Bản án số 566/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 566/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 566/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tiền Giang
Số hiệu: 566/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông H và bà B yêu cầu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 566/2024/DS-PT
Ngày: 25-11-2024
V/v tranh chấp: Hp đng chuyn
nợng quyn sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Hoàng Khải.
Các Thẩm phán: Ông Lê Thanh Vân.
Ông Trương Vĩnh Hữu.
- Thư phiên tòa: Ông i Công Danh - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Bà Hà Ngọc Thư Trúc - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 19 và 25 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang xét xử phúc thẩm ng khai vụ án thụ số: 414/2024/TLPT-DS
ngày 02 tháng 10 m 2024 về việc tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự thẩm số 226/2024/DS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 485/2024/QĐ-PT ngày
10 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1942;
2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1943 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo y quyền của Huỳnh Thị B: Nguyễn Thị H1,
sinh năm 1976 (theo văn bản ủy quyền ngày 23/3/2021) (có mặt);
Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các nguyên đơn: Luật Trần
Thị Kim P, Văn phòng L1 Chi nhánh G, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh T (có mặt);
Địa chỉ: Số A N, Khu phố B, Phường B, thành phố G, tỉnh Tiền Giang.
- Bị đơn:
2
1. Ông Võ Thanh T, sinh năm 1964 (có mặt);
2. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1966;
Người đại diện theo ủy quyền của Nguyễn Thị H2: Ông Thanh T,
sinh năm 1964 (theo văn bản ủy quyền ngày 05/11/2024) (có mặt);
Cùng địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Huỳnh Tấn Q, sinh năm 1992 (vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
2. Ngân hàng N Chi nhánh huyện G;
Người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Thị Kim L Giám đốc (xin
vắng mặt);
Địa chỉ: Khu phố E, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
3. Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang;
Ni đi din theo pháp lut: Ông Hunh Thanh B1 Chtch (xin vng mt);
Địa chỉ: Khu phố D, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Bị đơn ông Võ Thanh T, bà Nguyễn Thị H2.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện G,
tỉnh Tiền Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm;
Nguyên đơn bà Huỳnh Thị B và ông Nguyễn Văn H trình bày:
Vợ chồng ông đứng tên thửa đất số 153, tờ bản đồ số 1, diện tích
1.144m
2
loại đất cây lâu năm theo giấy chứng nhận số 00021 ngày 07/4/1997
do Huỳnh Thị B đứng tên tại ấp H, L, huyện G. Thanh T cháu
con gọi ông bà là cô dượng. Do ông bà không có con trai và Võ Thanh T ấp B,
xã V đi lại khó khăn nên có xin vợ chồng ông bà cho T cất nhà ở tạm hết đời của
T trên diện tích khoảng 615,3m
2
vào năm 2000.
Thời gian trôi qua ông cũng không để ý việc cho T nhờ trên đất lời
hứa cho hết đời. Tuy nhiên, khoảng thời gian gần đây ông nhờ địa chính
đến đo lại đất đai thì T vừa sử dụng lấn chiếm đất ngoài diện tích ông cho
nhờ lại vừa hô hào đã được cấp sổ đỏ. Ông bà rất bất ngờ vì sao T lại được đứng
tên? Ai người hợp đồng chuyển nhượng cho T? Địa chính đo đạc khi nào,
ai là người chỉ ranh? Giao nhận tiền khi nào?
Tại buổi hòa giải của ấp H ngày 29/8/2020 có mặt bà Huỳnh Thị B, con gái
Nguyễn Thị H1 cùng ông T ban hòa giải thì ông T thừa nhận không biết rõ vì
sao ông được đứng tên đất, chỉ biết lúc đó đưa tờ giấy bán ruộng cho ông Đặng
Hồng T1 rồi tự ông T1 làm giùm bộ hồ sơ, chứ ông không biết ai ký. Ông
thấy ông T H2 được cấp giấy đỏ số H00758 ngày 16/1/2008 diện tích
3
615,3m
2
thửa 2055 tờ bản đồ số 1 loại đất thổ quả tọa lạc tại ấp H, L, huyện
G. Việc cấp giấy này cho ông T hoàn toàn trái pháp luật, ông không bán
đất cho ông T ng không nhận tiền của ông T. Nay ông bà yêu cầu:
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số H00758 ngày 16/01/2008
diện tích 615,3m
2
thửa 2055 tbản đồ số 1 loại đất thổ quả tọa lạc tại ấp H,
L, huyện G cấp cho ông Võ Thanh T với bà Nguyễn Thị H2.
- Hủy Tờ giấy tay bán ruộng đề ngày 12/10/1987 chữ tên B dấu
lăn tay vì giả mạo.
- Yêu cầu ông Thanh T với Nguyễn Thị H2 trả lại cho ông diện
tích đất 615,3m
2
thửa 2055 tờ bản đồ số 1 loại đất thổ quả tọa lạc tại ấp H, xã L,
huyện G.
- Ông bà đồng ý thanh toán lại cho ông T, bà H2 giá trị căn nhà bằng tiền.
- Thực hiện ngay khi án có hiệu lực.
Bị đơn ông Võ Thanh T và bà Nguyễn Thị H2 trình bày:
Vào năm 1987 ông B thỏa thuận sang nhượng quyền sử dụng
đất 690m
2
tọa lạc tại ấp H, L với số tiền 16.000.000 đồng, người cùng
xóm viết giấy tay B đã tên lăn tay. Từ m 1987 đến năm 2010 không
làm giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất được do vì B nói sổ đỏ không
nhà. Mãi đến năm 2011 B mới đưa sổ đỏ cho ông Đặng Hồng T1 sang
quyền sử dụng đất ông mới ng sang nhượng quyền sdụng đất. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông BE025335 thửa đất số 46, tờ bản
đồ số 7, diện tích 688,4m
2
, địa chỉ ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng N trình bày:
Ngân hàng và ông Thanh T Hợp đồng tín dụng số 1712HMND4856
(6905-LAV-201705497) ngày 04/7/2017 vay số tiền 80.000.000 đồng, còn
nợ 16.000.000 đồng. Thời han vay 60 tháng từ ngày 04/7/2017 đến hạn vào ngày
20/6/2022 phân ktrả nợ gốc 12 tháng 1 lần. Lãi suất vay 10%/năm, mức lãi
suất cho vay thỏa thuận thay đổi theo thông báo điều chỉnh lãi suất cho vay của
Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển nông thôn tỉnh N
phù hợp với quy định của Thống đốc Ngân hàng N1 từng thời kỳ không cần
thỏa thuận lại giữa hai bên. Mục đích vay là chăn nuôi bò nái. Ngân hàng có giữ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Thanh T Nguyễn
Thị Hồng S phát hành BE025335, s vào sổ CH04856 do Ủy ban nhân dân
huyện G cấp ngày 20/7/2011, thửa đất số 46, tờ bản đồ số 7, loại đất tại nông
thôn và trồng cây lâu năm diện tích 688,4m
2
. Ngân hàng không tham gia tố tụng
không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Tấn Q trình bày:
Ông đang mướn đất của Năm H3 để mtiệm sửa xe mướn vào năm 2016,
chỉ mướn bằng miệng và dài hạn, mỗi năm là 2.000.000 đồng. Sau này có lấy lại
đất không bồi thường cũng được. Trong vụ án này ông không ý kiến yêu cầu gì.
Nếu phần đất này có giao cho B, ông H thì giữa ông và bà B thỏa thuận riêng.
4
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh
Tiền Giang trình bày:
Ủy ban nhân dân huyện G đại diện ông Huỳnh Thanh B1 xin vắng mặt
tại Tòa án trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Huỳnh Thị B
Nguyễn Thị H1 thay đổi yêu cầu khởi kiện là yêu cầu hủy Tờ giấy tay bán ruộng
đề ngày 12/10/1987; yêu cầu ông T H3 trả lại giá trị của Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/12/2007 số tiền 30.000.000 đồng yêu cầu
tính lãi từ ngày 18/12/2007 đến ngày Tòa xét xử là ngày 07/6/2024 với thời gian
13 năm 6 tháng 12 ngày làm tròn 13 năm 6 tháng với lãi suất 0,83%/tháng,
thành tiền 40.338.000 đồng, tổng cộng 70.338.000 đồng; thực hiện khi bản
án có hiệu lực pháp luật; ông Võ Thanh T và bà Nguyễn Thị H2 tiếp tục quản lý,
sử dụng thửa số 2055 (thửa mới 46), tờ bản đồ số 01 (tờ mới 7), diện tích
615,3m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số CH04856 ngày 20/7/2011 diện tích 688,4m
2
, đo đạc
thực tế diện tích là 594,7m
2
đất tọa lạc tại ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Bị đơn ông Thanh T thống nhất với yêu cầu thay đổi yêu cầu khởi kiện
của H1. Ông T đồng ý hủy Tờ giấy tay bán ruộng đề ngày 12/10/1987
đồng ý trả cho ông H, bà B số tiền 70.338.000 đồng.
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn H, bị đơn Nguyễn Thị H2, người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Tấn Q, Ủy ban nhân dân huyện G, tỉnh
Tiền Giang đại diện ông Huỳnh Thanh B1, Ngân hàng N Chi nhánh huyện
G đại diện là bà Nguyễn Thị Kim L xin vắng mặt.
Bản án dân sự sơ thẩm số 226/2024/DS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2024 của
Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ các điều 175, 177, 228,
235, 244, 246 Bluật Tố tụng dân sự; các điều 166, 500, 501, 502, 503 Bộ luật
Dân sự năm 2015; Điều 2 Luật Người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản
4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội.
Xử:
1/ Chấp nhận thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị B.
Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị H1 và ông Võ Thanh T.
Hủy Tờ giấy tay bán ruộng đề ngày 12/10/1987 giữa bà Huỳnh Thị B với
ông Võ Thanh T và Nguyễn Thị H2.
Buộc ông Thanh T Nguyễn Thị H2 trách nhiệm trả cho
Huỳnh Thị B ông Nguyễn Văn H số tiền 30.000.000 đồng tiền lãi
40.338.000 đồng, tổng cộng 70.338.000 đồng (bảy mươi triệu ba trăm ba
mươi tám nghìn đồng), khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2/ Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về
việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00758 ngày
5
16/01/2008 diện tích 615,3m
2
thửa 2055 tờ bản đồ số 1 loại đất thổ quả tọa lạc
tại ấp H, L, huyện G cấp cho ông Thanh T với Nguyễn Thị H2. Yêu
cầu ông Võ Thanh T với bà Nguyễn Thị H2 trả lại cho ông diện tích đất 615,3m
2
thửa 2055 tờ bản đồ số 1 loại đất thổ quả tọa lạc tại ấp H, xã L, huyện G.
Ông Thanh T bà Nguyễn Thị H2 tiếp tục quản lý, sử dụng thửa số
2055 (thửa mới 46), tờ bản đồ số 01 (tờ mới 7), diện tích 688,4m
2
, đo đạc thực tế
diện tích là 594,7m
2
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số CH04856 ngày 20/7/2011 do ông Võ Thanh T và
Nguyễn Thị H2 đứng tên, đất tọa lạc tại ấp H, L, huyện G, tỉnh Tiền
Giang, đất có vị trí:
- Đông giáp đất bà Huỳnh Thị B
- Tây giáp kênh cặp đường tỉnh 872
- Nam giáp đất ông Đặng Hồng T1
- Bắc giáp đất bà Huỳnh Thị B
(có sơ đồ kèm theo)
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án, quyn kháng
cáo, quyền nga vụ thi nh án của c đương sự theo quy định pháp luật.
Ngày 17/6/2024, bị đơn ông Thanh T, Nguyễn Thị H2 đơn kháng
cáo toàn bộ bản án thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết lại
toàn bộ bản án theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ngày 21/6/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Tiền
Giang ban hành Quyết định số 02/QĐ-VKS-DS kháng nghị toàn bộ bản án
thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên kháng nghị, các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn Huỳnh Thị B phát
biểu tranh luận cho rằng giấy viết tay bán đất do ông T cung cấp nói chữ ký chữ
viết của B là không có cơ sở vì theo bản kết luận của Phòng K - Công an tỉnh
T ghi không đsở kết luận chữ , chữ viết htên Nguyễn Thị B2 trên tài
liệu cần giám định có phải do cùng một người ký viết ra hay không. Ông T cũng
không chứng minh giao cho bà B2 nhận 1.600.000 đồng. Về Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H B2 với ông T bà H2 sự
nhầm lẫn lúc đó B2 chỉ chuyển nhượng cho ông T1 ký luôn cho ông
T nhưng không có nhận tiền theo hợp đồng. Tuy nhiên, Hợp đồng có chữ ký của
ông H theo kết luận giám định nên H1 đại diện cho B2 thay đổi yêu cầu
khởi kiện, đòi ông T H2 trả 30.000.000 đồng tiền chuyển nhượng đất tại thời
điểm hợp đồng tính lãi tđó cho đến nay bằng lãi suất 0,83%/tháng
lợi cho ông T H2. vậy đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của ông T bà H2, giữ y án sơ thẩm.
6
Đại diện Vin kiểm t ti phiên tòa pt biểu ý kiến v vic tn theo pp luật
t tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
Tòa án và những người tham gia tố tng từ khi thụ lý v án cho đến tớc thời điểm
Hội đồng xét xử nghán đã tuân thđúng c quy định của Bộ luật T tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án, Kiểm sát viên phát biểu: Theo Quyết định
kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện G, nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu: Hủy giấy tay bán ruộng của bà B2 ngày 12/10/1987. Hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số H00758 ngày 16/01/2008 do Ủy ban nhân dân
huyện G cấp cho ông T bà H2. Buộc ông T, bà H2 trả lại bà B2, ông H 615,3m
2
đất cho nhờ. Tại phiên tòa thẩm, người đại diện theo ủy quyền của B2
thay đổi yêu cầu khởi kiện, cụ thể yêu cầu ông T, H2 trả 30.000.000 đồng
tiền sang nhượng đất theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày
18/12/2007 giữa bà B2, ông H với ông T, H2 40.338.000 đồng tiền lãi từ
ngày ký hợp đồng đến ngày xét xử.
Ông T chấp nhận thay đổi yêu cầu khởi kiện của người đại diện cho B2
tại phiên tòa.
Tòa thẩm xử: Chấp nhận thay đổi yêu cầu khởi kiện của người đại diện
cho B2. Ghi nhận sự tự nguyện của ông T. Buộc ông T, H2 nghĩa vụ
liên đới trả cho bà B2, ông H 70.338.000 đồng tiền chuyển nhượng đất lãi.
Bản án xử buộc ông T, H2 nghĩa vụ liên đới trả cho nguyên đơn
70.338.000 đồng không căn cứ H2 vắng mặt tại phiên tòa không
thỏa thuận trả số tiền trên. vậy Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện G
quyết định kháng nghị phúc thẩm. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm theo hướng sửa án sơ thẩm.
Kiểm sát viên cho rằng Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân huyện G là có sở vì tại Tòa sơ thẩm H2 vắng mặt và không có
ủy quyền cho ông T đại diện nhưng ghi nhận sự thỏa thuận giữaH1 với ông T
để buộc H2 nghĩa vụ cùng ông T trả cho B2 ông H 70.338.000 đồng.
Tuy nhiên, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa B2 ông H
với ông T H2 được Ủy ban nhân dân xã L ngày 18/12/2007 đã được chứng
minh hợp lệ. Giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng 30.000.000 đồng
nhưng ông T H2 không chứng minh được đã trả tiền chuyển nhượng đất của
năm 1987 năm 2007 cho B2 ông H. Tại phiên tòa phúc thẩm ông T cũng
thừa nhận không có trả tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hợp đồng ký
năm 2007 cho bà B2 ông H.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng
dân sự. Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
G. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông T H2. Sửa một phần quyết
định án sơ thẩm.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của B2 do bà H1 đại diện. Buộc
ông T bà H2 trả cho bà B2 ông H 70.338.000 đồng như án sơ thẩm xử. Các phần
khác của án sơ thẩm được giữ nguyên.
7
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được thẩm tra. Căn
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, nghe các đương strình bày ý kiến
yêu cầu giải quyết tranh chấp, lời bào chữa của Luật sư bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp cho đương sự phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện
Viện kiểm sát. Xét thấy:
[1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại quyền sử dụng đất cho
nhờ, nhưng tại Tòa thẩm người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
Huỳnh Thị BNguyễn Thị H1 thay đổi yêu cầu khởi kiện từ đòi đất cho ở nhờ
thành hủy giấy viết tay bán ruộng đòi bị đơn trả lại giá trị Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/12/2007 nên Tòa thẩm xác định quan hệ
pháp luật về tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đúng
với tính chất của vụ án. Tranh chấp này thuộc thẩm quyền và phạm vi giải quyết
theo quy định tại khoản 3 khoản 9 Điều 26, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân
sự; Điều 170, 248, 256, 428 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 500, 501, 502,
503 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 3, 31, 73 Luật Đất đai năm 1993.
[2] Về quyền kháng cáo: Bị đơn Thanh T Nguyễn Thị H2 thực hiện
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định theo Điều 271, 272, 273 và 276
của Bộ luật Tố tụng dân sự nên chấp nhận xét xử phúc thẩm.
Nguyên đơn Huỳnh Thị B ủy quyền cho Nguyễn Thị H1 làm đại diện. Bị
đơn Nguyễn Thị H2 y quyền cho Thanh T đại diện tham gia tố tụng. Việc
ủy quyền được thực hiện theo Điều 85, 86 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông
Nguyễn Văn H Huỳnh Tấn Q được triệu tập hợp lệ lần thhai vắng mặt
không do. Đại diện Ngân hàng đại diện Ủy ban nhân dân huyện G đơn
xin vắng mặt nên căn cứ vào khoản 2 khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân
sự xử vắng mặt theo luật định.
[3] Về nội dung tranh chấp và yêu cầu giải quyết: Nguyên đơn Huỳnh Thị
B Nguyễn Văn H trình bày: Vào năm 2000, ông bà có cho cháu tên Võ Thanh
T mượn phần đất cất nhà nhờ diện tích 615,3m
2
thuộc một phần của thửa 153,
tờ bản đồ số 1, diện tích 1.144m
2
do Ủy ban nhân dân huyện G cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 00021 ngày 07/4/1997 cho bà Huỳnh Thị B đứng tên
tại ấp H, L, huyện G, tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên, gần đây ông nhờ địa
chính đo đạc lại đất thì phát hiện T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số H00758 ngày 16/01/2008 diện tích 615,3m
2
ông, cho nhờ nên
ông, khởi kiện yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00758
ngày 16/01/2008 thửa 2055 tờ bản đồ số 1 diện tích 615,3m
2
tại ấp H, L,
huyện G; hủy Tờ giấy viết tay bán ruộng đề ngày 12/10/1987 có chữ ký tên B và
dấu lăn tay do giả mạo và buộc ông T, H2 trả lại ông, 615,3m
2
đã cho
mượn. Ông, bà đồng ý trả lại ông T, bà H2 giá trị căn nhà trên đất.
Tại phiên tòa thẩm, Nguyễn Thị H1 đại diện theo ủy quyền của B
thay đổi yêu cầu đòi ông T, bà H2 trả lại giá trị Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 18/12/2007 là 30.000.000 đồng tính lãi từ ngày 18/12/2007
8
đến ngày Tòa án xét xử với lãi suất 0,83%/tháng, thành tiền 40.338.000 đồng.
Ông T, H2 được tiếp tục quản sử dụng 688,4m
2
(đo đạc thực tế 594,7m
2
)
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH04856 do Ủy ban nhân dân
huyện G cấp ngày 20/7/2011 cho ông T, H2 đứng tên tại ấp H, L, huyện
G, tỉnh Tiền Giang.
Bị đơn Thanh T, Nguyễn Thị H2 trình bày: Năm 1987, ông cùng vợ
Nguyễn Thị H2 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của Huỳnh Thị B.
Khi nhận chuyển nhượng làm giấy tay do ông Văn T2 cán bộ Hợp tác
B3 viết giùm. Khi viết xong đọc lại cho B thống nhất tên lăn tay
vào giấy ngày 12/10/1987. Diện tích chuyển nhượng 690m
2
với giá 1.600.000
đồng. Sau khi mua đất B, ông đắp nền xây nhà tạm đvào năm 1990. Năm
2003 thì cất nhà kiên cố ở cho đến nay.
Năm 2008 vợ chồng ông, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
lần đầu, đến ngày 20/7/2011 được cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CH04856 thửa 46, tờ bản đồ số 7, diện tích 688,4m
2
tại ấp H, xã L, huyện G,
tỉnh Tiền Giang. Đối với yêu cầu khởi kiện của B, ông H thì ông T, H2
không đồng ý (bút lục 106 145). Tại phiên tòa thẩm, ông T chấp nhận việc
thay đổi yêu cầu khởi kiện của B do Nguyễn Thị H1 làm đại diện. Ông T xác
định cùng H2 đồng ý hoàn trả cho B, ông H 70.338.000 đồng tiền sang
nhượng đất nên Tòa thẩm xử theo hướng ghi nhận sự thỏa thuận giữa H1
với ông T tại phiên tòa. Nhưng đến ngày 17/6/2024 thì ông T, H2 đơn
kháng cáo không chấp nhận quyết định án thẩm xử. Ngày 21/6/2024 thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện G cũng quyết định kháng nghị đề nghị sửa
án sơ thẩm.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của ông T và bà H2, nhận thấy:
[4.1] Ngày 10/10/1987, bà Huỳnh Thị B có làm giấy viết tay ghi bán ruộng
cho ông Võ Thanh T diện tích 650m
2
với giá 1.600.000 đồng. Giấy bán ruộng có
chữ ghi họ tên Huỳnh Thị B và nhân chứng Văn T2. Đến ngày
12/10/1987 Huỳnh Thị B đơn gửi Ủy ban nhân dân L Ban Q1 xin
sang nhượng đất cho ông Thanh T diện tích 690m
2
(số I có dấu hiệu cạo sửa)
cũng với giá 1.600.000 đồng. Người nhượng ghi họ tên Huỳnh Thị B lăn
tay. Lý do xin sang nhượng ghi “Gia đình gặp khó khăn” (bút lục 06, 07 và 122).
Tuy nhiên cả hai giấy này không ghi đất sang nhượng thuộc thửa smấy nằm
đâu giấy chứng nhận hay chưa. Mãi đến năm 2007, Huỳnh Thị B với
ông Nguyễn Văn H lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
Thanh T, Nguyễn Thị H2. Diện tích chuyển nhượng 615,3m
2
thửa 1535
tờ bản đồ số 01 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 21 được Ủy ban
nhân dân huyện G cấp ngày 07/4/1997 cho B đứng tên tại ấp H, L, huyện
G, tỉnh Tiền Giang. Giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là 30.000.000 đồng.
Hợp đồng chữ ghi họ tên đầy đcủa bên chuyển nhượng bên nhận
chuyển nhượng được Ủy ban nhân dân L chứng thực số 133 quyển s
01/2007 ngày 18/12/2007 (bút lục 131, 132). Đây Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất chính thức theo quy định của pháp luật đất đai năm 1993.
9
Sau khi hoàn tất thủ tục nhận chuyển nhượng, ông T, H2 được Ủy ban
nhân dân huyện G cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00758 ngày
16/01/2008 thửa 2055 tờ bản số 1 diện tích 615,3m
2
(trong đó có 100m
2
đất ở)
tại ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang (bút lục 102).
[4.2] Năm 2011, ông T H2 làm thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nên được Ủy ban nhân dân huyện G cấp lại Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số CH04856 ngày 20/7/2011 thửa 46 tờ bản đồ số 7 diện tích
688,4m
2
(trong đó có 100m
2
đất nông thôn) tại ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền
Giang (bút lục 44). Nhưng theo đồ trích đo thửa đất của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện G lập ngày 16/12/2021 ghi nhận: Thửa 2055 tờ bản
đồ số 1 (thửa mới 46 tbản đồ số 7) diện tích thực tế 594,7m
2
. Trong đó đất
nông thôn 100m
2
, đất trồng cây lâu năm 494,7m
2
(bút lục 62).
[5] Vlý do vic cp đổi Giấy chứng nhận quyền s dng đất của ông T, bà H2
t thửa diện ch 615,3m
2
qua thửa mới din tích 688,4m
2
thì theo Công văn
1331/CNVK ngày 29/6/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện G
cho biết:H sơ cấp Giấy chứng nhận quyn sử dụng đt số CH04856 ny
20/7/2011 do Ủy ban nhânn huyn G cp cho ông Nguyn Thanh T3, bà Nguyn
Thị H2 thì Chi nhánh n phòng đăng ký đất đai huyện G tạm thời chưa cung cấp
được do kho u trcủa Chi nhánh đang trong quá trình di dời” (t lục 73).
[6] Về phía Huỳnh Thị B được Ủy ban nhân dân huyện G cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 21.QSDĐ ngày 07/4/1997 cho B đứng tên
tại ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang gồm 02 thửa:
- Thửa 1534 tờ bản đồ số 1 diện tích 2.470m
2
mục đích sdụng 2L. Thửa
này bà B đã chuyển nhượng cho ông Đặng Hồng T1 1.001m
2
vào năm 2008.
- Thửa 1535 tờ bản đồ số 1 diện tích 1.850m
2
mục đích sdụng TQ. Thửa
này B đã chuyển nhượng cho ông Văn C 706m
2
vào năm 2007 chuyển
nhượng cho ông Võ Thanh T, bà Nguyễn Thị H2 615,3m
2
vào năm 2008.
Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng thì Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai huyện G đã xác nhận nội dung chuyển nhượng đầy đủ vào trang 4
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho B giữ (bút lục 97).
[7] Về cơ sở pháp lý của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
B, ông H với ông T, bà H2 ký ngày 18/12/2007 đã được Phòng K Công an
tỉnh T kết luận chữ ký, chữ viết họ tên Nguyễn Văn H dưới mục bên A trên tài
liệu hiệu A2 so với chchữ viết họ tên Nguyễn Văn H trên các tài liệu
mẫu so sánh hiệu M1, M2, M3 do cùng một người ký, viết ra nên không thể
nói việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T, H2 trái pháp
luật như bà B, ông H nêu.
Mặt khác, t khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà B, vợ
chồng ông T H2 đã xây nhà từ thô lên kiên cố trồng cây, canh tác phần
đất nhận chuyển nhượng, nhưng bà B ông H vẫn giữ yên lặng không có phản đối
hoặc yêu cầu đối với ông T H2. Mãi đến năm 2020 thì B mới khiếu nại
và khởi kiện.
10
Từ những chứng cứ đã nêu, đủ sở kết luận bà Huỳnh Thị B đã
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Thanh T từ ngày 10/10/1987
bằng giấy viết tay kèm theo đơn xin Ủy ban nhân dân xã cho chuyển nhượng đất
nhưng mãi đến ngày 18/12/2007 hai bên mới lập Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật việc chuyển nhượng đã hoàn
thành vào năm 2008 được thể hiện tại trang 4 Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của bà Huỳnh Thị B. Do đó, việc B, ông H khởi kiện đòi hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông T, H2. Buộc ông T, H2 trả lại đất cho
nhờ là hoàn toàn không có căn cứ chấp nhận được.
[8] Về tiền chuyển nhượng đất thể hiện: giấy thỏa thuận viết tay ghi
1.600.000 đồng vào năm 1987 đến năm 2007 lập Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sdụng đất ghi gchuyển nhượng 30.000.000 đồng. Cả giấy thỏa thuận
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều không ghi phương thức,
thời gian thanh toán.
Tại phiên tòa sơ thẩm H1 đại diện cho B thay đổi yêu cầu khởi kiện
đòi ông T H2 trả tiền chuyển nhượng quyền sdụng đất theo hợp đồng
tính lãi suất. Yêu cầu thay đổi của bà H1 được ông T chấp nhận, còn bà H2 vắng
mặt nhưng án sơ thẩm ghi nhận sự thỏa thuận giữa bà H1 với ông T, buộc ông T
H2 nghĩa vụ liên đới trả tiền sang nhượng đất lãi cho B ông H
70.338.000 đồng nhưng sau đó ông T cùng bà H2 kháng cáo không chấp nhận
trả tiền sang nhượng đất cho ông H bà B.
Xét thấy ông T H2 xác định có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của bà B vào năm 1987 với giá 1.600.000 đồng bằng giấy tay. Đến năm 2007 thì
mới lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật. Giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng là 30.000.000 đồng. Ông T trình
bày tiền chuyển nhượng đất của B ông đã giao vào năm 1987 1.600.000
đồng. Còn tiền chuyển nhượng đất ghi trong hợp đồng 30.000.000 đồng vào
năm 2007 là để tính thuế, ông không có giao 30.000.000 đồng. Tuy nhiên ông T
H2 không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh đã giao 1.600.000
đồng tiền chuyển nhượng đất cho B ông H. vậy việc bà H1 người đại
diện theo ủy quyền của B thay đổi yêu cầu, đòi ông T H2 trả tiền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho bà B ông H 30.000.000 đồng và tính lãi phát sinh
từ ngày ký hợp đồng đến ngày Tòa án xét xử thẩm với mức lãi suất
0,83%/tháng được Tòa án chấp nhận là có căn cứ.
Ông T bà H2 kháng cáo nhưng không được đại diện bà B chấp nhận và ông
T bà H2 cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ mới làm thay đổi tính chất
của vụ án nên không được chấp nhận. Tuy nhiên án thẩm tuyên hủy giấy tay
mua bán đất giữa bà B với ông T là không hợp lý nên cần cải sửa.
Các phn khác ca án sơ thm không kháng cáo kháng ngh đưc
ginguyên.
[9] Về án phí: Ông T bà H2 phải chịu án phí dân sự thẩm phúc
thẩm theo khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự
11
khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14.
[10] Xét Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKS-DS ngày 21/6/2024 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện G ý kiến đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm phần phù hợp với nhận định của Tòa
án được ghi nhận.
[11] Về ý kiến của Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên
đơn Huỳnh Thị B phân tích và đề nghị có cơ sở được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 270, 293, 296, khoản 2 Điều 308, Điều 309, Điều 313 của
Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Thanh T Nguyễn
Thị H2.
Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKS-DS ngày
21/6/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 226/2024/DS-ST ngày 07 tháng 6
năm 2024 của Toà án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Căn cứ vào Điều 5, khoản 3 khoản 9 Điều 26, Điều 35, 39, 147, 148, 244,
296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 170, 248, 256, 428 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều
357 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Căn cứ vào Điều 3, Điều 31, Điều 73 Luật Đất đai năm 1993.
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Xử:
1/ Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị Bông Nguyễn
Văn H về việc:
Hủy Tờ giấy tay bán ruộng giữa Huỳnh Thị B với ông Thanh T
ngày 10/10/1987.
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H00758 do Ủy ban nhân n
huyện G cấp ngày 16/01/2008 thửa 2055 tờ bản đồ số 1 din tích 615,3m
2
cho ông
Võ Thanh T, Nguyễn Thị H2 đứng tên tại ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Yêu cầu ông Thanh T, Nguyễn Thị H2 trả lại 615,3m
2
thuộc thửa
2055 tờ bản đồ số 01 loại đất thổ quả tại ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
2/ Ông Thanh T, Nguyễn Thị H2 được quyền tiếp tục sử dụng thửa
đất số 2055 tờ bản đồ số 01 diện tích 615,3m
2
(thửa mới 46 tờ bản đồ số 7 diện
12
tích 688,4m
2
nhưng đo đạc thực tế 594,7m
2
) theo giy chng nhn s
CH04856 do Ủy ban nhân dân huyện G cấp ngày 20/7/2011 cho ông T, H2
đứng tên tại ấp H, xã L, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
Thửa đất có vị trí tứ cận như sau:
- Đông giáp đất Huỳnh Thị B
- Tây giáp kênh cp đường 872
- Nam giáp đất Đặng Hồng T1
- Bc giáp đất Huỳnh Thị B
(có sơ đồ kèm theo)
3/ Chấp nhận một phần thay đổi yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H1
là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Huỳnh Thị B về việc đòi ông T
H2 trả tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ký ngày 18/12/2007.
Buộc ông Thanh T Nguyễn Thị H2 nghĩa vụ trả cho Huỳnh
Thị B ông Nguyễn Văn H tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất
30.000.000 đồng và 40.338.000 đồng tiền lãi. Tổng cộng 70.338.000 đồng.
Kể từ ngày bà B, ông H đơn yêu cầu thi hành án nếu ông T H2 chậm
thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi
suất được quy định tại Điều 357 và 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4/ Về án phí:
Huỳnh Thị B, ông Nguyễn Văn H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Thanh T, Nguyễn Thị H2 phải chịu 3.516.900 đồng án pdân
sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Nhưng được trừ 300.000
đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0009527 ngày 17/6/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện G nên phải nộp tiếp 3.516.900 đồng.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhn:
- TAND cp cao ti TP.HCM;
- VKSND tnh Tin Giang;
- TAND huyn G;
- CCTHADS huyn G;
- Các đương s;
- Lưu h sơ v án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Mai Hoàng Khi
Tải về
Bản án số 566/2024/DS-PT Bản án số 566/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 566/2024/DS-PT Bản án số 566/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất