thành phố V ban
hành Quyết định số 2442 là đúng thẩm quyền.
[4.2] Xét tính có căn cứ tại Quyết định số 2442 của UBND thành phố V thì
thấy:
Quyết định số 2442 của UBND thành phố V về việc phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ tái định cho ông (bà) Nguyễn Văn C,tại Điều 1 Mục A
quy định: A/ Bồi thường giá trị quyền sử dụng đất: Đất nuôi trồng thủy sản vị trí
5, đường loại (đường C), diện tích 25.329,90m
2
, đơn g706.000đ/m2, thành tiền
17.882.909.400đ. Căn cứ theo Quyết định số 2268/QĐ-UBND ngày 16-8-2018
của UBND tỉnh B về việc phê duyệt giá đất cụ thể để bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất thực hiện các dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tiểu thủ công nghiệp Phước
Thắng phục vụ di dời các cơ sở ô nhiễm trên địa bàn thành phố V.
Ông Nguyễn Văn C khởi kiện yêu cầu hủy Mục A Điều 1 của Quyết định
số 2442 vì cho rằng UBND thành phố V áp dụng giá đất bồi thường tại Quyết
định số 2268/QĐ-UBND ngày 16-8-2018 của UBND tỉnh B không có căn cứ;
cần phải khảo sát lại giá thực tế tại thời điểm ban hành quyết định phê duyệt kinh
phí bồi thường, hỗ trợ bổ sung.
Xét thấy: Ngày 18-6-2019 UBND thành phố V ban hành quyết định số
2747/QĐ-UBND vviệc thu hồi 28.479,9m
2
đất của ông Nguyễn Văn C. do
thu hồi để xây dựng công trình Hạ tầng kỹ thuật khu tiểu thủ công nghiệp Phước
Thắng phục vụ di dời các cơ sở gây ô nhiễm trên địa bàn thành phố V.
Cùng ngày 18-6-2019, UBND thành phố V ban hành quyết định phê duyệt
kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định số 2749/QĐ-UBND, trong đó không bồi
thường phần đất nuôi trồng thủy sản vị trí 5, đường loại 2 (đường C) diện tích
28.479,90m². Không đồng ý nên ông Nguyễn Văn C khởi kiện. Ngày 10-5-2022,
Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử bằng bản án số 43/2022/HC-ST
có nội dung: Hủy quyết định pduyệt phương án bồi thường số 2749, hủy quyết
định giải quyết khiếu nại số 369 buộc UBND thành phố V phải thực hiện nhiệm
vụ bồi thường diện tích đất 25.329,9m
2
cho ông Nguyễn Văn C theo quy định của
pháp luật. Bản án bị kháng cáo. Tại Bản án s885/2022/HC-PT ngày 10-11-2022
của Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố HChí Minh đã tuyên xử: Giữ nguyên
bản án số 43/2022/HC-ST ngày 10-5-2022 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngày 22-5-2023 của UBND thành phố V ban hành Quyết định số 2442/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cho ông
Nguyễn Văn C theo Bản án số 885/2022/HC-PT ngày 10-11-2022 của Tòa án
nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
10
Như vậy, tính từ ngày thu hồi đất (ngày 18-6-2019) đến ngày UBND thành
phố V phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ theo Bản án phúc thẩm (ngày 22-
5-2023) thì khoảng cách về thời gian cách xa nhau gần 48 tháng (04 năm).
Quyết định số 2442 ngày 22-5-2023 áp dụng giá bồi thường tại Quyết định
số 2268/QĐ-UBND ngày 16-8-2018 của UBND tỉnh B nên khoảng cách từ ngày
ban hành quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ theo bản án phúc thẩm
với giá đất cụ thể được UBND tỉnh B xác định vào ngày 16-8-2018 thì khoảng
cách về thời gian cách xa nhau gần 57 tháng (04 năm 09 tháng).
Đối chiếu Điều 74 Luật Đất đai 2013 quy định về Nguyên tắc bồi thường
về đất khi Nhà nước thu hồi đất như sau: “1. Người sử dụng đất khi Nhà nước thu
hồi đất nếu đủ điều kiện được bồi thường quy định tại Điều 75 của Luật này
thì được bồi thường. 2. Việc bồi thường được thực hiện bằng việc giao đất cùng
mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không đất để bồi thường thì được
bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất. 3. Việc bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất phải bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai,
kịp thời đúng quy định của pháp luật”. Như vậy, việc phê duyệt kinh phí bồi
thường vào tháng 5 của năm 2023, nhưng áp dụng giá đất cụ thể của năm 2018 là
không đảm bảo nguyên tắc kịp thời trong bồi thường vđất. Việc chậm trễ bồi
thường do lỗi của UBND thành phố V, do ban đầu xác định sai diện tích đất
bồi thường, khiến người đất phải khởi kiện. Từ năm 2018 đến năm 2023
khoảng thời gian dài, nhiều biến động về giá trị quyền sử dụng đất tại thành
phố V theo chiều hướng tăng cao. Điều này cũng được thể hiện tại Quyết định s
2268/QĐ-UBND ngày 16-8-2018 và Quyết định số 2225/QĐ-UBND ngày 11-9-
2023 của UBND tỉnh B xác định gbồi thường cùng một vị trí, cùng loại đất,
trong cùng một dự án cũng đã tăng rệt (năm 2018 g706.000đ/m², năm 2023
giá 1.022.000đ/m
2
). Do đó, việc UBND thành phố V áp dụng giá của năm 2018
để tính bồi thường cho năm 2023 đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi ích
hợp pháp của người bị thu hồi đất.
Căn cứ các quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai 2013 “2. Việc bồi
thường được thực hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất
thu hồi, nếu không đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá
đất cụ thể của loại đất thu hồi do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tại thời
điểm quyết định thu hồi đất”; điểm a khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai 2013 “a) Ủy
ban nhân dân cấp thẩm quyền quy định tại Điều 66 của Luật này quyết định
thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong
cùng một ngày..”. Việc ban hành quyết định thu hồi đất ngày 18-6-2019, ban hành
quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định ngày 22-5-2023
là không cùng mt ngày, cách nhau gần 04 năm là lỗi của UBND thành phố V.
Do đó, căn cứ xác định UBND thành phố V ban hành Quyết định số
2442/QĐ-UBND ngày 22-5-2023 nhưng áp dụng giá đất bồi thường tại Quyết
11
định số 2268/QĐ-UBND ngày 16-8-2018 của UBND tỉnh B không có căn cứ;
cần buộc UBND thành phố V phải khảo sát lại giá thực tế tại thời điểm ban hành
quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ. Vì vậy, chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện ca ông Nguyễn Văn C.
[5] Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu hoàn
toàn có căn cứ nên chấp nhận.
[6] Về án phí thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện được chấp
nhận, nên UBND thành phố V phải chịu 300.000 đồng án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính; các Điều 66,
69, 74, 75 Luật đất đai năm 2013; Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C:
1.1. Hủy Mục A Điều 1 tại Quyết định số 2442/QĐ-UBND ngày 22-5-2023
của Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư cho ông (bà) Nguyễn Văn C, địa chỉ 1417 đường C, phường A,
thành phố V do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dán Hạ tâng kthuật khu tiểu
thủ công nghiệp P, Phường A, thanh phố Vũng Tàu theo Bản án số 885/2022/HC-
PT ngày 10-11-2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
1.2. Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V phải bồi thường cho ông Nguyễn
Văn C đối với phần đất nuôi trồng thủy sản diện tích 25.329,9m
2
theo quy định
của pháp luật.
2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân thành phố V phải chịu
300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).
5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10-12-2024), các đương s
quyền kháng cáo bản án lên Tòa phúc thẩm TAND Cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đối với người vắng mặt thì thời hạn kháng
cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy
định của pháp luật.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND tỉnh BR-VT;
- Cục THADS tỉnh BR-VT;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(ĐÃ KÝ)
Nguyễn Thành Hiếu
12
Tải về
Bản án số 175/2024/HC-ST Bản án số 175/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 175/2024/HC-ST Bản án số 175/2024/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất