Bản án số 347/2025/DS-PT ngày 26/06/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 347/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 347/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 347/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 347/2025/DS-PT ngày 26/06/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 347/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giữa NĐ ông Nguyễn Văn T, bị đơn bà Nguyễn Thị L |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 347/2025/DS-PT
Ngày 26 - 6 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thanh.
Bà Ngô Thị Bích Diệp.
Bà Huỳnh Thị Thanh Tuyền.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thùy Trang - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Trần Đức Thoại - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 24 và 26 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 141/2025/TLPT-
DS ngày 11 tháng 4 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 27/02/2025 của Tòa án
nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 299/2025/QĐ-PT ngày
21 tháng 5 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 364/2025/QĐ-PT
ngày 12 tháng 6 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Ngô Văn T, sinh năm 1987; địa chỉ thường trú: ấp B,
xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương.
+ Ngưi đi din hp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Chí H, sinh năm
1982. Địa chỉ: Đường D, khu phố Đ, thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương là
người đại diện theo u quyền của ông Ngô Văn T (văn bản u quyền ngày
21/3/2023), có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971; địa chỉ thường trú: Ấp C, xã L,
huyện D, tỉnh Bình Dương.
+ Ngưi đi din hp pháp của bị đơn:

1. Ông Trần Bá N, sinh năm 1977. Địa chỉ thường trú: Khu phố A, phường
D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang là người đại diện theo u quyền của bà Nguyễn
Thị L (văn bản u quyền ngày 19/4/2023), có mặt.
2. Ông Ngô Nguyễn Duy K, sinh năm 2000, địa chỉ thường trú: phường P,
thành phố T, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ: Số A đường T, phường C, thành
phố T, tỉnh Bình Dương là người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị L
(Văn bản ủy quyền ngày 23/4/2025), có mặt.
- Ngưi có quyền li, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm
1968; địa chỉ thường trú: Ấp C, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương, có mặt.
- Ngưi lm chng:
1. Ông Lê Xuân N2, sinh năm 1986, địa chỉ thường trú: Ấp H, xã L, huyện
B, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
2. Bà Đặng Hồ Ngọc T1, sinh năm 1982, địa chỉ thường trú: Ấp C, xã L,
huyện D, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
3. Ông Ngô Văn R, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp B, xã C, huyện B, tỉnh Bình
Dương, có mặt.
4. Ông Ngô Văn P, sinh năm 1974. Địa chỉ: Tổ G, Ấp B, xã C, huyện B,
tỉnh Bình Dương, có mặt.
Ngưi kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Ti đơn khởi kin nộp ti Tòa án ngy 27/3/2023, đơn khởi kin bổ sung
ngy 25/7/2024, quá trình tố tụng ti cấp sơ thẩm v ti phiên tòa phúc thẩm,
nguyên đơn l ông Ngô Văn T v ngưi đi din hp pháp của nguyên đơn l ông
Nguyễn Chí H thống nhất trình by:
Qua giới thiệu của ông Lê Xuân N2, nguyên đơn (ông T) cùng 02 người
chú ruột là ông Ngô Văn P và ông Ngô Văn R đến xã L, huyện D xem thửa đất
303 của bà Nguyễn Thị L do ông N2 rao bán qua mạng zalo. Sau khi xem đất trên
thực địa thì thấy thửa 303 có hình vuông và cắm các trụ xi măng bao quanh nên
ông T đồng ý nhận chuyển nhượng thửa đất 303 của bà L. Ngày 24/3/2022,
nguyên đơn (ông T) và bị đơn là bà Nguyễn Thị L đã ký hợp đồng đặt cọc nhằm
mục đích chuyển nhượng 02 thửa đất số 302 và 303 tờ bản đồ số 2 tọa lạc ấp H,
xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương có diện tích 2.856m
2
, trong đó có 300m
2
đất ở
nông thôn (viết tắt là ONT) và 2.556m
2
đất trồng cây lâu năm (viết tắt là CLN),
hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng chung cho diện tích 02 thửa đất 302, 303
là 6.150.000.000đ (sáu t một trăm năm mươi triệu đồng). Bà L và ông N1 có
giao cho ông T, ông R, ông P xem bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
do bà L đứng tên đối với 02 thửa đất 302 và 303. Sau khi xem sổ đất của bà L thì
ông T, ông R thấy bản vẽ vị trí đất của thửa 303 trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AE 206933 (số vào sổ H1433/QĐ-UB), do UBND huyện D cấp cho
bà Nguyễn Thị L ngày 17/11/2006, diện tích được cấp là 1.945m
2
(có 300m
2
ONT) có hình thể là tam giác nhưng khi xem đất thì ông N1 và ông N2 chỉ là hình

vuông có đóng cọc bằng trụ xi măng làm ranh thì ông N1, bà L cho biết phía sau
thửa 303 của bà L là phần đất thuộc quyền sử dụng của bà L, ông N1 đang trồng
cao su nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà L, ông N1
đồng ý chuyển nhượng cả thửa đất chưa có giấy chứng nhận (sau này là thửa 453)
nên ông T mới chấp nhận nhận chuyển nhượng chung cho 03 thửa đất là
6.150.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận, ông R có viết thêm vào mặt sau của hợp
đồng đặt cọc dòng chữ: “Đất phát sinh cấp mới ton bộ đất l bên A phải bán cho
bên B hết m không tăng tiền thêm”, bên dưới bà L (bên A) ký tên và lăn tay xác
nhận nội dung. Khi đặt cọc hai bên thỏa thuận, số tiền chuyển nhượng sẽ được
thanh toán trong 03 lần:
- Lần 1: Ngày 24/3/2022 thanh toán 800.000.000đ (Tám trăm triệu đồng);
- Lần 2: Ngày 04/4/2022 thanh toán 2.200.000.000đ (Hai t hai trăm triệu
đồng);
- Lần 3: Không thỏa thuận thời gian bên B thanh toán số tiền
3.150.000.000đ (ba t một trăm năm mươi triệu đồng). Số tiền còn lại ra công
chứng chồng đủ sau khi xong giấy tờ. Ông T (bên B) chịu trách nhiệm đi làm xổ
(xin đo đạc, chỉnh lý cấp lại/cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà
L, thủ tục hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sang tên trước bạ ra giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất sang tên ông T), toàn bộ tiền thuế trước bạ, thuế
thu nhập cá nhân do ông T (bên B) chịu.
Giữa ông T và ông N1 có thỏa thuận miệng với nhau là thửa 303 và phần
đất chưa được cấp sổ (sau này là thửa 453) giá 5.550.000.000 đồng thửa 302 giá
600.000.000 đồng. Ông T đặt cọc cho bà L 800.000.000 đồng. Bà L là người ký
tên và lăn tay trên Hợp đồng đặt cọc. Buổi đặt cọc, giao tiền vào ngày 24/3/2022
có sự tham gia của ông N1, bà L, ông N2 và ông Ngô Văn R. Ông N1 là người
nhận tiền, bà L ký tên trong hợp đồng đặt cọc.
Ngày 04/4/2022, ông T tiếp tục thanh toán cho bà L số tiền lần 2 theo thỏa
thuận là 2.200.000.000 đồng. Khi giao nhận tiền lần 2 có mặt cả ông N1, bà L,
ông R và ông T. Bà L ghi dòng chữ “có nhận đủ số tiền l 3.000.000.000đ (Ba tỷ
đng). Theo hp đng như trên. Số tiền đất còn li l 3.150.000.000đ (Ba tỷ một
trăm năm mươi triu đng)”đồng thời bà L ký tên lăn tay xác nhận nội dung.
Ngày 18/5/2022 thì ông N1 có điện thoại yêu cầu ông T giao thêm cho ông N1,
bà L số tiền 1.000.000.000đ (một t đồng) để ông N1 mua ô tô con thì ông T đồng
ý. Ngày 18/5/2022, bà L ký nhận tiền và ghi thêm “ Hôm nay ngày 18/5/2022 bà
Nguyễn Thị L có nhận thêm số tiền l 1.000.000.000đ (một tỷ đng chẳn). Tổng
số tiền trước sau l 4.000.000.000đ (bốn tỷ đng), số tiền còn li ra công chng
chng đủ l 2.150.000.000đ (hai tỷ một trăm năm mươi triu đng). Trưng hp
không đủ đất thực tế đang sử dụng thì bên A trả li ton bộ số tiền m bên B đã
đặt cọc”. Bà L đã ký tên, lăn tay xác nhận nội dung trên trước mặt ông N1 và ông
T.
Ngày 25/3/2022 và 11/8/2022, bà L ủy quyền cho ông T, nội dung ủy quyền
là để thực hiện thủ tục đo đạc, đổi sổ mới của 2 thửa 302, 303 và cả phần cấp mới.
Khi cán bộ đo đạc xuống thì đo trùm luôn cả phần chưa được cấp sổ và trả lời với

ông T là phần này không cấp sổ được đâu do dính hành lang suối nên ông T báo
lại với bà L. Do phần diện tích phía sau chưa được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy chứng nhận nên hai bên có trao đổi qua điện thoại về thời gian
thực hiện thủ tục và ký hợp đồng chuyển nhượng là 04 tháng kể từ ngày 24/3/2022.
Hết thời gian trên bà L vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với thửa đất phía sau giáp thửa 303 (sau này là thửa 453) nên ông T tiếp tục
gia hạn thêm thời gian ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà L nhưng không thỏa
thuận thời hạn cụ thể.
Đối với thửa đất 303, hai bên thống nhất chuyển nhượng toàn bộ diện tích
thực tế bà L đang sử dụng có trụ xi măng xác định như bản mô tả ranh giới, mốc
giới thửa đất ngày 24/5/2022. Sau khi tiến hành đo đạc lại diện tích 03 thửa đất
302, 303, 453, tờ bản đồ 02 thì ngày 03/6/2022 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai, Ủy ban nhân dân xã L đã làm việc cùng ông T về việc giảm diện tích đất
46,6m
2
so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 303 lý do trước
đây khi thực hiện đo đạc và tính diện tích bằng phương pháp thủ công để cấy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nên chênh lệc diện tích so với hiện nay; đối với
thửa đất 302 do trước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà L đất đã
có sẵn đường nhựa nhưng không được cập nhật nên không thể hiện thửa 302 giáp
đường nhựa (giữa thửa 302 và thửa 303) và hướng đông bắc giáp Suối nhưng trên
giấy chứng nhận của bà L không thể hiện nên chênh lệch diện tích giảm. Theo
thỏa thuận tại hợp đồng đặt cọc ngày 24/3/2022 thì ông T đã hoàn thành xong thủ
tục đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị L đối với thửa đất
là 302 và 303 ngày 26/8/2022.
Đối với thửa đất 302, ngày 30/8/2022, ông T và bà L, ông N1 đã ký Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 300 quyển số 03/2022-SCT/HNGĐ
tại UBND xã L đối với thửa 302, tờ bản đồ 02 có diện tích 577,9m2. Ông T đã
được cấp giấy chứng nhận số DH 970902, số vào sổ CS 07367 do Sở Tài nguyên
mà Môi trường cấp ngày 30/9/2022. Riêng đối với thửa đất 303 tờ bản đồ 02 ông
T không đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng theo yêu cầu của bà L do diện tích
không đủ theo thỏa thuận đặt cọc ngày 24/3/2022 và thỏa thuận bổ sung do bà L
xác nhận ngày 18/5/2022.
Ngày 21/3/2023, bà L không thể cung cấp đầy đủ giấy tờ liên quan đến thửa
đất 453 nên ông T đã gửi đơn khởi kiện đến Tòa án. Ngày 27/3/2023, bà L có hẹn
với ông T tại UBND xã L để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Khi
ông T đến trụ sở UBND xã L, nhưng do bà L không cung cấp được giấy tờ của
phần đất phía sau (thửa 453) theo đúng diện tích thực tế mà bà L đang sử dụng và
cam kết chuyển nhượng cho ông T nên ông T đã từ chối ký hợp đồng chuyển
nhượng và bỏ ra về.
Do quyền và lợi ích bị xâm phạm, bà L, ông N1 không chấp nhận trả lại số
tiền chuyển nhượng đã nhận là 4.000.000.000đ (bốn t đồng) nên ông T khởi kiện
yêu cầu Tòa án giải quyết:
1. Hủy Hợp đồng đặt cọc nhằm chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất
302, 303, 453 tờ bản đồ 02 tại ấp H, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương và tài sản

gắn liền với đất đã ký kết ngày 24/3/2022 giữa ông Ngô Văn T với bà Nguyễn Thị
L. Ông T yêu cầu bà Nguyễn Thị L phải trả lại số tiền đã nhận là 4.000.000.000đ
(bốn t đồng) và tiền phạt cọc do vi phạm hợp đồng là 800.000.000đ (tám trăm
triệu đồng). Đến ngày 25/7/2024, nguyên đơn khởi kiện bổ sung: Yêu cầu bà
Nguyễn Thị L phải thanh toán số tiền lãi do chậm trả lại tiền cọc 4.000.000.000đ
tính từ ngày Tòa án huyện D thụ lý vụ án (07/4/2023) đến ngày 23/7/2024 theo
mức lãi suất 10%/năm là 15,5 tháng với số tiền lãi là 516.000.000 đồng. Ông T
đồng ý chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị L thửa đất 302, tờ bản đồ số 02 toạ
lạc tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số DH 970902, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS07367 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp ngày 30/9/2022.
Ông T xin rút yêu cầu đối với tiền phạt vi phạm hợp đồng là 800.000.000
đồng.
Tại phiên toà sơ thẩm, nguyê đơn Ngô Văn T xin rút một phần yêu cầu khởi
kiện đối với số tiền phạt cọc 800.000.000đ (tám trăm triệu đồng), đại diện nguyên
đơn xác định giữ nguyên yêu cầu hu hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã ký kết ngày 24/3/2022 giữa ông Ngô
Văn T với bà Nguyễn Thị L, đồng ý chuyển nhượng lại thửa 302 cho phía bị đơn.
Ông T yêu cầu bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn N1 phải trả lại số tiền đã
nhận là 4.000.000.000đ (bốn t đồng); yêu cầu và Nguyễn Thị L và ông Nguyễn
Văn N1 phải trả số tiền lãi chậm trả của số tiền đã nhận 4.000.000.000 đồng từ
ngày Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng thụ lý (07/4/2023) đến ngày xét xử
(21/2/2025) theo mức lãi suất 10%/năm là 22 tháng 14 ngày với số tiền là
733.000.000 đồng; rút yêu cầu đối với số tiền phạt vi phạm hợp đồng là
800.000.000 đồng. Lý do nguyên đơn không chấp nhận ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 27/3/2023 và yêu cầu hu hợp đồng đặt cọc là do
không đủ diện tích đất thực tế theo thoả thuận (tức là phần đất thửa 453 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trong khi đây là phần đất các bên đã thoả
thuận chuyển nhượng trong hợp đồng và không thể tách rời). Khi thoả thuận
chuyển nhượng bị đơn cng đã xác định diện tích chuyển nhượng bao gồm cả
thửa 303, 453 theo vị trí 04 trụ xi măng trên thực địa 04 góc đất (đất có hình thang
chứ không phải hình tam giác trên sổ thửa 303). Nội dung phía sau ghi rất r và
là một phần không tách rời của hợp đồng ghi nhận theo diện tích thực tế chứ không
theo sổ. Mặt khác, ban đầu hợp đồng không xác định thời hạn nhưng từ tháng
9/2022 các bên đã thoả thuận thời hạn thực hiện hợp đồng là 04 tháng tính từ
tháng 9/2024 căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn và người làm chứng bà T1.
Như vậy, thời hạn của hợp đồng đặt cọc đã hết. Ngày 21/3/2023, ông T đã làm
đơn khởi kiện ra Toà do phía bà L không thực hiện thoả thuận đúng hạn dù đã
nhiều lần liên hệ. Ngày 27/3/2023, phía bà L báo nguyên đơn ra Ủy ban nhân dân
xã L để ký hợp đồng nhưng phần đất thửa 453 vẫn chưa có sổ tức là không đủ
diện tích để ký hợp đồng chuyển nhượng nên nguyên đơn từ chối. Theo thoả thuận
thì do phía bị đơn không chuẩn bị đủ diện tích đất chuyển nhượng thì phải trả cọc
lại cho nguyên đơn.

Nguyên đơn thống nhất kết quả đo đạc theo biên bản xem xét thẩm định tại
ch ngày 03/11/2023 của Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng, M trích lục địa chính
có đo đạc chỉnh lý (tranh chấp) số 886 - 2023 ngày 14/11/2023, Trích lục bản đồ
địa chính thửa 302, 303 ngày 13/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện D, và kết quả định giá theo biên bản định giá tranh chấp ngày 20/3/2024
của Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng và yêu cầu lấy trị giá này này để xem xét
giải quyết vụ án.
Ngoài ra, nguyên đơn không có yêu cầu gì khác.
* Quá trình tố tụng ti cấp sơ thẩm v ti phiên to phúc thẩm, bị đơn bà
Nguyễn Thị L v ngưi đi din hp pháp của bị đơn l ông Ngô Nguyễn Duy K
và ông Trần Bá N thống nhất trình by:
Năm 2022, vợ chồng bà L, ông N1 có nhờ ông Lê Xuân N2 giới thiệu cho
bà L bán thửa đất số 303, tờ bản đồ 02 tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương, sau
đó ông Ngô Văn T có gặp ông N2 và được ông N2 đưa đến xem đất trên thực địa.
Sau khi xem đất xong thì ông N2 đưa ông T cùng 02 người đàn ông (sau này bà
L mới biết là chú cháu với ông T) đến gặp vợ chồng bà L, ông N1 để thỏa thuận
giá chuyển nhượng. Gia đình bà L chỉ có nhu cầu bán thửa 303, tuy nhiên ông T
nói là muốn mua luôn thửa 302 (cách thửa 303 một con đường) nên gia đình mới
bán luôn. Ông T nhận trực tiếp đi làm tất cả các thủ tục cchuye63n nhượng, cấp
đất cho ông T nên gia đình bà L mới đồng ý bán thửa 302, 303 với giá
6.150.000.000đ (Sáu t một trăm năm mươi triệu đồng). Đối với phần diện tích
chưa được cấp sổ là phần cho thêm, không phải trả tiền. Không xác định mi thửa
có giá chuyển nhượng là bao nhiêu. Khi đặt cọc, bà L, ông N1 đã cho ông T xem
bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xem đất do ông N1 chỉ, ông N1
có nói r là phần đất thực tế sử dụng là hình vuông, có các trụ, còn trên sổ thì có
hình tam giác.
Ngày 24/3/2022, ông T và bà L ký Hợp đồng đặt cọc để mua hai thửa đất
302, 303 theo giấy chứng nhận số H01250, H01433 (phần đất phía sau là thửa 453
hiện nay là cho thêm, không phải trả tiền) của bà L tại nhà bà L, tiền đặt cọc là do
ông T giao cho bà L 800.000.000 đồng. Bà L là người ký tên và lăn tay trên Hợp
đồng đặt cọc. Khi ông T giao tiền đặt cọc cho bà L có sự tham gia của ông N1,
ông N2, ông R và ông P.
Nội dung các bên thỏa thuận ở mặt sau của Hợp đồng đặt cọc “Phần đất
phát sinh cấp mới l bên A phải bán cho bên B m không tăng thêm tiền”, nội
dung ghi thêm đầu tiên là chú của ông T, ghi thời gian nào thì bà L không nhớ,
nội dung thực chất đây là phần đất cho thêm, không lấy tiền.
Ngày 04/4/2022, ông T tiếp tục giao cho bà L số tiền đặt cọc lần 2 là
2.200.000.000 đồng. Ông T và bà L chốt lại tổng số tiền ông T giao cho bà L là
3.000.000.000 đồng. Ngày 18/5/2022, do gia đình bà L cần tiền nên yêu cầu ông
T giao thêm số tiền 1.000.000.000 đồng, ông T đồng ý. Ngày 18/5/2022, ông T,
giao thêm số tiền đặt cọc lần 3 cho bà L là 1.000.000.000đ (một t đồng). Các bên
chốt lại tổng số tiền ông T đã giao cho bà L là 4.000.000.000 đồng. Hai bên thống
nhất ghi bổ sung vào mặt sau của Hợp đồng đặt cọc do ông R ghi bổ sung có bà

L ký tên lăn tay xác nhận, nội dung bổ sung gồm có “trưng hp không đủ đất
thực tế đang sử dụng thì bên A trả li số tiền cho bên B đã cọc”. Nội dung này là
xác định diện tích thực tế theo các cây trụ xi măng trên đất, không bị lấn chiếm.
Ông N1 biết và thống nhất với nội dung này.
Theo thoả thuận của Hợp đồng đặt cọc, ông T có trách nhiệm thực hiện toàn
bộ các thủ tục giấy tờ để ký Hợp đồng chuyển nhượng công chứng đối với phần
đất chuyển nhượng. Ngày 25/3/2022 và 11/8/2022, bà L ủy quyền cho để ông T
là để thực hiện thủ tục đo đạc, đổi sổ mới của 2 thửa 302, 303 và cả phần cấp mới.
Ông T liên hệ làm không được nên nhờ ông N1 đưa ông T đến gặp bà T1 là người
chuyên làm dịch vụ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà T1 báo giá dịch
vụ trọn gói ra giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà L đối với thửa đất
453, tờ bản đồ 02 là 330.000.000 đồng. Ông N1 và ông T thỏa thuận: bên ông T
chịu 80.000.000 đồng, còn ông N1 phụ 250.000.000 đồng. Sau đó, ông N1 chỉ
phụ trách kết nối liên lạc giữa các bên chứ không chịu trách nhiệm gì. Ông T đã
hoàn thành tất cả các thủ tục để ra được 02 giấy chứng nhận nhận mới của thửa
302, 303. Còn phần của thửa 453 thì thấy ra được bản vẽ ngày 20/9/2022. Bản vẽ
hiện trạng thửa 453 bên ông T giao cho người làm dịch vụ.
Việc liên lạc giữa các bên sau khi có bản vẽ thửa 453 thì bà L không nhớ,
chỉ nhớ có báo trước cho ông T mấy ngày để ngày 27/3/2023 hẹn với ông T tại
UBND xã L để ký hợp đồng chuyển nhượng. Ngày 27/3/2023, các bên có mặt tại
UBND xã L nhưng ông T sau khi xem Hợp đồng thì nói thiếu diện tích rồi đi về
chứ không trao đổi gì với bà L.
Cho đến nay bà L, ông N1 vẫn đồng ý tiếp tục cho ông T phần diện tích
thửa 453 mà không tính thêm tiền. Đến nay bà L, ông N1 vẫn đồng ý h trợ phí
dịch vụ làm sổ đỏ thửa 453 là 250.000.000 đồng, phần ông T chịu 80.000.000
đồng như đã thỏa thuận trước đây.
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, phần làm sổ
của thửa 453 là trách nhiệm của nguyên đơn, nay nguyên đơn đổi ý không mua
thì phải chịu trách nhiệm. Đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn.
Tại phiên toà, bị đơn xác định không có yêu cầu phản tố trong vụ án. Đối
với số tiền chi phí để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 453 thì bị đơn
cng không có yêu cầu trong vụ án này. Đối với việc nguyên đơn cho rằng không
ký hợp đồng với lý do không đủ diện tích đất là sai bởi theo diện tích đo đạc thực
tế thì thửa 302 là 577,9m
2
, thửa 303 là 1.898,4m
2
, thửa 453 là 1.046,6m
2
tổng là
3.522,9m
2
lớn hơn so với diện tích được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (2.538,1m
2
), tức là không thiếu diện tích đất; việc nguyên đơn không ký hợp
đồng chuyển nhượng là li của nguyên đơn, bị đơn vẫn có thiện chí trong việc
chuyển nhượng toàn bộ phần đất cho nguyên đơn. Hợp đồng đặt cọc ngày
24/3/2022, các bên tham gia ký kết có đủ năng lực hành vi dân sự, hợp đồng đủ
điều kiện có hiệu lực theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự, không có căn cứ
hu hợp đồng. Không có việc bị đơn đồng ý thời hạn 04 tháng như đại diện nguyên

đơn trình bày vì r ràng việc thực hiện thủ tục là ngha vụ của phía nguyên đơn,
không phải của bị đơn.
Bị đơn thống nhất kết quả đo đạc theo biên bản xem xét thẩm định tại ch
ngày 03/11/2023 của Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng, M trích lục địa chính có
đo đạc chỉnh lý (tranh chấp) số 886 - 2023 ngày 14/11/2023, Trích lục bản đồ địa
chính thửa 302, 303 ngày 13/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện D, và kết quả định giá theo biên bản định giá tranh chấp ngày 20/3/2024
của Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng và yêu cầu lấy trị giá này này để xem xét
giải quyết vụ án.
Ngoài ra, bị đơn không có ý kiến hay yêu cầu khác.
* Theo biên bản lấy li khai, quá trình tham gia tố tụng v ti phiên to
ngưi có quyền li nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn N1 trình by:
Ông N1 là chồng của bà L, thống nhất với toàn bộ lời khai và ý kiến của bị
đơn bà L. Ông N1 không đồng ý với ý kiến về thoả thuận 04 tháng như đại diện
nguyên đơn trình bày vì thủ tục giấy tờ là ngha vụ của nguyên đơn thực hiện theo
thoả thuận.
Ông N1 thống nhất kết quả đo đạc theo biên bản xem xét thẩm định tại ch
ngày 03/11/2023 của Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng, M trích lục địa chính có
đo đạc chỉnh lý (tranh chấp) số 886 - 2023 ngày 14/11/2023, Trích lục bản đồ địa
chính thửa 302, 303 ngày 13/11/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện D, và kết quả định giá theo biên bản định giá tranh chấp ngày 20/3/2024
của Toà án nhân dân huyện Dầu Tiếng và yêu cầu lấy trị giá này này để xem xét
giải quyết vụ án.
* Theo biên bản lấy li khai, đơn xin vng mặt th hin kiến của ngưi
lm chng ông Lê Xuân N2 như sau:
Ông N2 người giới thiệu cho ông T đến xem đất và gặp bà L, ông N1 để
thỏa thuận chuyển nhượng các thửa đất 302, 303, 453 tờ bản đồ 02 tại ấp H, xã L,
huyện D, tỉnh Bình Dương do bà L đứng tên tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Sau khi xem xong hiện trạng đất trên thực tế thì giữa ông N1, ông T đã thống
nhất giá chuyển nhượng thửa đất 303 và thửa đất chưa được cấp sổ (sau này là
thửa 453) tờ bản đồ 02 là 5.550.000.000 đồng. Sau đó vào nhà bà L, ông N1 để
thương lượng đặt cọc.
Từ khi xem đất đến khi vào nhà bà L đều có ông N2, ông R, ông T, ông S,
ông P (chú ruột của ông T). Khi các bên vào nhà bà L thì ông N1, bà L nói là trên
sổ thửa đất 303 chưa có đường vì sổ đỏ cấp trước còn con đường mới làm sau,
ông N1, bà L cng xác định phần đất bán là phần đất hình vuông, gồm cả phần
đất phía sau chưa được cấp sổ đỏ đang trồng cao su được xác định bằng 4 trụ xi
măng sơn đầu đỏ (hiện nay vẫn còn), mặt tiền đường là 65m, chiều ngang đuôi
đất là 43m (trừ hành lang suối 5m còn 38m), sâu 50m (Ông N2 và ông S, ông T
còn tự mình cầm thước đi đo) với giá 5.550.000.000 đồng. Ban đầu thửa 303 và
302 là chung một thửa đất, sau khi có con đường thì mới tách thành 02 thửa như
vậy. Lúc đó ông N1 mang sổ đỏ thửa 302 ra, nói con đường nằm trên thửa 302 thì

ông T nói là ông N1 bán luôn thửa 302 thì mới mới cập nhật con đường lên cả 02
cuốn sổ được thì ông N1 đồng ý bán với giá luôn thửa 302 với giá 600.000.000
đồng. Tuy nhiên ông N1 nói là ông N1 không rành thủ tục, giấy tờ nên toàn bộ
thủ tục nên giao cho bên mua đi làm dùm, cần giấy tờ thì đưa cho ông N1 ký.
Sau đó các bên đồng ý và lập hợp đồng đặt cọc ngày 24/3/2022 để mua 2
phần đất trên với giá 6.150.000.000 đồng. Ông R là người ghi vào Hợp đồng, nội
dung Hợp đồng được các bên thống nhất, có bà L, ông T và ông N2 ký. Đặt cọc
lần đầu là 800.000.000 đồng. Hợp đồng đặt cọc là đặt cọc để mua cả 2 phần đất,
số tiền 800.000.000 đồng là để đặt cọc chung cho cả hai phần đất. Khi đặt cọc,
giữa ông T, bà L, ông N1 có thỏa thuận về việc bán phần đất có hình thể theo các
trụ bê tông đã cắm, có diện tích thực tế như ông N2 đã trình bày ở trên. Phần nội
dung ghi thêm “Đất phát sinh cấp mới ton bộ đất l bên A phải bán cho bên B
hết m không tăng tiền thêm” là do ông R ghi ngay lúc viết hợp đồng đặt cọc theo
sự thống nhất của các bên, lý do ghi nội dung này thêm phía sau là do bên ông T
sợ bà L, ông N1 sau này đổi ý, nói là chỉ bán theo sổ đỏ nên ghi thêm cho chắc
ăn. Việc ghi thêm phía sau là vì phía trước đã hết ch, sau khi ghi xong thì các
bên cùng ký tên và lăn tay vào hợp đồng đặt cọc.
Các bên thỏa thuận là ông T có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các thủ tục
cần thiết để ký hợp đồng chuyển nhượng gồm: Cập nhật đường vào sổ đỏ c, thủ
tục đo đạc và cấp mới phần đất chưa được cấp sổ ra tên ông N1, sau đó thực hiện
thủ tục chuyển nhượng cho ông T, cần cung cấp giấy tờ gì hoặc cần ký gì thì ông
T đưa cho ông N1, bà L ký. Không quy định thời gian thực hiện, khi nào xong thì
các bên ra ký hợp đồng chuyển nhượng, toàn bộ chi phí để thực hiện các thủ tục
này do ông T chịu.
* Theo biên bản lấy li khai, đơn xin vng mặt th hin kiến của ngưi
lm chng là bà Đặng Hồ Ngọc T1 như sau:
Bà T1 là người làm dịch vụ cấp sổ đỏ tại xã L. Khoảng tháng 8/2022, ông
N1 có dẫn ông T, một người tên Chín R1, một người ông T gọi bằng chú xuống
nhà bà T1 để thương lượng vấn đề cấp mới sổ đỏ đối với phần đất giáp suối phía
sau thửa 303, tờ bản đồ số 2 ở ấp H, xã L. Bà T1 có được xem Hợp đồng đặt cọc
thể hiện bên ông T (bên mua) chịu trách nhiệm thực hiện các thủ tục để ký Hợp
đồng chuyển nhượng. Bà T1 có thương lượng với ông T phí dịch vụ là
330.000.000 đồng, thời gian thực hiện 4 tháng thì ông T đồng ý. Lý do bà T1 đưa
ra thời gian 4 tháng là vì trước đó bà T1 đã làm thủ tục cấp mới giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cng hết tầm 4 tháng thì ông T đồng ý, phía ông N1 bà L sẽ h
trợ ký các thủ tục để bà T1 làm. Việc thỏa thuận không lập thành văn bản nhưng
có mặt bà T1, 3 người bên ông T và ông N1. Bà T1 có nghe ông T và ông N1 thỏa
thuận riêng về phí dịch vụ là ông T chịu 80.000.000 đồng còn ông Năng chịu
250.000.000 đồng.
Về bản vẽ thửa đất 453 ngày 20/9/2022 là do ông T đã thực hiện hợp đồng
đo đạc trước đó nhưng không ra bản vẽ được nên bà T1 liên hệ bà chở bà L lên
lấy bản vẽ này. Ngày 07/11/2022, bà L ký giấy ủy quyền để bà T1 thực hiện. Bà
T1 nhớ là đã nộp hồ sơ vào Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện D 2 lần,

lần đầu là bị sai nên trả về, lần thứ 2 thì được trả lời phát sinh vấn đề ngưng cấp
mới đối với đất có hành lang suối nên cng bị trả về luôn, mi lần nộp vào bà T1
đều chụp hình gửi cho ông T. Quá trình thực hiện, bà T1 và ông T trao đổi qua
điện thoại và zalo, hình ảnh tin nhắn zalo bà T1 vẫn còn và sẽ cung cấp cho Tòa
án. Ông T cng thường xuyên hỏi xem bà T1 đã thực hiện đến đâu, tuy nhiên sau
khi bà T1 báo là Tỉnh ngưng cấp đối với đất có hành lang suối thì ông T không
còn liên lạc với bà T1 nữa. Tiền phí dịch vụ thỏa thuận bà T1 vẫn chưa nhận được
đồng nào từ ông T do quá trình thực hiện phát sinh vấn đề từ chính sách của nhà
nước, không phải li của bà T1. Sau này khi các bên phát sinh tranh chấp thì bà
T1 vẫn h trợ chở bà L đi nộp giấy tờ thì mới có Thông báo của Hội đồng tư vấn
hồi tháng 10/2024, bà L chỉ thanh toán chi phí xăng xe cho bà T1. Hôm đó ông
N1 chỉ dẫn mấy người bên ông T trước đó do ông N1 biết bà T1 đã làm sổ cho
người khác được, còn bà T1 làm việc và thương lượng trực tiếp với ông T. Còn
bà L thì sau này h trợ bà T1 ký các giấy tờ thủ tục để bà T1 làm thôi chứ không
tham gia gì khác. Theo nội dung zalo lần liên lạc cuối cùng của bà và ông T là là
sáng ngày 27/3/2023, bà T1 nghe nói sáng đó các bên ra UBND xã L chuyển
nhượng đất mà không được.
* Theo biên bản lấy li khai, biên bản đối chất, đơn xin vng mặt v ti
phiên tòa, kiến của ngưi lm chng ông Ngô Văn R, ông Ngô Văn P như sau:
Ông R, ông P là chú ruột ông T, hai ông có đi cùng ông T đến gặp ông N1
xem đất và thỏa thuận giá chuyển nhượng. Sau khi xem đất, thống nhất giá bán
thì ông R, ông P mới gặp và biết bà L là vợ ông N1. Khi chốt với ông N2 là ông
T mua thửa 303 có hình vuông (bao gồm cả phần chưa được cấp sổ phía sau) với
giá 5.550.000.000 đồng. Tuy nhiên, khi vào nhà gặp ông N1 và bà L, thì ông T
biết do trên cuốn sổ đỏ của thửa 303 không có con đường nên ông T cho rằng cần
mua thêm cả thửa 302 đều điều chỉnh, cập nhật 2 cuốn sổ đồng thời, giá của thửa
302 là 600.000.000 đồng nên mới chốt giá chuyển nhượng cho 2 thửa 302, 303
(và bao gồm cả phần sau chưa được cấp sổ là thửa 453) là 6.150.000.000 đồng.
Khi ông Nam giới T2 và ông N1 chỉ vào ngày đặt cọc thì đều chỉ thửa 303 là hình
vuông (bao gồm thửa 303 và thửa 453).
Ngày 24/3/2022, tại nhà bà L, ông T và bà L ký Hợp đồng đặt cọc để mua
hai thửa đất 302, 303 (gồm cả phần đất phía sau là thửa 453 hiện nay) của bà L,
ông T giao cho bà L 800.000.000 đồng tiền đặt cọc. Bản chất của Hợp đồng đặt
cọc là để mua thửa 303 theo diện tích thực tế và hình dạng vuông theo trụ bê tông
đã cắm. Diện tích ghi trong hợp đồng đặt cọc là tổng diện tích của thửa 303 và
phần đất chưa được cấp sổ phía sau. Các bên thỏa thuận phần đất phát sinh cấp
mới là bên A phải bán cho bên B mà không tăng thêm tiền, nội dung ghi thêm đầu
tiên là ông R, ông P ghi cùng ngày 24/3/2022. Do ông N1 nói là ông N1 lớn tuổi
rồi không đi làm sổ được, nếu cần ký gì thì ông N1 sẽ ký nên các bên mới thỏa
thuận ông T là người thực hiện các thủ tục cần thiết để ký hợp đồng chuyển
nhượng như cấp đổi sổ, cập nhật đường, làm thủ tục cấp sổ mới đối với phần chưa
được cấp giấy chứng nhận, chi phí của các thủ tục này do ông T chịu. Sau khi
thống nhất toàn bộ các nội dung này thì các bên mới thực hiện việc ký tên và lăn
tay. Toàn bộ việc này có sự chứng kiến của tất cả chúng ông R, ông P.

Ngày 04/4/2022, theo hợp đồng đặt cọc ngày 24/3/2022, ông T tiếp tục giao
cho bà L số tiền đặt cọc lần 2 là 2.200.000.000 đồng, tại Chi nhánh Ngân hàng
Agribank huyện B, có mặt ông N1, bà L, ông T, ông R, ông P và ông N2. Ông T
và bà L chốt lại tổng số tiền ông T đã đặt cọc cho bà L là 3.000.000.000 đồng.
Ngày 18/5/2022, ông T có giao thêm cho bà L, số tiền 1.000.000.000 đồng,
đây là số tiền ứng thêm theo yêu cầu của ông N1. Ông T và bà L chốt lại tổng số
tiền ông T đã giao cho bà L là 4.000.000.000 đồng. Hai bên thống nhất ghi bổ
sung vào mặt sau của Hợp đồng đặt cọc do ông R, ông P ghi có bà L ký tên lăn
tay xác nhận, nội dung bổ sung gồm có “trưng hp không đủ đất thực tế đang
sử dụng thì bên A trả li số tiền cho bên B đã cọc”. Hợp đồng đặt cọc ngày
24/3/2022 các bên ký kết để đảm bảo việc giao kết và thực hiện Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 302, 303 và phần đất phía sau của bà L
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Toàn bộ các nội dung bổ sung ở mặt sau Hợp đồng đặt cọc là do ông R ghi
thêm tại mi lần giao tiền, nội dung được sự thống nhất của các bên. Phần nội
dung bổ sung phía sau là phụ lục hợp đồng và có giá trị ràng buộc với cả hai bên
trong hợp đồng. Ông N1 tham gia vào toàn bộ quá trình giao dịch và thống nhất
với các nội dung mà các bên đã thống nhất. Tiền đặt cọc để đặt cọc chung cho cả
02 phần đất, không xác định mi phần đặt cọc bao nhiêu tiền. Ông T đã đặt cọc
cho bà L số tiền 3.000.000.000 đồng. Số tiền 1.000.000.000 ông T giao cho bà L
ngày 18/5/2022 là tiền bà L, ông Năng Ứ. trên mặt sau của Hợp đồng đặt cọc lại
ghi đưa thêm là do các bên thỏa thuận đưa thêm mà vẫn chưa ký được Hợp đồng
chuyển nhượng nên mới gọi là tiền ứng. Do ông N1 nói ông N1 lớn tuổi nên nhờ
ông T đi làm toàn bộ các thủ tục cần thiết để ký hợp đồng chuyển nhượng, việc
này các bên có ghi r trong Hợp đồng đặt cọc là do ông T thực hiện. Thủ tục gồm
làm thủ tục cập nhật đổi sổ, đo đạc và làm thủ tục cấp sổ mới đối với phần đất
phía sau ra tên ông N1 để thực hiện việc ký hợp đồng chuyển nhượng. Những việc
này do ông T tự làm, ông R, ông P không tham gia. Việc ký hợp đồng chuyển
nhượng thửa 302, do ông T tự làm, ông R, ông P không biết. Ông R, ông P có
nghe ông T nói là có đi làm thủ tục cấp mới thửa đất 453 mà làm không được.
Lúc ký hợp đồng đặt cọc thì không thỏa thuận thời hạn làm xong, tuy nhiên sau
này ông N1 có hứa khoảng thời gian 4 tháng là xong nên mới có thời hạn này.
Do ông N1, bà L cho ông T, nói với ông T là đã đủ giấy tờ hẹn ngày
27/3/2023 ra UBND xã L để ký hợp đồng chuyển nhượng rồi nên ông T kêu ông
R, ông P đi theo. Ngày 27/3/2023, ông T, ông R, ông P đến uBNd xã L, huyện D
thì có mặt vợ chồng ông N1, bà L. Khi thấy cán bộ xã L đánh máy nội dung hợp
đồng chuyển nhượng, nhưng nội dung của Hợp đồng chuyển nhượng chỉ có thửa
303 hình tam giác, không có phần đất phía sau, nên ông T nói không đủ diện tích
nên không đồng ý ký hợp đồng chuyển nhượng, thì ông R, ông P có nghe bên nhà
bà L nói là không ký thì mất cọc, sau đó ông R, ông P và ông T ra về.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 17/2025/DS-ST ngày 07 tháng 02 năm
2025, Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đã tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn T đối với bà
Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn N1 về việc “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất”.
1.1. Công nhận cho ông Ngô Văn T được quyền quản lý, sử dụng đối với
thửa 302, tờ bản đồ 02 có diện tích 577,9m
2
tọa lạc tại xã L, huyện D, tỉnh Bình
Dương theo giấy chứng nhận số DH 970902, số vào sổ CS 07367 do Sở Tài
nguyên mà Môi trường tỉnh B cấp ngày 30/9/2022 cho ông Ngô Văn T.
1.2. Tuyên bố giao dịch chuyển nhượng đối với thửa 303, 453 tờ bản đồ 02
tọa lạc tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương giữa ông Ngô Văn T với bà Nguyễn
Thị L trên hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất ngày 24/3/2022 giữa ông Ngô Văn T với bà Nguyễn Thị L vô hiệu.
1.3. Buộc bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn N1 có trách nhiệm liên đới
thanh toán cho ông Ngô Văn T số tiền 2.991.147.918 đồng (hai t chín trăm chín
mươi mốt triệu một trăm bốn mươi bảy ngàn chín trăm mười tám đồng).
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành
án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy
định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và
thời gian chưa thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn T về buộc bà
Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn N1 trả lại số tiền 1.008.852.082 đồng (một t
không trăm lẻ tám triệu tám trăm năm mươi hai ngàn không trăm tám mươi hai
đồng).
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn T về buộc bà
Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn N1 thanh toán số tiền chậm trả 733.000.000 đồng
(bảy trăm ba mươi ba triệu đồng).
4. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện khởi của ông Ngô Văn T đối với bà Nguyễn
Thị L về việc yêu cầu số tiền phạt vi phạm hợp đồng là 800.000.000 đồng (tám
trăm triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về ngha vụ chịu chi phí tố tụng, án phí, trách
nhiệm thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi tuyên án, bị đơn là bà Nguyễn Thị L kháng cáo toàn bộ Bản án sơ
thẩm. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn
giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.

- Về nội dung: Bản án sơ thẩm xét xử là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng
xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự không chấp nhận kháng
cáo của bị đơn Nguyễn Thị L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các đương
sự, ý kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị L làm trong thời hạn luật định nên
hợp lệ.
[2] Những người làm chứng gồm: Ông Lê Xuân N2, bà Đặng Hồ Ngọc T1
có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Tòa án tiếp tục xét xử theo thủ tục chung.
[3] Quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn ông Ngô Văn T rút một
phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn
tiền phạt cọc là 800.000.000đ (Tám trăm triệu đồng). Việc rút một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, Tòa án cấp sơ thẩm đình chỉ xét xử đối
với phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn đã rút là đúng quy định tại khoản 2 Điều
244 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Về nội dung:
Ngày 24/3/2022, giữa bà Nguyễn Thị L và ông Ngô Văn T đã thỏa thuận
chuyển nhượng 02 thửa đất số 302 và 303 tờ bản đồ 02, diện tích 02 thửa đất là
2.856m
2
trong đó có 300m
2
đất thổ cư và 2.556m
2
đất cây lâu năm tại ấp H (nay
là ấp H), xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương. Giá chuyển nhượng là 6.150.000.000đ
(sáu t một trăm năm mươi triệu đồng). Các thửa đất 302, 303 tờ bản đồ 02 do
các bên thỏa thuận chuyển nhượng hiện bà Nguyễn Thị L đã được Ủy ban nhân
dân huyện D cấp các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Số AD9 242741, số vào
sổ cấp GCNQSDĐ: H01250/QĐ-UB, ngày 26/7/2006, diện tích 911m
2
(thửa 302)
và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AE 206933, số vào sổ cấp GCNQSDĐ:
H01433/QĐ-UB, ngày 17/11/2006 đối với thửa 303, tờ bản đồ 02 diện tích
1.945m
2
(thửa 303).
Tại văn bản “Hp đng đặt cọc tiền chuyn nhưng đất...” lập ngày
24/3/2022 giữa bên A (bà L) và bên B (ông T) có sự chứng kiến của người làm
chứng Lê Xuân N2 thể hiện nội dung thỏa thuận của các bên “Din tích đất chuyn
nhưng l 2.856m
2
, trong đó có 300m
2
đất ở nông thôn thuộc 02 thửa 302 v 303,
trên đất có ti sản l cây cao su do b L trng, giá chuyn nhưng cả hai thửa
đất l 6.150.000.000đ. Ngy 24/3/2022, bên B đặt cọc cho bên A 800.000.000đ.
Ngy 04/4/2022 thanh toán lần 2: 2.200.000.000đ, lần 3 sau khi ra Phòng công
chng hp đng chuyn nhưng bên B sẽ thanh toán hết số tiền còn li. Hình thc
bên B (ông T) đi lm sổ”. Phía sau văn bản đặt cọc có ghi thêm dòng chữ “Đất
phát sinh cấp mới ton bộ đất l bên A phải bán cho bên B hết m không tăng
thêm tiền” có thể hiện bên A “Nguyễn Thị L” ký tên, ghi họ tên, lăn tay xác nhận
nội dung. Toàn bộ quá trình thỏa thuận chuyển nhượng đất, giao nhận tiền cọc,

tiền đưa thêm giữa ông T, bà L, ông Lê Văn N3 xác định biết r và đồng ý việc
chuyển nhượng nhưng do là vợ chồng nên ông N3 để bà L đứng ra thực hiện giao
dịch với ông T.
[5] Về thực hiện quyền và ngha vụ của các bên theo nội dung Hợp đồng
đặt cọc ngày 24/3/2022:
- Ông T đã đặt cọc cho bà L số tiền 800.000.000đ (tám trăm nghìn đồng)
ngày 24/3/2022; hai bên thống nhất số tiền thanh toán lần 2 vào ngày 04/4/2022
là 2.200.000.000đ và lần 3 ngày 18/5/2022 là 1.000.000.000đ, tổng số tiền ông T
đã giao cho bà L và ông T trong 03 đợt là 4.000.000.000đ (bốn t đồng). Số tiền
chuyển nhượng theo thỏa thuận còn lại 2.150.000.000đ (hai t một trăm năm mươi
triệu đồng) hai bên có thỏa thuận sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, ông T
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới thanh toán đủ cho bà L. Trên
thực tế đến nay ông T chưa thanh toán số tiền này cho bà L, ông N3.
- Ông T đã thực hiện cập nhật biến động diện tích, đối với thửa 302 bị giảm
một phần diện tích do làm đường giao thông nhưng khi cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất không có cập nhật biến động về diện tích đất theo quyết định
2503/QĐ-UBND ngày 04/8/2022 của Ủy ban nhân dân huyện D và 01 phần do
thuộc hành lang lộ giới, đo đạc thực tế ngày 06/6/2022, diện tích đất thửa 302 còn
lại 577,9m
2
. Ngày 30/8/2022, bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn N1 đã ký hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất 302 tờ bản đồ 02 tại xã L, huyện D,
diện tích 577,9m
2
cho ông Ngô Văn T theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất được UBND xã L chứng thực số 300, quyển số 03/2022-SCT/HĐGD.
Ngày 30/9/2022, ông Ngô Văn T đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DH 970902, số vào sổ cấp GCN
CS07367, diện tích 577,9m
2
thửa 302, tờ bản đồ 02.
- Đối với thửa đất số 303, tờ bản đồ 02 tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương,
ông T đã tiến hành đo đạc thực hiện yêu cầu chỉnh lý biến động về diện tích. Đến
ngày 26/8/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B đã cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mới số DH 950800, số vào sổ cấp GCN CS07241 cho bà
Nguyễn Thị L, diện tích sau khi đo đạc chỉnh lý thực tế giảm 46,6m
2
còn lại là
1.898,4m
2
trong đó có 300m
2
đất ở nông thôn và 1.598,4m
2
đất trồng cây lâu năm.
- Đối với thửa đất 453, tờ bản đồ 02 tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương
cng do ông Ngô Văn T được bà L ủy quyền làm thủ tục xin cấp mới giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Ngày 31/12/2024, Ủy ban nhân dân huyện D, tỉnh Bình
Dương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DQ 723409, số vào sổ cấp
GCN CH09634 cho bà Nguyễn Thị L diện tích 1.046,6m
2
loại đất trồng cây lâu
năm.
[6] Tại văn bản số 113/PTNMT-QLĐT ngày 06/3/2024 của Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện D thực hiện ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện
D trả lời yêu cầu cung cấp chứng cứ của Tòa án sơ thẩm (Bút lụt 215): Thửa đất
303, tờ bản đố số 02 tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương đã được Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị

L ngày 26/8/2022 nên bà L có toàn quyền của người sử dụng đất, trong đó có
quyền chuyển nhượng.
[7] Tại văn bản số 52/UBND-KT ngày 05/4/2024 của UBND xã L, huyện
D, tỉnh Bình Dương (BL 240) đã xác định thửa đất 453, tờ bản đồ 02 diện tích
1.046,6m
2
đủ điều kiện để xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bà L, diện tích đất nêu trên không thuộc quỹ đất công ích do địa phương quản lý,
không thuộc diện quy hoạch tại địa phương.
[8] Xét đối tượng của Hợp đồng đặt cọc tiền chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất lập ngày 24/3/2022 là quyền sử dụng đất diện tích
2.856m
2
thuộc thửa đất số 302, 303, tờ bản đồ số 2, tọa lạc tại xã L, huyện D, tỉnh
Bình Dương, giữa bà Nguyễn Thị L (Bên A) và ông Ngô Văn T (Bên B), có nội
dung thỏa thuận: Ông T (Bên B) là người chịu trách nhiệm đi làm thủ tục và trên
thực tế các tài liệu do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện D cung cấp
thể hiện bà L có văn bản ủy quyền cho ông Ngô Văn T thay bà L thực hiện các
thủ tục đo đạc chỉnh lý diện tích để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mới cho bà L. Thực hiện ủy quyền của bà L thì ông T đã ký tên xác lập trên các
tài liệu, giấy tờ xin cấp đổi, điều chỉnh diện tích đất trên giấy chứng nhận của bà
L gửi cơ quan có thẩm quyền. Do đó, ông T cho rằng do thửa đất 303 bị giảm diện
tích 46,6m
2
(1.945m
2
/1.898,4m
2
) không đủ diện tích như thỏa thuận ban đầu và
diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ban đầu nên không đồng ý
nhận chuyển nhượng là không có căn cứ. Bởi lẽ, diện tích đất thửa 302 có diện
tích ban đầu theo sổ là 911m
2
nhưng sau khi đo đạc lại diện tích giảm còn 577,9m
2
,
ngày 30/8/2022, ông T vẫn chấp nhận ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn thành và đến ngày
30/9/2022, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B đã cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa đất 302 tờ bản đồ số 2 diện tích 577,9m
2
cho ông Ngô Văn T.
[9] Đối với thửa đất số 303 và phần đất liền kề là thửa đất số 453 tờ bản đồ
02: Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, ngày 11/8/2022, bị đơn bà L ủy quyền cho ông
T đối với thửa đất số 303, tờ bản đồ số 02 để ông T thực hiện các thủ tục pháp lý:
kiểm tra hiện trạng, xác định ranh giới, cắm mốc, phục hồi cột mốc, ký liên ranh,
trích lục hồ sơ cung cấp thông tin đo đạc, điều chỉnh diện tích, đăng ký biến động,
tách thửa, hợp thửa… (ủy quyền có chứng thực của Văn phòng C, số công chứng
6908, quyển số 01/2022 TP/CC-SCC/HĐGD). Ngày 26/8/2022, bà L đã được Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DH
950800, số vào sổ CS 07241. Ngày 07/11/2022, bị đơn bà L ủy quyền cho người
làm chứng bà Đặng Hồ Ngọc T1 thực hiện các thủ tục xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đối với phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là thửa đất số 453, tờ bản đồ số 02. Ngày 31/12/2024, bà L đã được Ủy
ban nhân dân huyện D cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DQ723409, số
vào sổ CH09634. Xét thấy đến nay thửa đất số 453 đã đủ điều kiện chuyển nhượng
nên Hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất 302, 303, tờ
bản đồ 02 tại ấp H, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương lập ngày 24/3/2022 giữa bà
Nguyễn Thị L và ông Ngô Văn T đã phát sinh hiệu lực pháp luật. Trong đó các
bên đã thực hiện xong 2/3 quyền và ngha vụ của các bên theo thỏa thuận trong

hợp đồng đặt cọc nói trên, cụ thể: bà L, ông N1 đã ký hợp đồng chuyển nhượng
toàn bộ diện tích đất 577,9m
2
thuộc thửa 302, tờ bản đồ 02 cho ông Ngô Văn T
và ông Ngô Văn T đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số DH 970902, số vào sổ cấp GCN CS07367, ngày
30/9/2022. Như vậy nội dung thỏa thuận về quyền và ngha vụ của các bên tham
gia giao dịch đặt cọc ngày 24/3/2022 về việc chuyển nhượng hai thửa đất 302,
303 tờ bản đồ 02, diện tích 2.856m
2
với số tiền chuyển nhượng 02 thửa đất là
6.150.000.000đ, tiền đặt cọc là 800.000.000đ, tiền chuyển nhượng giao thêm 02
lần ngày 04/4 và 18/5/2022 là 3.200.000.000đ. Số tiền chuyển nhượng còn lại
chưa thanh toán là 2.150.000.000đ. Các bên đã thực hiện xong 2/3 quyền và ngha
vụ của mình theo thỏa thuận nên hợp đồng đặt cọc nói trên đã chuyển hóa thành
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan
hệ pháp luật tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất để thụ lý, giải quyết là đúng quy định pháp luật.
[10] Do các thửa đất còn lại 303 và 453 tờ bản đồ 02 trong đó thửa đất 453
hiện nay bà L cng đã được Ủy ban nhân dân huyện D cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ngày 31/12/2024, diện tích 1.046,6m
2
, thửa đất này không thuộc đối
tượng thỏa thuận chuyển nhượng giữa các bên tại hợp đồng ngày 24/3/2022 nhưng
quá trình tố tụng tại 02 cấp sơ thẩm, phúc thẩm bà L, ông N1 vẫn xác định sẽ bàn
giao thửa đất này cho nguyên đơn Ngô Văn T mà không đòi hỏi ông T phải trả
thêm tiền chuyển nhượng. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (UBND huyện
D, UBND xã L) đều có văn bản trả lời Tòa án sơ thẩm 02 thửa đất 303, 453 tờ
bản đồ 02 hiện nay không thuộc đất công, không bị tranh chấp, không bị quy
hoạch giải tỏa đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định. Văn bản thỏa thuận đặt
cọc ngày 24/3/2022 giữa bà L, ông T cng không thỏa thuận thời hạn phải hoàn
tất thủ tục ký chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại cơ quan Công chứng. Do đó
giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên đã phát sinh hiệu lực bắt
buộc các bên phải thực hiện quyền và ngha vụ của mình theo thỏa thuận. Ông
Ngô Văn T không thực hiện ngha vụ của mình theo thỏa thuận là ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và thanh toán số tiền chuyển nhượng còn lại
2.150.000.000đ cho bị đơn bà Nguyễn Thị L, người có quyền lợi ngha vụ liên
quan Nguyễn Văn N1 là đã vi phạm thỏa thuận ngày 24/3/2022. Bà Nguyễn Thị
L, ông Nguyễn Văn N1 vẫn mong muốn tiếp tục chuyển nhượng các thửa đất nêu
trên cho ông T nhưng do ông T không ký hợp đồng chuyển nhượng tại cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền nên bà L, ông N1 không có li trong giao dịch nói trên.
[11] Như đã phân tích trên, Hợp đồng đặt cọc ngày 24/3/2022 giữa ông Ngô
Văn T và bà Nguyễn Thị L về thỏa thuận chuyển nhượng 02 thửa đất 302, 303 tờ
bản đồ 02 tại ấp H, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương đã phát sinh hiệu lực. Do đó,
việc Tòa án cấp sơ thẩm tuyên giao dịch chuyển nhượng đối với thửa 303, 453 tờ
bản đồ 02 tọa lạc tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương giữa ông Ngô Văn T với bà
Nguyễn Thị L trên hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất ngày 24/3/2022 bị vô hiệu. Tuyên buộc bà Nguyễn Thị L, ông
Nguyễn Văn N1 có trách nhiệm liên đới thanh toán cho ông Ngô Văn T số tiền
2.991.147.918 đồng là chưa đủ căn cứ, không đúng quy định pháp luật. Hội đồng

xét xử cần sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, công nhận hợp đồng đặt cọc (đã chuyển thành thỏa thuận
chuyển nhượng) để chuyển nhượng quyền sử dụng các thửa đất 302, 303, tờ bản
đồ 02 tại ấp H, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương lập ngày 24/3/2022 giữa bà
Nguyễn Thị L và ông Ngô Văn T là có hiệu lực. Các bên tiếp tục thực hiện quyền
và ngha vụ của mình theo thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy bị
đơn Nguyễn Thị L không có yêu cầu phản tố, người có quyền lợi ngha vụ liên
quan Nguyễn Văn N1 không có yêu cầu độc lập về việc buộc nguyên đơn Ngô
Văn T thanh toán số tiền chuyển nhượng còn lại 2.150.000.000đ nhưng để giải
quyết triệt để vụ án, cần buộc ông Ngô Văn T có trách nhiệm thanh toán cho bà
Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn N1 số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất
còn lại là 2.150.000.000đ (hai t một trăm năm mươi triệu đồng). Sau khi thanh
toán xong số tiền trên ông Ngô Văn T được quyền quản lý, sử dụng các thửa đất
303, tờ bản đồ 02, diện tích 1.898,4m
2
trong đó có 300m
2
đất ở nông thôn và
1.598,4m
2
đất trồng cây lâu năm và khu đất diện tích 1.046,6m
2
đất cây lâu năm
thuộc thửa 453, tờ bản đồ 02 tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương.
[12] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề
nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm là chưa phù hợp nên không chấp nhận.
[13] Chi phí đo đạc, thẩm định, định giá: Nguyên đơn Ngô Văn T phải chịu
do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận.
[14] Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn Ngô Văn T phải chịu đối với yêu
cầu khởi kiện không được chấp nhận theo quy định pháp luật. Nguyên đơn phải
chịu án phí có giá ngạch đối với yêu cầu trả tiền và tiền lãi chậm trả của nguyên
đơn không được chấp nhận.
[15] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị L không phải chịu do
chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148; Điều 296; khoản 2 Điều 308; Điều 313 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
- Căn cứ vào các điều 328, 401, 406, 410, 413, 500, 501, 503 của Bộ luật
Dân sự;
- Căn cứ Điều 166, 167, 168, 188 Luật Đất đai năm 2013;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị L.
2. Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 27/2025/DS-ST ngày 27/02/2025
của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương như sau:

2.1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Văn T đối với bà Nguyễn Thị
L về việc yêu cầu số tiền phạt vi phạm hợp đồng là 800.000.000 đồng (tám trăm
triệu đồng).
2.2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngô Văn T đối
với bị đơn bà Nguyễn Thị L về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc (hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất) lập ngày 24/3/2022 giữa ông Ngô Văn T với bà
Nguyễn Thị L về giao dịch chuyển nhượng đối với thửa 303, 453 tờ bản đồ 02 tọa
lạc tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương.
2.3. Công nhận hợp đồng đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng các
thửa đất 302, 303, tờ bản đồ 02 tại ấp H, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương lập ngày
24/3/2022 giữa bà Nguyễn Thị L và ông Ngô Văn T là có hiệu lực.
Buộc ông Ngô Văn T thanh toán cho bà Nguyễn Thị L, ông Nguyễn Văn
N1 số tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất còn lại là 2.150.000.000đ (hai t
một trăm năm mươi triệu đồng).
2.4. Sau khi thanh toán xong số tiền chuyển nhượng 2.150.000.000đ (hai t
một trăm triệu đồng ), ông Ngô Văn T được quyền quản lý, sử dụng 02 (hai) thửa
đất bao gồm: Thửa đất 303, tờ bản đồ 02, diện tích 1.898,4m
2
(bao gồm 300m
2
đất ONT và 1.046,6m
2
đất CLN) cùng tài sản là cây trồng (cao su) trên đất tọa lạc
tại ấp H, xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương và thửa đất số 453, tờ bản đồ 02, diện
tích 1.046,6m
2
loại đất CLN cùng tài sản là cây trồng (cao su) trên đất. Ông Ngô
Văn T không phải bù hoàn giá trị cây trồng (cao su) trên đất cho bà Nguyễn Thị
L, ông Nguyễn Văn N1.
(Kèm theo sơ đ bản vẽ)
2.5. Ông Ngô Văn T được tiếp tục quản lý, sử dụng đối với thửa 302, tờ
bản đồ 02 có diện tích 577,9m
2
tọa lạc tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương theo
giấy chứng nhận số DH 970902, số vào sổ CS 07367 do Sở Tài nguyên mà Môi
trường tỉnh B cấp ngày 30/9/2022 cho ông Ngô Văn T.
2.6. Kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B thu hồi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DH 950800 (số vào sổ cấp giấy CN CS 07241) đã cấp cho
bà Nguyễn Thị L ngày 26/8/2022 đối với thửa đất 303, tờ bản đồ 02 tại xã L,
huyện D, tỉnh Bình Dương để cấp lại cho ông Ngô Văn T theo nội dung quyết
định bản án này.
2.7. Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện D, tỉnh Bình Dương thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số DQ 723409 (số vào sổ cấp giấy CN CH 09634)
đã cấp cho bà Nguyễn Thị L ngày 31/12/2024 đối với thửa đất 453, tờ bản đồ 02
tại xã L, huyện D, tỉnh Bình Dương để cấp lại cho ông Ngô Văn T theo nội dung
quyết định bản án này.
3. Về chi phí đo đạc, thẩm định, định giá: Ông Ngô Văn T phải nộp
5.421.228 đồng. Ông T đã nộp xong.
4. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Ngô Văn T phải chịu số tiền 75.000.000đ
(bảy mươi lăm triệu đồng chẵn) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp

30.620.000đ (ba mươi triệu sáu trăm hai mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí ông T
đã nộp theo hai biên lai thu số AA/2021/0011497 ngày 28/3/2023 và 0000370
ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình
Dương. Ông Ngô Văn T còn phải nộp thêm số tiền 44.380.000đ (bốn mươi bốn
triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng chẵn).
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị L không phải chịu. Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương hoàn trả cho bà L số tiền
đã tạm ứng là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0007349 ngày
05/3/2025.
6. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
7. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS huyện Dầu Tiếng;
- TAND huyện Dầu Tiếng;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Thanh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm