Bản án số 364/2024/DS-PT ngày 23/07/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 364/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 364/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 364/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 364/2024/DS-PT ngày 23/07/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 364/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Hồng S, ông Võ Văn H, bà Võ Thị L. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 01 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 364/2024/DS-PT
Ngày: 23-7-2024
V/v tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thế Hồng;
Các Thẩm phán: Ông Phạm Văn Tỉnh;
Ông Lê Minh Đạt.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Minh Trung – Thẩm tra viên chính Tòa
án nhân dân tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thanh Thảo - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 61/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 3 năm
2024 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 01 tháng 02 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1168/2024/QĐXXPT-
DS ngày 27 tháng 3 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Võ Văn D, sinh năm 1963;
Địa chỉ: 9 ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Bà Đào Hồng V, sinh năm
1966; địa chỉ: 8 ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre; theo văn bản uỷ quyền được
xác lập ngày 04/3/2024; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Võ Hồng S, sinh năm 1972;
Địa chỉ: 1 ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
2
Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn: Ông Phạm Quốc V1, sinh năm:
1988; địa chỉ: ấp A, xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre; theo văn bản uỷ quyền được
xác lập ngày 13/5/2024; có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Võ Văn H, sinh năm 1955;
Địa chỉ: 7 ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3.2. Bà Võ Thị L, sinh năm 1964;
Địa chỉ: 2 ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Võ Văn H, bà Võ Thị L: Ông Phạm Quốc V1, sinh năm: 1988; địa chỉ: ấp A,
xã B, huyện M, tỉnh Bến Tre; theo văn bản uỷ quyền được xác lập ngày
13/5/2024; có mặt.
3.3. Chị Võ Thị Cẩm T, sinh năm 1997;
3.4. Anh Võ Văn K, sinh năm 1985;
3.5. Anh Võ Hữu T1, sinh năm 1983;
3.6. Bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1958;
Cùng địa chỉ: 9 ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3.7. Chị Lê Thị L1, sinh năm 1977;
Địa chỉ: A ấp H, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo uỷ quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chị Võ Thị Cẩm T, anh Võ Văn K, anh Võ Hữu T1, bà Nguyễn Thị H1 và chị Lê
Thị L1: Bà Đào Hồng V, sinh năm 1966; địa chỉ: 8, ấp A, xã A, huyện T, tỉnh
Bến Tre; theo văn bản uỷ quyền được xác lập ngày 04/3/2024; có mặt.
- Người kháng cáo: Ông Võ Hồng S là bị đơn; ông Võ Văn H, bà Võ Thị L
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm;
Theo đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa
nguyên đơn Võ Văn D, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Võ Văn D,
đồng thời là người đại diện của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
chị Võ Thị Cẩm T, anh Võ Văn K, anh Võ Hữu T1, bà Nguyễn Thị H1, chị Lê Thị
L1 là bà Đào Hồng V trình bày:
Năm 1994, vợ chồng cụ ông Võ Văn C và cụ bà Trần Thị H2 (là cha mẹ
của bị đơn ông Võ Hồng S, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn
H, bà Võ Thị L) có chuyển nhượng cho nguyên đơn ông Võ Văn D một phần đất
thuộc một phần thửa 03, 02 tờ bản đồ số 14, loại đất ruộng với số vàng là 24 chỉ
3
vàng 24K. Tại thời điểm nhận chuyển nhượng do thiếu hiểu biết nên các bên chỉ
làm giấy tay nhưng cụ C, cụ H2 có ký vào “Tờ sang nhượng đất ruộng”. Sau khi
nhận chuyển nhượng ông D cải tạo đất nhiều lần, cất nhà ở cho đến nay.
Năm 2002, ông D cất nhà kiên cố, lúc đó cụ C, cụ H2 và các con của cụ C,
cụ H2 không ai tranh chấp hay ngăn cản gì. Năm 2004, ông D có yêu cầu ông
Dương Thành L2 (trưởng ấp T) ký xác nhận vào “Tờ sang nhượng đất ruộng”
ngày 20/5/1994, ngày 06/8/2004 ông D yêu cầu Ủy ban nhân dân xác nhận và
được Ủy ban nhân dân xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre xác nhận chữ ký của ông L2
là đúng. Lúc đó, ông C, bà H2 có chừa lại một phần đất để làm đường đi thuộc
một phần thửa 02 vào phần đất còn lại của ông C, bà H2. Sau đó, nhiều lần ông
D yêu cầu cụ C, cụ H2 làm thủ tục chuyển quyền thì cụ C, cụ H2 cho rằng đất đã
thế chấp vay vốn Ngân hàng nên không thực hiện được.
Năm 2004, đất này được đo đạc Vlap, ông D yêu cầu cụ C đo đạc tách đất
để chuyển nhượng cho ông D nhưng cụ C không chịu, cụ C nói để đo hết cho
ông đứng tên rồi ông sẽ chuyển quyền sử dụng phần sang nhượng cho ông D
sau. Cụ C đứng tên luôn cả phần đất mà cụ C, cụ H2 đã chuyển nhượng cho ông
D.
Sau đó, cụ C và cụ H2 chết, con cụ C và cụ H2 là ông Võ Hồng S đăng ký
kê khai quyền sử dụng phần đất sang nhượng của ông D. Đến tháng 04 năm
2018, ông D yêu cầu ông S lập thủ tục ký tên chuyển quyền sử dụng đất cho ông
D, ông S cứ hứa lần hứa lượt, viện lý do này nọ không chịu ký tên chuyển quyền
sử dụng cho ông D, rất nhiều lần ông D yêu cầu ông S cứ phớt lờ bỏ qua. Đất thì
ông D sử dụng ổn định nhưng ông S vẫn đứng tên, gia đình ông D đã sử dụng
gần 30 năm, gia đình ông D đã làm nhà ở nhiều lần, cất chuồng trại, cải tạo đất
rất nhiều lần và cho anh L3 và chị T1 cất nhà thì gia đình cụ C, cụ H2 vẫn đồng
ý.
Trước khi khởi kiện ông D không biết thửa đất mà ông D khởi kiện ông S
là thửa nào nên khi khởi kiện ông D chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa 03 nên ông D khởi kiện thửa 03, khi có kết quả đo đạc thì ông D
mới biết vị trí đất mà ông D nhận chuyển nhượng của ông C, bà H2 có phần
thửa 02 nên ông D khởi kiện bổ sung thửa 02. Tại thửa đất 03 ông D có cất nhà
nhiều lần đến năm 2002 ông D có xây căn nhà kiên cố. Năm 2020 ông D có cho
con ông D là anh T1 một phần thửa 02 để xây nhà kiên cố. Khi gia đình ông D
xây dựng nhà và anh T1 xây dựng nhà thì gia đình cụ C, cụ H2, ông S, ông H và
bà L vẫn sinh sống tại địa phương nhưng không ai tranh chấp.
Ngày 20/06/2021, ông D viết đơn yêu cầu chính quyền ấp T, xã M giải
quyết. Ngày 28/06/2021, chính quyền ấp T B mời đến hoà giải nhưng không
thành do ông S không chịu ký tên chuyển quyền sử dụng cho ông D. Chuyển hồ
sơ đến Ủy ban nhân dân xã M để giải quyết. Ngày 08/12/2021, Ủy ban nhân dân
4
xã M mời đến hoà giải nhưng không thành. Các chữ “Sa” tại các biên bản hoà
giải tại biên bản hoà giải ấp T, xã M là do ông S trực tiếp tham gia và ký tên.
Ông D khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Thạnh Phú xem xét giải
quyết: Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Dô với ông
Võ Văn C, bà Trần Thị H2 ngày 20/5/1994; buộc những người kế thừa quyền và
nghĩa vụ của ông C, bà H2 gồm: Ông S, ông H và bà L phải có nghĩa vụ chuyển
quyền sử dụng diện tích 2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b,
3c, 3d, 3f) và một phần thửa 02 (tại các vị trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f. 2e) có
diện tích là 553,9m
2
cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre cho ông
D. Ông D và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý đối
với các yêu cầu của ông S, ông L và ông H. Ông D tự nguyện giao trả lại cho
ông S giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 2.725m
2
thuộc thửa đất 03,
tờ bản đồ số 14 đất tọa lạc ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B cấp cho ông S vào ngày 23/01/2018.
Ông D đồng ý với kết quả đo đạc và kết quả định giá ngày 04/4/2023. Đối
với chi phí đo đạc, định giá và các chi phí khác thì ông D đề nghị giải quyết theo
quy định. Ông D không tranh chấp hay yêu cầu gì đối với việc Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 02, 03 tờ bản đồ
số 14 đất tọa lạc ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre cho ông S.
Trong quá trình tố tụng tại Tòa án, bị đơn ông Võ Hồng S và người đại
diện theo uỷ quyền của bị đơn ông Võ Hồng S, đồng thời là người đại diện của
những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn H và bà Võ Thị L
trình bày:
Phần đất tranh chấp có nguồn gốc của cụ ông Võ Văn C và cụ bà Trần Thị
H2. Cụ C chết năm 2008, cụ H2 chết năm 2009. Cụ C và cụ H2 có 03 người con
là Võ Văn H, Võ Hồng S, Võ Thị L. Cụ C và cụ H2 không có con riêng, con
nuôi nào khác. Cụ C và cụ H2 chết không để lại di chúc. Vào ngày 14/8/2000,
hộ gia đình cụ C được Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 513, tờ bản đồ số 04, diện tích 6.615m
2
toạ
lạc xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre. Đến năm 2017, ông S làm thủ tục thừa kế cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Ngày 23/01/2018, ông S
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số: CL 996755, thửa đất 03, tờ bản đồ số 14, diện tích 2.725m
2
(thuộc một
phần thửa đất 513) và thửa 02 tờ bản đồ số 14 có diện tích 1.119,8m
2
tọa lạc ấp
T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Từ trước đến nay ông S, ông H và bà L không nghe nói cũng như không
biết việc cụ C và cụ H2 có chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích
đất mà ông S được thừa kế cho ông D và cũng không có nhận tiền hay vàng gì.
Nên khi ông D khởi kiện yêu cầu ông S, ông H và bà L ký hợp đồng chuyển
5
nhượng quyền sử dụng đất trên cho ông D theo “Tờ sang nhượng đất ruộng”
ngày 20/5/1994 thì ông S, ông H, bà L không đồng ý với lý do: Tờ sang nhượng
đất ruộng ngày 20/5/94 do ông D tự lập, cụ C và cụ H2 không có ký tên vì cụ C
và cụ H2 không biết chữ; tờ sang nhượng đất từ năm 1994 đến năm 2004 qua 10
năm thì trưởng ấp Nguyễn Thành L4 xác nhận ngày 29/7/2004 chữ ký trên là
đúng của các đương sự và Ủy ban nhân dân xã M xác nhận “chữ ký ông Nguyễn
Thành L4 trưởng ấp 6 là đúng” ngày xác nhận là ngày 06/8/2004 do ông Nguyễn
Văn Á xác nhận là không phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật nên ông
S, ông H và bà L không đồng ý. Phần đất này trước đây là của hộ cụ Võ Văn L5
(cha cụ C) sử dụng chung cho gia đình. Vào ngày 20/5/1994, cụ C và cụ H2
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc thực hiện Tờ sang
nhượng đất ruộng ngày 20/5/94 cho ông D, chưa được quyền sở hữu thì không
được chuyển nhượng, việc chuyển nhượng này nếu có cũng là không đúng qui
định pháp luật đất đai.
Vào ngày 14/8/2000, hộ gia đình cụ C được Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh
Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: P330275, trong đó có thửa
đất số 513, tờ bản đồ số 04, diện tích 6.615m
2
toạ lạc xã M, huyện T, tỉnh Bến
Tre, đất cấp cho hộ cụ Võ Văn C. Đến năm 2017, ông S làm thủ tục thừa kế cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Ngày 23/01/2018, ông S
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số: CL 996755, thửa đất 03, tờ bản đồ số 14, diện tích 2.725m
2
(thuộc một
phần thửa đất 513) và thửa 02 tờ bản đồ số 14 có diện tích 1.119,8m
2
cùng toạ
lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông D tự ý liên hệ với địa chính xã M
lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông S cất giữ cho đến nay.
Ông S có yêu cầu địa chính xã giải quyết trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông S nhưng không giải quyết. Từ năm 2018, ông D lấy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông S cho đến nay thì lúc đó ông D biết quyền và
lợi ích của mình bị xâm phạm và phát sinh tranh chấp nhưng không yêu cầu giải
quyết. Đến ngày 08/6/2022, ông D khởi kiện yêu cầu ông S thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho ông theo Tờ sang nhượng đất ruộng
ngày 20/5/1994 là không còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của
Bộ luật Dân sự. Ông S yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú áp dụng quy
định về hết thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết vụ án, căn cứ pháp lý điểm
e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Trong đơn khởi kiện, ông D cho
rằng cụ C và cụ H2 thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay tiền tại
ngân hàng A1 không thực hiện làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
cho ông D là không đúng vì trong năm 2007 có thực hiện chuyển nhượng một
phần đất cho người khác.
Ông D yêu cầu ông S, bà L và ông H thực hiện hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho ông D thì ông S, bà L, ông H không đồng ý, ông D có
6
yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết. Tại Biên bản hòa giải ấp T, xã M,
lúc 13 giờ, ngày 28/6/2021 thành phần tham dự tổ hòa giải có ông Đinh Văn Ớ,
Nguyễn Văn M, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Trường C1, Nguyễn Văn T2 cuối biên
bản phần Đại diện bị đơn ký tên S và ghi Võ Hồng S là không phải chữ ký, viết
của ông S vì từ đó đến giờ ông S không biết chữ các văn bản ông S đều điểm
chỉ. Tại Biên bản hòa giải ấp T, xã M, lúc 13 giờ 30 phút, ngày 07/12/2021
thành phần tham dự tổ hòa giải có ông Đinh Văn Ớ, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn
Trường C1 cuối biên bản phần Đại diện bị đơn ký tên S và ghi Võ Hồng S là
không phải chữ ký, viết của ông S vì từ đó đến giờ ông S không biết chữ các văn
bản ông S đều điểm chỉ.
Tại Biên bản hòa giải tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa ông D và ông S, tại Ủy ban nhân dân xã M, lúc 10 giờ, ngày 08/12/2021
thành phần tham dự tổ hòa giải có bà Trần Thị L6, Trần Hồ B, Trần Thị D1,
Nguyễn Thị L7, Phan Thị Trúc L8, Lê Nhật B1 cuối biên bản phần Bị đơn ký
tên S và ghi Võ Hồng S là không phải chữ ký, viết của ông S vì từ đó đến giờ
ông S không biết chữ các văn bản ông S đều điểm chỉ.
Từ các nội dung nêu trên ông S, ông L7 và ông H yêu cầu Tòa án nhân dân
huyện Thạnh Phú xem xét cho ông S như sau: Không đồng ý đối với các yêu cầu
khởi kiện của ông D; yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú áp dụng thời
hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự, yêu cầu Tòa án áp
dụng quy định về hết thời hiệu khởi kiện để đình chỉ giải quyết vụ án (căn cứ
pháp lý điểm e khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự); tuyên bố vô hiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện bằng Tờ sang nhượng đất
ruộng ngày 20/5/1994; yêu cầu ông D phải trả lại cho ông S diện tích đất
2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b, 3c, 3d, 3f) và một phần
thửa 02 tại các vị trí (2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 21, 2f. 2e) có diện tích là 553,9m
2
cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre; đối với các tài sản trên đất
ông S, bà L7 và ông H đồng ý bồi hoàn giá trị cho ông D; yêu cầu ông D giao trả
cho ông S giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Võ Hồng S, cấp ngày
23/01/2018, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sốc CL 996755, thửa đất 03, tờ bản đồ số 14, diện tích
2.725m
2
(thuộc một phần thửa đất 513 kể trên), đất tọa lạc ấp T, xã M, huyện T,
tỉnh Bến Tre; yêu cầu huỷ 02 biên bản hoà giải tại ấp T, xã M ngày 28/6/2021,
ngày 07/12/2021; yêu cầu huỷ 01 biên bản hoà giải tại Ủy ban nhân dân xã M
ngày 08/12/2021.
Ông S, bà L7 và ông H đồng ý với kết quả đo đạc ngày và kết quả định giá
ngày 04/4/2023.
Tại phiên toà sơ thẩm, người người đại diện theo uỷ quyền ông S, ông H và
bà L7 trình bày: Ông S có tham gia hoà giải nhưng chữ ký “Sa” không phải do
7
ông S ký do ông S không biết viết chữ. Từ trước đến nay gia đình ông S, ông H
và bà L7 vẫn sinh sống tại địa phương; khi gia đình ông D cải tạo đất, làm nhà ở,
làm chuồng trại, trồng cây thì cụ C, cụ H2, ông S, ông H và bà L7 đều biết
nhưng không ngăn cản hay tranh chấp gì, còn nguyên nhân vì sao ông D sử dụng
đất tranh chấp thì gia đình cụ C và cụ H2 không biết; ông S, ông H và bà L7
cũng không biết ông D sử dụng đất từ năm nào. Năm 2018, ông S có tranh chấp
với ông D về việc ông D giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng của ông S nhưng
ông D không trả chứ ông S không có tranh chấp quyền sử dụng đất với ông D;
việc này ông S chỉ nói với ông D chứ không có yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
giải quyết do ông S không biết chữ. Ông S, bà L7 và ông H thừa nhận tất cả các
tài sản trên đất là do ông D và anh T1 xây dựng. Ông S, bà L7 và ông H vẫn giữ
nguyên các yêu cầu tại đơn phản tố ngày 14/8/2023, không tranh chấp hay yêu
cầu gì thêm. Đối với chi phí trưng cầu giám định ông S đề nghị giải quyết theo
quy định.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đã đưa vụ án
ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 01 tháng 02 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú quyết định (tóm tắt):
1. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Văn D đồng ý giao trả cho ông Võ
Hồng S giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 996755 đối với thửa đất 03,
tờ bản đồ số 14 đất tọa lạc ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Võ Hồng S ngày 23/01/2018.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn D, cụ thể:
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Dô với cụ
Võ Văn C, cụ Trần Thị H2 ngày 20/5/1994.
- Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Võ Văn C, cụ Trần
Thị H2 gồm: Ông Võ Hồng S, ông Võ Văn H và bà Võ Thị L phải có nghĩa vụ
tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển quyền sử dụng diện tích 2.496,4m
2
thuộc
một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b, 3c, 3d, 3f) và một phần thửa 02 (tại các vị
trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f. 2e) có diện tích là 553,9m
2
tờ bản đồ số 14 cùng
toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre cho ông Võ Văn D.
Ông Võ Văn D, anh Võ Hữu T1 được trọn quyền sử dụng đất và các tài sản
gắn liền diện tích 2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b, 3c, 3d,
3f) và một phần thửa 02 (tại các vị trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f. 2e) có diện
tích 553,9m
2
tờ bản đồ số 14 cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Ông Võ Văn D được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để đăng ký cấp
quyền sử dụng đất với diện tích 2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí
3, 3b, 3c, 3d, 3f) và một phần thửa 02 (tại các vị trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f.
8
2e) có diện tích 553,9m
2
tờ bản đồ số 14 cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T,
tỉnh Bến Tre theo quy định.
Về độ dài tứ cận, vị trí thửa đất có trích lục họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thửa 02, 03 tờ bản đồ số 14 ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre kèm theo.
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục theo quy
định pháp luật để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự phù hợp
với nội dung quyết định của bản án.
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Võ Hồng S, ông Võ Văn H và bà Võ
Thị L, cụ thể:
- Yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của Bộ
luật Dân sự, yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về hết thời hiệu khởi kiện để đình
chỉ giải quyết vụ án.
- Tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện
bằng Tờ sang nhượng đất ruộng ngày 20/5/1994.
- Yêu cầu ông Võ Văn D phải trả lại cho ông Võ Hồng S diện tích đất
2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b, 3c, 3d, 3f) và một phần
thửa 02 tại các vị trí (2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 21, 2f. 2e) có diện tích là 553,9m
2
cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre. Đối với các tài sản trên đất,
ông H, ông S và bà L đồng ý bồi hoàn giá trị cho ông D.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, lãi chậm trả và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Ngày 06/02/2024, ông S, ông H và bà L là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan cùng kháng cáo bản án sơ thẩm. Nội dung kháng cáo của ông S, ông H
và bà L là yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án theo hướng không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông D; chấp nhận yêu cầu của ông S, ông H và bà L.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của những người
kháng cáo (ông S, ông H và bà L) yêu cầu hủy bản án sơ thẩm vì do thiếu người
tham gia tố tụng. Bị đơn cũng đưa ra ý kiến thỏa thuận là nếu nguyên đơn giao
cho bị đơn số tiền 70.000.000 đồng là giá trị của đất chênh lệch so với trước đây
thì bị đơn sẽ rút kháng cáo. Nguyên đơn không đồng ý với nội dung thỏa thuận
cũng như nội dung kháng cáo của ông S, ông H và bà L và yêu cầu giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy
định của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
9
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Võ
Hồng S, ông Võ Văn H và bà Võ Thị L, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
11/2024/DS-ST ngày 01 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh
Phú, tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
công khai tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của
Kiểm sát viên; xét kháng cáo của ông Võ Hồng S, ông Võ Văn H, bà Võ Thị L;
Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Bị đơn ông Võ Hồng S, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ
Văn H, bà Võ Thị L kháng cáo thực hiện các thủ tục kháng cáo, kháng nghị hợp
lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
- Trước khi phiên tòa phúc thẩm được mở lại, bà Võ Thị L có đơn yêu cầu
Tòa án trưng cầu giám định với nội dung bà L cho rằng bà không ký tên vào văn
bản nêu ý kiến ngày 19/10/2022 trong hồ sơ vụ án do ông S nộp cho Tòa án
nhân dân huyện Thạnh Phú. Yêu cầu này được thực hiện sau khi Tòa án ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy không
cần thiết nên căn cứ Điều 102 của Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận yêu
cầu của bà L.
[2] Về nội dung: Các đương sự đều thừa nhận phần đất tranh chấp có diện
tích qua đo đạc thực tế là 2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b,
3c, 3d, 3f) và một phần thửa 02 (tại các vị trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f. 2e) có
diện tích 553,9m
2
cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Nguyên đơn Võ Văn D khởi kiện và cho rằng: vào năm 1994, cụ C và cụ
H2 đã chuyển nhượng diện tích đất trên cho ông với giá là 24 chỉ vàng 24K, việc
chuyển nhượng có lập giấy tay là “Tờ sang nhượng đất ruộng” ngày 20/5/1994,
cụ C và cụ H2 đã giao đất cho ông D sử dụng từ năm 1994 đến nay. Ông D sử
dụng đất ổn định gần 30 năm, đã làm nhà ở, cất chuồng trại, cải tạo đất rất nhiều
lần nên yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông D với cụ C, cụ H2 ngày 20/5/1994, buộc những người thừa kế của cụ C
và cụ H2 là ông S, ông H và bà L phải có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để ông D được quyền sử dụng diện tích đất
trên.
Bị đơn ông Võ Hồng S, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn
H và bà Võ Thị L không đồng ý và cho rằng: Từ trước đến nay không nghe nói
10
cũng như không biết việc cụ C và cụ H2 có chuyển nhượng quyền sử dụng đất
đối với diện tích đất tranh chấp cho ông D nên phát sinh tranh chấp.
[3] Xét kháng cáo của ông S, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông H
và bà L, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Về đăng ký kê khai và cấp quyền sử dụng đất:
Năm 2000, hộ cụ Võ Văn C được Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Bến Tre
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 10.890m
2
thuộc các thửa
498, 499, 513 tờ bản đồ số 04 toạ lạc ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Năm 2008 cụ C chết, năm 2009 cụ H2 chết. Ngày 07/3/2017, ngày
17/9/2019 các con của cụ C và cụ H2 lập văn bản thoả thuận thoả thuận phân
chia tài sản thừa kế thửa 513 cho ông S. Ngày 23/01/2018, ông S được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 03 tờ bản đồ số 14 có diện tích 2.725m
2
;
ngày 20/11/2019 ông S được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 02 tờ
bản đồ số 14 có diện tích 1.119,8m
2
đều toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh
Bến Tre; loại đất trồng lúa.
[3.2] Về quá trình sử dụng đất: Nguyên đơn cho rằng, đã sử dụng đất tranh
chấp từ năm 1994 đến nay đã gần 30 năm, nhiều lần cải tạo, xây dựng nhà ở,
làm chuồng trại, trồng cây lâu năm trên đất nhưng cụ C, cụ H2, ông H, bà L và
ông S không tranh chấp. Ông H, bà L và ông S cho rằng: không biết ông D sử
dụng đất tranh chấp năm nào, vì sao ông D sử dụng đất thì ông H, bà L và ông S
cũng không biết, khi ông D và anh T1 xây dựng nhà ở, làm chuồng trại, trồng
cây trên đất thì cụ C, cụ H2, ông H, bà L và ông S đều biết nhưng không tranh
chấp.
[3.3] Ông D cho rằng, năm 1994 cụ C và cụ H2 đã chuyển nhượng đất cho
ông D, chứng cứ là “Tờ sang nhượng đất ruộng” ngày 20/5/1994. Ông S, bà L
và ông H không thừa nhận chữ ký, chữ viết của cụ C và cụ H2 dưới mục “Người
sang nhượng” tại “Tờ sang nhượng đất ruộng” do cụ C, cụ H2 không biết chữ
nên ông S, bà L và ông H có yêu cầu giám định chữ viết của cụ C, cụ H2.
Theo Kết luận giám định số 757/2023/KL-KTHS ngày 16/10/2023 của
Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận không đủ cơ sở kết luận chữ ký dạng chữ viết
dưới mục “Người sang nhượng” với chữ ký của cụ C, cụ H2 tại “Tờ khai chứng
minh nhân dân” ngày 10/5/1979 là không phải do một người viết, ký ra.
Xét thấy “Tờ sang nhượng đất ruộng” ngày 20/5/1994, xác nhận của Ủy
ban nhân dân xã M vào ngày 06/8/2004, vào thời điểm chuyển nhượng thì cụ C
và cụ H2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ quy định tại Điều 707,
708 của Bộ luật Dân sự năm 1995.
[3.4] Tại “Văn bản nêu ý kiến” ngày 19/10/2022 ông S, ông H và bà L thừa
nhận “...Năm 1994, cha tôi là ông Võ Văn C, lúc còn sống cha tôi có sang
11
nhượng cho ông Võ Văn D. Khi cha tôi sang nhượng cho ông D chị em tôi
không hay biết. Năm 2007, cha tôi có kêu ông D cắt tách chuyển quyền sử dụng
cho ông D, ông D không chịu, bỏ qua không tách...”.
Tại các biên bản xác minh đối với ông Đinh Văn Ớ, ông Nguyễn Văn D2,
anh Nguyễn Tường T3 xác nhận “...chúng tôi biết ông C, bà H2 có bán đất cho
ông D rất lâu, ông D đã lên liếp và cất nhà kiên cố, khi đó gia đình ông S không
ai tranh chấp hay khiếu nại gì, từ đó đến nay gia đình ông S vẫn sinh sống tại địa
phương đều biết rõ. Do đó, việc gia đình ông S cho rằng không biết ông C, bà
H2 bán đất cho ông S là không đúng...”
Ông Nguyễn Thành L4 (Trưởng ấp T, xã M) xác nhận “...vào ngày
24/7/2004 ông D và ông C có cầm “Tờ sang nhượng đất ruộng” đến nhà tôi yêu
cầu tôi ký xác nhận là ông C có bán đất cho ông D nên tôi ký xác nhận. Thời
điểm đó ông D đã lên liếp rồi, cất nhà rồi, ông C cũng thừa nhận nên tôi mới ký
tên, lúc ông C, ông D đưa cho tôi giấy mua bán thì ông D, bà H2 đã ký tên xong.
Trước khi ông C bán đất cho ông D thì đất đó là đất ruộng, ông D đã lên liếp
trồng dừa, cất nhà kiên cố nhưng gia đình ông S không ai tranh chấp hay ngăn
cản gì. Từ đó đến nay gia đình ông S vẫn sinh sống tại địa phương nhưng ai
tranh chấp hay khiếu nại gì...” và ông Lê Văn E xác nhận “...tôi có viết giấy tay
giấy sang nhượng đất có nội dung ông C, bà H2 chuyển nhượng cho ông D 03
công đất ruộng với số vàng là 08 chỉ 01 công đất. Sau khi viết xong thì ông C,
bà H2 ký tên vào, lúc đó các con của ông C, bà H2 là ông H, bà L và ông S
chứng kiến trực tiếp nhưng không ai có ý kiến gì. Ông C có nói là nhận đủ vàng
rồi nên tôi có ghi rõ là giao nhận vàng xong. Sau khi ký tên xong thì tôi cùng với
ông C, ông H và ông D tiến hành đo đất để giao cho ông D. Sau đó ông D nhiều
lần san lắp và cất nhà ở thì gia đình ông C không có ý kiến gì, hiện tại bà con
khu vực này ai cũng biết ông C, ông H2 bán đất cho ông D. Việc ông H, bà L và
ông S cho rằng không biết ông C, bà H2 bán đất cho ông D là không đúng. Khi
ông D cải tạo đất và nhiều lần làm nhà ở thì họ cũng không tranh chấp...”.
Do đó, có căn cứ khẳng định ông cụ C, bà H2 có chuyển nhượng đất cho
ông D. Kể từ khi chuyển nhượng đến nay thì gia đình cụ C không quản lý, sử
dụng đất.
[3.5] Như vậy, dù “Tờ sang nhượng đất ruộng” ngày 20/5/1994 có vi phạm
về hình thức nhưng ông D đã giao đủ 24 chỉ vàng 24K cho cụ C và cụ H2; ông
D đã nhận đất sử dụng từ năm 1994 đến nay, xây dựng nhà kiên cố, trồng cây
trên đất nên Tòa án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để
công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với cụ C, cụ
H2 vào ngày 20/5/1994 và buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ
C, cụ H2 gồm: ông S, ông H và bà L phải có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều
129 của Bộ luật Dân sự.
12
[4] Xét các yêu cầu của ông S, ông H và bà L:
[4.1] Về yêu cầu áp dụng thời hiệu: Trong quá trình giải quyết vụ án ông
S, bà L và ông H cho rằng: Từ trước đến nay không nghe nói cũng không biết
việc ông C và bà H2 có chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất
tranh chấp, năm 2018 ông D lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S
cất giữ cho đến ngày 08/6/2022 ông D khởi kiện yêu cầu ông S thực hiện hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho ông theo Tờ sang nhượng đất
ruộng ngày 20/5/1994 là không còn thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, ông S, ông
H và bà L đã thừa nhận là cụ C có chuyển nhượng đất cho ông D. Vì vậy, việc
ông S, ông H và bà L cho rằng thời hiệu khởi kiện đã hết là không có cơ sở nên
không được Tòa án sơ thẩm chấp nhận là phù hợp.
[4.2] Xét yêu cầu của ông S, bà L và ông H về việc yêu cầu: huỷ 02 biên
bản hoà giải tại ấp T, xã M ngày 28/6/2021, ngày 07/12/2021. Và 01 biên bản
hoà giải tại Ủy ban nhân dân xã M ngày 08/12/2021 là không thuộc thẩm quyền
giải quyết của Toà án nên Toà án sơ thẩm không xem xét giải quyết là phù hợp.
Tuy nhiên, khi xem xét giải quyết nếu nhận thấy yêu cầu của đương sự không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì cần phải đình chỉ giải quyết đối với
yêu cầu này. Hội đồng xét xử phúc thẩm bổ sung nội dung này, cấp sơ thẩm cần
rút kinh nghiệm.
[4.3] Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn cho
rằng cụ C, cụ H2 ngoài ông S, bà L và ông H còn có hai người con khác: Võ Thị
A (đã chết) và Võ Văn H3. Lời trình bày này mâu thuẫn với lời khai của ông S,
bà L và ông H khi tham gia giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm cũng như mâu
thuẫn với ý kiến của chính các đương sự khi lập văn bản thoả thuận phân chia tài
sản thừa kế của cụ C và cụ H2 để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông S. Toà án đã yêu cầu các đương sự cung cấp ý kiến của ông S,
bà L và ông H về việc xác định ông H3, bà A là anh chị em ruột nhưng không
cung cấp được. Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của
nguyên đơn cũng đưa ra tài liệu xác nhận ông H3 không phải là con của cụ C, cụ
H2. Mặt khác, việc giải quyết liên quan đến đất cụ C, cụ H2 đã thực hiện chuyển
nhượng và nguyên đơn đã quản lý sử dụng; đất hiện do ông S đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nên nếu có thiếu cũng không thay đổi bản chất
vụ án.
Trong trường hợp nếu ông H3 có tranh chấp thừa kế với ông S, bà L và ông
H đối với diện tích đất khác ngoài diện tích đất nguyên đơn khởi kiện mà ông
H3 cho rằng do cụ C, cụ H2 chết để lại (nếu có) và có tài liệu chứng minh được
quyền khởi kiện (là con của cụ C, cụ H2) thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết
bằng vụ kiện khác.
13
[4.4] Đối với ý kiến của người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn tại phiên
tòa phúc thẩm là để hai bên cùng tự thỏa thuận kết thúc việc giải quyết tranh
chấp thỏa thuận thì nguyên đơn giao cho bị đơn số tiền 70.000.000 đồng do
chuyển nhượng đất ruộng và hiện trạng hiện nay là đất ở và có diện tích lớn hơn.
Tuy nhiên, các thửa 02, 03 hiện mục đích sử dụng đất trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đều ghi là đất lúa và nguyên đơn không đồng ý nên không có
cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4.5] Từ những nhận định trên xét thấy cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn nên không chấp nhận đối với yêu cầu của ông S, ông H và
bà L về việc tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện bằng
Tờ sang nhượng đất ruộng ngày 20/5/1994 là vô hiệu và buộc ông D trả lại đất là
có căn cứ.
[5] Ông S, ông H, bà L kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử
không chấp nhận kháng cáo.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
ông S, ông H, bà L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Tuy nhiên, ông H là người cao tuổi và có đơn xin miễn nên được miễn nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Hồng S, ông Võ Văn H, bà Võ
Thị L.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2024/DS-ST ngày 01 tháng 02
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ Điều 26, 35, 39, 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 705, 707,
708 Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 129, 149, 157, 429, 668 Bộ luật Dân sự
năm 2015; Điều 3 Luật đất đai năm 1993; Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa
án. Tuyên xử:
1. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Võ Văn D đồng ý giao trả cho ông Võ
Hồng S giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CL 996755 đối với thửa đất 03,
14
tờ bản đồ số 14 đất tọa lạc ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B cấp cho ông Võ Hồng S ngày 23/01/2018.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn D, cụ thể:
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Dô với cụ
Võ Văn C, cụ Trần Thị H2 ngày 20/5/1994.
- Buộc những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Võ Văn C, cụ Trần
Thị H2 gồm: Ông Võ Hồng S, ông Võ Văn H và bà Võ Thị L phải có nghĩa vụ
tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển quyền sử dụng diện tích 2.496,4m
2
thuộc
một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b, 3c, 3d, 3f) và một phần thửa 02 (tại các vị
trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f. 2e) có diện tích là 553,9m
2
tờ bản đồ số 14 cùng
toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre cho ông Võ Văn D.
Ông Võ Văn D, anh Võ Hữu T1 được trọn quyền sử dụng đất và các tài sản
gắn liền diện tích 2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b, 3c, 3d,
3f) và một phần thửa 02 (tại các vị trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f. 2e) có diện
tích 553,9m
2
tờ bản đồ số 14 cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Ông Võ Văn D được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để đăng ký cấp
quyền sử dụng đất với diện tích 2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí
3, 3b, 3c, 3d, 3f) và một phần thửa 02 (tại các vị trí 2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 2i, 2f.
2e) có diện tích 553,9m
2
tờ bản đồ số 14 cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T,
tỉnh Bến Tre theo quy định.
Về độ dài tứ cận, vị trí thửa đất có trích lục họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thửa 02, 03 tờ bản đồ số 14 ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre kèm theo.
Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các thủ tục theo quy
định pháp luật để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự phù hợp
với nội dung quyết định của bản án.
3. Không chấp nhận yêu cầu của ông Võ Hồng S, ông Võ Văn H và bà Võ
Thị L, cụ thể:
- Yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của Bộ
luật Dân sự, yêu cầu Tòa án áp dụng quy định về hết thời hiệu khởi kiện để đình
chỉ giải quyết vụ án.
- Tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thể hiện
bằng Tờ sang nhượng đất ruộng ngày 20/5/1994.
- Yêu cầu ông Võ Văn D phải trả lại cho ông Võ Hồng S diện tích đất
2.496,4m
2
thuộc một phần thửa 03 (tại các vị trí 3, 3b, 3c, 3d, 3f) và một phần
thửa 02 tại các vị trí (2h, 2g, 2b, 2d, 2c, 2k. 21, 2f. 2e) có diện tích là 553,9m
2
cùng toạ lạc tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre. Đối với các tài sản trên đất,
ông H, ông S và bà L đồng ý bồi hoàn giá trị cho ông D.
15
4. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của ông S, bà L và ông H về việc yêu
cầu Tòa án giải quyết: huỷ 02 biên bản hoà giải tại ấp T, xã M, huyện T, tỉnh
Bến Tre vào ngày 28/6/2021 và ngày 07/12/2021; biên bản hoà giải tại Ủy ban
nhân dân xã M, huyện T, tỉnh Bến Tre vào ngày 08/12/2021.
5. Về chi phí tố tụng:
- Ông Võ Hồng S, bà Võ Thị L và ông Võ Văn H phải có nghĩa vụ liên đới
giao trả cho ông D số tiền là 15.939.000 đồng (Mười lăm triệu chín trăm ba
mươi chín nghìn đồng).
- Ông Võ Hồng S, bà Võ Thị L và ông Võ Văn H phải có nghĩa vụ liên đới
nộp chi phí trưng cầu giám định là 2.400.000 đồng (Hai triệu bốn trăm nghìn
đồng) và đã nộp xong.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
6. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Võ Văn D và ông Võ Văn H là người cao tuổi nên nên được miễn
nộp án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016.
- Ông Võ Văn D được Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú hoàn
trả số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007483 ngày
11/10/2022 và số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006945 ngày
17/7/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú.
- Ông Võ Hồng S và bà Võ Thị L phải liên đới nộp án phí là 52.402.600
đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 12.890.500 đồng theo
biên lai thu số 0006986 ngày 14/8/2023 và số tiền 12.890.500 theo biên lai thu
số 0006985 ngày 14/8/2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú.
Số tiền còn lại ông S và bà L phải liên đới nộp là 26.621.600 đồng.
7. Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Võ Văn H là được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
- Ông Võ Hồng S, bà Võ Thị L mỗi người phải chịu 300.000đ (ba trăm
nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mỗi người đã nộp
là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003625
và 0003624 ngày 19/02/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú,
tỉnh Bến Tre. Ông S, bà L đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
16
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án,
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Thạnh Phú;
- Chi cục THADS huyện Thạnh Phú;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thế Hồng
Tải về
Bản án số 364/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 364/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm