Bản án số 335/2025/DS-PT ngày 17/11/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 335/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 335/2025/DS-PT ngày 17/11/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 335/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/11/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Trần Bích T1, giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm số 60/2023/DS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2023 của Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 – Lâm Đồng).
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 335/2025/DS-PT
Ngày: 17-11-2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng
đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phn Hội đng xét x phúc thm gm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Huỳnh Châu Thạch
Các Thẩm phán: Bà Vũ Thị Nguyệt
Ông Nguyễn Thành Tâm
- Thư phiên toà: Ông Nguyễn Đạt Nguyên Thư Tòa án, Toà án
nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thanh Hương – Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 11 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 52/2024/TLPT-DS ngày 08 tháng 4 năm
2024 về tranh chấp:“Quyền sử dụng đất”.
Do Bản án n sự thẩm số 60/2023/DS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2023
của Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 - Lâm
Đồng) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 89/2024/QĐ-PT ngày
10 tháng 4 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 496/2025/QĐ-PT
ngày 27 tháng 10 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Lưu Hồng V, sinh năm: 1979; trú tại I,
đường N, phường X - Đ, tỉnh Lâm Đồng; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Tuấn A, sinh năm: 1992; địa chỉ
liên hệ: số C, đường M, phường C - Đ, tỉnh Lâm Đồng, là người đại diện theo ủy
quyền (Văn bản y quyền số 1133, quyển số 04/2024TP/CC-SCC/HĐGD do
Văn phòng C chứng nhận ngày 26/4/2024); có mặt.
2
- Bị đơn: Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, sinh năm: 1968, Nguyễn Trần
Bích T1, sinh năm 1970; trú tại B, khu Q - T, phường L - Đ, tỉnh Lâm
Đồng; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Nguyễn Văn L, sinh năm:
1954; địa chỉ liên hệ: số A, đường N, phường L - Đ, tỉnh Lâm Đồng Luật
của Văn phòng L1 - Đoàn Luật sư tỉnh L; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (nay Trung
tâm phát triển quỹ đất tỉnh Lâm Đồng).
2. Bà Nguyễn Thị Minh T2, sinh năm: 1964; vắng mặt.
3. Chị Nguyễn Ngọc Quỳnh T3, sinh năm: 2003; vắng mặt.
4. Anh Nguyễn Minh T4, sinh năm: 2008; vắng mặt.
Cùng cư trú tại lô B, khu Q - T, phường L - Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Minh T4: Vợ chồng ông Nguyễn
Văn T, sinh năm: 1968, Nguyễn Trần Bích T1, sinh năm 1970; trú tại
B, khu Q - T, phường L - Đ, tỉnh Lâm Đồng; có mặt.
- Người kháng cáo: Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Trần Thị Bích T5
Bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo nội dung đơn khởi kiện ghi ngày 14/12/2020; đơn sửa đổi, bổ sung
đơn khởi kiện ghi ngày 23/12/2020 của bà Nguyễn Lưu Hồng V; lời trình bày tại
các bản tự khai và trong quá trình tham gia tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm của ông
Nguyễn Tuấn A, người đại diện hợp pháp của V, thì: Nguồn gốc diện tích
200m
2
đất đô thị thuộc thửa 1611, tờ bản đồ số 12 (46d) tại tọa lạc tại B,
khu Q - T, Phường H, thành phố Đ (nay là phường L - Đ), tỉnh Lâm Đồng thuộc
quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Phạm Hữu H, Trần Thị N được nhà
nước cấp tái định vào tháng 5/2012; Quyết định giao đất, biên bản cắm
mốc giao đất trên thực địa. Ngày 04/10/2013 vợ chồng ông H, N được Ủy
ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở tài sản gắn liền với đất số BO 337333. Ngày 17/01/2019 vợ chồng
ông H, bà N chuyển nhượng lại phần diện tích đất trên cho V; được Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ cập nhật biến động tại trang 4
vào ngày 20/02/2019.
Vào thời điểm nhận chuyển nhượng thì hiện trạng là đất trống, không có tài
sản hay cây trồng trên đất. Sau khi nhận chuyển nhượng, V tiến hành các thủ
3
tục để xin cấp giấy phép xây dựng vào tháng 6/2019, qua đo đạc cho thấy phần
diện tích đất thuộc thửa 1611 so với Giấy chứng nhận quyền sdụng đất được
cấp là thiếu khoảng 05m
2
. Phần diện tích đất thiếu này giáp thửa 1610 tờ bản đồ
số 12 (46d) do vợ chồng ông T, T5 đang trực tiếp sử dụng. Trên phần đất
này, hộ ông T, T5 xây dựng hệ thống tường rào kiên cố (phía chân đá chẻ,
phía trên tường gạch trụ bê tông xây tô) dài hơn 20m; chiều cao thì cao quá
đầu người.
Theo Mảnh đo đạc chỉnh (bổ sung) thửa đất theo hiện trạng do Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ lập ngày 19/9/2023 (được chỉnh
sau khi Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đ kiểm tra, khôi phục ranh
mốc) xác định phần diện tích đất này là 5,44m
2
.
Do vậy, bà Nguyễn Lưu Hồng V đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết buộc hộ ông T, T5 phải trả lại diện tích đất lấn chiếm 5,44m
2
đất
thuộc một phần thửa 1611 TBĐ 12 (46D) tọa lạc tại B, khu quy hoạch
Nguyên Tử L - T, Phường H, thành phố Đ được thể hiện tại Mảnh đo đạc chỉnh
(bổ sung) thửa đất theo hiện trạng do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
thành phố Đ lập ngày 19/9/2023, chỉnh sau khi Trung tâm phát triển quỹ đất
thành phố Đ kiểm tra, khôi phục ranh mốc được thể hiện tại họa đồ; buộc vợ
chồng ông T, T5 phải di dời toàn bộ tài sản trên đất tranh chấp gồm hệ
thống tường rào – phía chân là đá chẻ, phía trên là tường gạch trụ bê tông xây tô
do hộ ông T T5 tạo dựng trên toàn bộ diện tích đất tranh chấp thuộc một
phần thửa 1611.
- Theo lời trình bày của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích
T1 thì:
+ Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất:
Tại Quyết định số 2416/QĐ-UB ngày 14/7/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh
L về việc phân quy hoạch. Theo Quyết định số 1505/QĐ-UB ngày 15/6/2011
của Ủy ban nhân dân thành phố Đ thì ngày 15/6/2011 ông T được Trung tâm
phát triển quỹ đất thành phố Đ lập biên bản bàn giao đất tại thực địa đối với diện
tích 310,67m
2
thuộc thửa 1610, tờ bản đồ số 12 (46d) tại B, khu quy hoạch
Nguyên Tử L - T, Phường H, thành phố Đ. Ngày 26/6/2012 vợ chồng ông,
được Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BK 743265 đối với phần diện tích đất được giao theo biên bản lập ngày
15/6/2011.
Theo đó, vợ chồng ông, đã hoàn thành thủ tục xin cấp giấy phép xây
dựng nhà ở được Ủy ban nhân dân thành phố Đ duyệt hồ sơ thi công nhà ở tại
B, khu quy hoạch Nguyên Tử L - T, Phường H, thành phố Đ vào ngày
26/6/2012 và được cấp giấy phép xây dựng số 551/GPXD ngày 26/6/2012. Theo
4
hồ cấp phép thì vợ chồng ông, được xây căn nhà cấp 4 hạng 2 kết cấu 01
trệt, 01 lầu diện tích sàn 216,28m
2
trên đất để ở.
Trong quá trình xây dựng, đại diện Phòng quản đô thị thành phố Đ đã
thẩm định móng đúng theo bản vẽ, hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng kết
luận: “Đồng ý tiếp tục thi công theo giấy phép hồ sơ thiết kế được duyệt các
nội dung được xác lập tại văn bản thẩm định định vị móng”.
Ngày 26/02/2013 v chồng đã thực hiện thủ tục hoàn công để được
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sở hữu tài sản trên đất.
Ngày 09/7/2013 Ủy ban nhân dân Phường H1 văn bản thông báo công
khai hồ gắn tài sản tại phường trong thời gian từ ngày 10/7/2013 đến ngày
25/7/2013. Ngày 25/7/2013 Ủy ban nhân dân Phường H1 lập biên bản kết thúc
công khai hồ sơ. Ngày 23/8/2013 Văn phòng đăng quyền sử dụng đất thẩm
định hiện trạng tài sản gắn với đất.
Ngày 19/9/2013 Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nvà tài sản khác gắn liền với đất số BN 662412
đối với quyền sử dụng đất tài sản trên thửa đất 1610, tờ bản đồ gốc 12
(46d) tại lô B, khu quy hoạch Nguyên Tử L - T, Phường H, thành phố Đ.
Thực tế trong quá trình thi công nhà giữa vợ chồng ông, bà và gia đình ông
H, N thỏa thuận với nhau mỗi bên bỏ ra từ 10 >15cm x dài 20m để làm
móng nền xây dựng hàng rào chung, chi phí trước do gia đình vợ chồng ông,
bỏ ra xây để hoàn thiện. Sau này gia đình ông N tiến hành xây nsẽ hoàn lại
sau do vậy hiện tại bước tường móng được xây đè lên ranh giới chung đã
được thỏa thuận hoàn công từ năm 2013. Việc thỏa thuận này giữa hai bên
chỉ bằng lời nói, không lập văn bản, giấy tờ gì. Cho đến trước thời điểm
chuyển nhượng đất cho bà V vào tháng 01/2019 vợ chồng ông H, bà N không có
ý kiến hay tranh chấp gì về ranh giới đất.
Căn cứ vào thỏa thuận giữa vợ chồng ông, bà và vợ chồng ông H, bà N; đối
chiếu với kết quả đo vẽ theo Mảnh đo đạc chỉnh lý, (bổ sung) thửa đất theo hiện
trạng do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ lập ngày 19/9/2023
xác định phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông H, bà N
được xây tường rào là 1,39m
2
(mặt tiền 14cm, đuôi đúng với hiện trạng sử
dụng x chiều dài là 20,1m) với lý do căn cứ biên bản giao đất của ông T và biên
bản giao đất của vợ chồng ông H, N trong quá trình hoàn công mới phát hiện
ra và thỏa thuận bằng lới nói với nhau.
Do vậy, việc bà V khởi kiện yêu cầu vợ chồng ông, bà phải di dời hàng rào,
trả lại diện tích đất lấn chiếm thì vợ chồng ông, bà không đồng ý.
+ Về người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất: Hiện tại phần nhà, quyền
sử dụng đất trên do vợ chồng ông, bà; 02 con Nguyễn Ngọc Quỳnh T3,
5
Nguyễn Minh T4 chị gái tên Nguyễn Thị Minh T2 đang trực tiếp quản lý, sử
dụng.
- Theo lời trình bày của người đại diện hợp pháp của Ban Q (nay Trung
tâm phát triển quỹ đất tỉnh Lâm Đồng) thì: Căn cứ Quyết định 2416/QĐ-UBND
ngày 14/7/2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Đ về việc phê duyệt quy hoạch
chi tiết xây dựng khu dân tái định đường N L, Phường H, thành phố Đ;
Quyết định 3952/QĐ-UBND ngày 16/11/2011 của Ủy ban nhân dân thành phố
Đ về việc điều chỉnh cục bộ quy hoạch chi tiết xây dựng khu dân tái định
cư đường N L, Phường H, thành phố Đ.
Ngày 15/6/2011 Ủy ban nhân dân thành phố Đ ban hành Quyết định số
1505/QĐ-UBND về việc giao đất làm nhà ở tại thành phố Đ, giao đất tái định cư
(theo chế tái định cư) cho ông Nguyễn Văn T B1 diện tích 310,6m
2
(kèm
họa đồ giao đất làm nhà ở).
Sau khiQuyết định, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đ tiến hành
cắm mốc bàn giao đất cho ông Nguyễn Văn T (kèm biên bản về việc cắm mốc
giao đất tại khu quy hoạch dân tái định đường N L, Phường H, thành
phố Đ)
Ngày 18/12/2012 Ủy ban nhân dân thành phố Đ ban hành Quyết định số
3814/QĐ-UBND về việc giao đất làm nhà ở tại Phường H, thành phố Đ, giao đất
tái định (theo chế tái định cư) cho ông (bà) Phạm Hữu H Trần Thị N
(kèm biên bản về việc cắm mốc giao đất tại Khu quy hoạch dân tái định
đường N L, Phường H, thành phố Đ)
Việc bàn giao đất tái định cư cho các hộ được giao đất (ông Nguyễn Văn T,
ông bà Phạm Hữu H Trần Thị N), Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đ đã
thực hiện đúng theo quy hoạch phân tại Quyết định số 2416/QĐ-UBND ngày
14/7/2010 về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng khu dân tái định
đường N L, Phường H, thành phố Đ, Quyết định số 1505/QĐ-UBND ngày
15/6/2011 về việc giao đất làm nhà tại thành phố Đ, giao đất tái định (theo
chế tái định cư) cho ông Nguyễn Văn T, Quyết định số 3814/QĐ-UBND
ngày 18/12/2012 về việc giao đất làm nhà ở tại Phường H, thành phố Đ, giao đất
tái định (theo chế tái định cư) cho ông Phạm Hữu H, bà Trần Thị N (kèm
biên bản về việc cắm mốc giao đất tại Khu quy hoạch dân cư, tái định đường
N L, Phường H, thành phố Đ) của Ủy ban nhân dân thành phố Đ
Hộ ông Nguyễn Văn T hộ ông ông Phạm Hữu H, Trần Thị N sau khi
nhận đất đã quản lý, sử dụng, xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
xây dựng công trình trên đất.
6
- Bà Nguyễn Thị Minh T2; chị Nguyễn Ngọc Quỳnh T3; anh Nguyễn Minh
T4 đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do
và không có văn bản phản hồi ý kiến cho Tòa án.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án số 60/2023/DS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2023; Toà án nhân
dân thành phố Đà Lạt (nay là Tòa án nhân dân khu vực 1 - Lâm Đồng) đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Lưu Hồng V.
+ Buộc ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1 phải trả lại cho
Nguyễn Lưu Hồng V diện tích 5,44m
2
đất ở đô thị thuộc một phần thửa 1611, tờ
bản đồ số 12 (46d) tại B, khu quy hoạch Nguyên Tử L - T, Phường H, thành
phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (tương ứng với diện ch đất tại vị trí 2, 3 của mảnh đo
đạc chỉnh (bổ sung) thửa đất theo hiện trạng do Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thành phố Đ thiết lập ngày 19/9/2023);
+ Ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1, Nguyễn Thị Minh T2,
chị Nguyễn Thị Minh T6, và anh Nguyễn Minh T4 có trách nhiệm di dời toàn bộ
hệ thống tường rào trên diện tích 5,44m
2
đất đô thị thuộc một phần thửa
1611, tờ bản đồ số 12 (46d) tại B2 khu quy hoạch Nguyên Tử L - T, Phường
H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo
trách nhiệm thi hành án của các đương sự.
Ngày 08/01/2024 vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1
kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa,
Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1 vẫn giữ nguyên
kháng cáo.
Luật sư bảo vquyền và lợi ích hợp pháp của bđơn đề nghị chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, sửa Bản án thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn.
Ông Nguyễn Tuấn A, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, không
đồng ý với kháng cáo của vợ chồng ông T, bà T1, đề nghị giữ nguyên Bản án
thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân
theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Về nội dung: Không chấp nhận
kháng cáo của vợ chồng ông T, bà T1 giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
7
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của vợ chồng ông Nguyễn
Văn T, bà Nguyễn Trần Bích T1 được thực hiện theo đúng quy định tại các Điều
271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2025 nên đủ điều kiện để Hội đồng
xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích
T1 thì thấy rằng:
[2.1] Theo hồ sơ vụ án thể hiện: Diện tích đất thuộc thửa 1611, tờ bản đồ số
12 (46d) tọa lạc tại lô B, khu quy hoạch Nguyên Tử L - T, Phường H, thành phố
Đ (nay là phường L - Đ), tỉnh Lâm Đồng có nguồn gốc được Nhà nước giao đất
tái định để làm nhà theo Quyết định số 3814/QĐ-UBND ngày 18/12/2012
của Ủy ban nhân dân thành phố Đ cho vợ chồng ông Phạm Hữu H, Trần Thị
N. Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đ đã lập biên bản cắm mốc giao đất
cho vợ chồng ông H, N vào ngày 31/01/2013. Đến ngày 04/10/2013 Ủy ban
nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số BO 337333 cho vợ chồng ông H, N
với diện tích 200m
2
, thuộc thửa 1611, tờ bản đồ số 12 (46d). Sau đó, vợ chồng
ông H, N đã chuyển nhượng toàn bộ đất này cho Nguyễn Lưu Hồng V
và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ cập nhật sang tên tại
trang 4 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên.
Liền kề đất nói trên diện tích đất thuộc thửa 1610, tbản đồ số 12
(46d) của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Trần Bích T1 cũng có nguồn
gốc được Nhà nước giao đất tái định để làm nhà theo Quyết định số
1505/QĐ-UBND ngày 15/6/2011 của Ủy ban nhân dân thành phố Đ Trung
tâm phát triển quđất thành phố Đ đã lập biên bản cắm mốc giao đất cho vợ
chồng ông T, T1 vào ngày 16/5/2012. Đến ngày 26/6/2012 Ủy ban nhân dân
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà đất
tài sản khác gắn liền với đất số BK 743265 với diện tích 310,67m
2
cho vợ chồng
ông T, bà T1.
Quá trình sử dụng đất, do cho rằng vợ chồng ông T, bà T1 lấn chiếm quyền
sử dụng đất của mình nên bà V phát sinh tranh chấp với ông T, bà T1.
[2.2] Xét thấy: Quá trình giải quyết tại giai đoạn phúc thẩm, vợ chồng ông
T, T1 yêu cầu đo đạc lại. Công ty trách nhiệm hữu hạn A1 cũng đã thực
hiện việc đo vẽ theo yêu cầu của vợ chồng ông T, bà T1 và thực hiện việc ghép
ranh bản đồ địa chính. Qua xem xét thì họa đồ đo đạc này được thực hiện theo
sự chỉ dẫn của ông T việc ghép ranh bản đồ địa chính mang mục đích tham
khảo trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó cần căn cứ vào Mảnh đo đạc chỉnh
(bổ sung) thửa đất theo hiện trạng do Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
thành phố Đ lập ngày 19/9/2023 và họa đồ đo đạc hiện trạng sử dụng đất do Chi
8
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ (nay là khu vực Đ) ngày
14/11/2022 để làm căn cứ giải quyết vụ án là có căn cứ.
[2.3] Theo Mảnh đo đạc chỉnh lý, (bổ sung) thửa đất theo hiện trạng do Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ lập ngày 19/9/2023 (được chỉnh
sau khi Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đ kiểm tra, khôi phục ranh
mốc) thể hiện diện tích đất vtrí số 1 lô B2, chủ sử dụng V diện tích
194,61m
2
, ít hơn so với Giấy chứng nhận được cấp 5,39m
2
; còn vị trí số 4
B1, chủ sử dụng là vợ chồng ông T, T1 sau khi đã trừ đi lộ giới thì phần còn
lại diện tích 319,09m
2
nhiều hơn so với Giấy chứng nhận được cấp
8,42m
2
. Đối với họa đồ này tquá trình giải quyết vụ án thì bị đơn không ý
kiến, thắc mắc gì.
Bên cạnh đó, theo họa đđo đạc hiện trạng sử dụng đất do Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai thành phố Đ (nay khu vực Đ) thực hiện ngày
14/11/2022 thể hiện phần đất các bên tranh chấp tổng diện tích 5,44m
2
(tại vị trí số số 2 có diện tích 4,03m
2
và vị trí số 3 có diện tích 1,41m
2
) nằm hoàn
toàn trong phần diện tích đất thuộc thửa 1611 tờ bản đồ 12 (46D) đã được
quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cho phía bà V.
Theo lời trình bày tại giai đoạn sơ thẩm và tại nội dung đơn kháng cáo ngày
08/01/2024 của vợ chồng ông T, bà T1 đều cho rằng vào thời điểm vợ chồng
ông, bà xây nhà và làm hàng rào thì giữa vợ chồng ông, bà với vợ chồng ông H,
N (chsử dụng của thửa đất 1611) thỏa thuận nội dung: mỗi bên bỏ ra
từ 10cm 15cm chiều ngang x 20m chiều dài để làm móng nền xây dựng hàng
rào chung, chi phí do gia đình ông T, T1 bỏ ra xây trước để hoàn thiện. Sau
này gia đình ông N tiến hành xây nsẽ hoàn lại sau. Do vậy hiện tại bước
tường móng được xây đè lên ranh giới chung đã được thỏa thuận hoàn
công từ năm 2013. Tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án thì vợ chồng ông T,
T1 cũng không đưa ra được các căn cứ để chứng minh cho lời trình bày này của
mình. Bên cạnh đó, vợ chồng ông H, N cũng không thừa nhận nên không
cơ sở để xem xét.
Như vậy, căn cứ để xác định phần diện tích đất các bên tranh chấp
thuộc quyền sử dụng hợp pháp của V nên Tòa án cấp thẩm tuyên buộc vợ
chồng ông T, T1 nghĩa vtrả lại cho bị đơn phần diện tích đất này
căn cứ.
[3] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp thẩm đã đánh giá đúng toàn bộ
nội dung vụ án; vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1 kháng
cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì mới làm thay đổi nội dung vụ án
nên không căn cứ để chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông T, T1 giữ
nguyên Bản án sơ thẩm.
9
[4] Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết tại giai đoạn thẩm,
Nguyễn Lưu Hồng V yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ thẩm định
giá với chi phí hết 15.896.300đ (đã tạm nộp và được Tòa án quyết toán xong).
Tại giai đoạn phúc thẩm, vchồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần
Bích T1 yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ, đo vẽ với chi phí hết 8.521.720đ
(đã tạm nộp và được Tòa án quyết toán xong).
Do kháng cáo không được chấp nhận nên vchồng ông T, T1 phải chịu
toàn bộ chi phí tố tụng nói trên.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên vợ chồng ông
Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1 phải chịu án phí Dân sphúc thẩm
theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cc Điu 166, 167, 188, 203 Lut Đất đai năm 2013;
- Căn c Điu 236 Lut Đất đai năm 2024;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí lệ
phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn
Trần Bích T1, giữ nguyên Bản án Dân sự thẩm số 60/2023/DS-ST ngày 28
tháng 12 năm 2023 của Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt (nay là Tòa án nhân
dân khu vực 1 – Lâm Đồng).
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Lưu Hồng V về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất” với vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn
Trần Bích T1.
1.1. Buộc ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1 phải trả lại cho
Nguyễn Lưu Hồng V phần đất có diện tích 5,44m
2
thuộc một phần thửa số 1611,
tờ bản đồ số 12 (46d) tọa lạc tại B, khu quy hoạch Nguyên Tử L - T, Phường
H, thành phố Đ (nay phường L - Đ), tỉnh Lâm Đồng {tương ứng với diện tích
đất tại vị trí 2, 3 của mảnh đo đạc chỉnh lý (bổ sung) thửa đất theo hiện trạng do
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ (nay khu vực Đ) thiết lập
ngày 19/9/2023}.
10
1.2. Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1, Nguyễn
Thị Minh T2, chị Nguyễn Thị Minh T6 anh Nguyễn Minh T4 trách nhiệm
di dời toàn bộ hệ thống tường rào có trên diện tích 5,44m
2
đất ở đô thị thuộc một
phần thửa số 1611, tờ bản đồ số 12 (46d) tọa lạc tại tại B, khu Q - T, Phường
H, thành phố Đ (nay phường L - Đ), tỉnh Lâm Đồng để trả lại đất cho
Nguyễn Lưu Hồng V.
(Có mảnh đo đạc chỉnh (bsung) thửa đất theo hiện trạng do Chi nhánh
Văn phòng đăng đất đai thành phố Đ (nay khu vực Đ) thiết lập ngày
19/9/2023 kèm theo}.
2. Về chi phí tố tụng:
Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích T1 phải chịu
24.418.020đ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo vẽ và thẩm định giá tài sản.
Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Trần Bích T1 có nghĩa vụ trả cho
Nguyễn Lưu Hồng V số tiền 15.896.300đ (mươi lăm triệu tám trăm chín
mươi sáu nghìn ba trăm đồng).
3. Về án phí:
- Án phí sơ thẩm:
+ Nguyễn Lưu Hồng V không phải chịu án pDân sự thẩm; V
được nhận lại số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003470 ngày 28/12/2020 của Chi cục
Thi hành án Dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng (nay Phòng Thi hành
án Dân sự khu vực 1 - Lâm Đồng).
+ Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Trần Bích T1 phải chịu
300.000đ án phí Dân sự sơ thẩm.
- Án phí phúc thẩm: Vợ chồng ông Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Bích
T1 phải chịu 600.000đ án phí Dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ
tạm ứng án phí Dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0000632 ngày 08/4/2024 của Chi cục Thi hành án Dân sthành phố
Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng (nay Phòng Thi hành án Dân sự khu vực 1 - Lâm
Đồng). Vợ chồng ông T, bà T1 phải nộp 300.000đ án phí Dân sự phúc thẩm còn
thiếu.
4. Về nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bcưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9
11
Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng GĐ, KTr, TTr & THA (01);
- TAND khu vực 1 – Lâm Đồng (01);
- Phòng THADS khu vực 1 Lâm
Đồng (01);
- Các đương sự (06);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Châu Thạch
Tải về
Bản án số 335/2025/DS-PT Bản án số 335/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 335/2025/DS-PT Bản án số 335/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất