Bản án số 334/2025/HC-PT ngày 28/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 334/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 334/2025/HC-PT ngày 28/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 334/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/03/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Sửa án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂNP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 334/2025/HC-PT
Ngày 28 - 3 - 2025
V/v “Khởi kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tửu
Ông Hà Huy Cầu
Ông Lê Thành Long
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Phương Hà - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố HChí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hiến - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 28 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số:
1000/2024/TLPT-HC ngày 08 tháng 11 năm 2024 về việcKhởi kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai.
Do Bản án hành chính thẩm số 110/2024/HC-ST ngày 28 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3723/2024/QĐ-PT ngày
30 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Dương Đình H, sinh năm 1965 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ A, ấp T, C, thị P (nay thành phố P, sau đây vẫn gọi theo
tên cũ là thị xã P), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị L, sinh
năm 1984 (có mặt);
Địa chỉ: B T, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân (gọi tắt UBND”) thị P, tỉnh
Rịa - Vũng Tàu;
Địa chỉ: Trung tâm hành chính thị xã P, số D đường Đ, phường P, thị xã P,
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T; Chức vụ: Chủ tịch
UBND thị xã P (có đơn xin xét xử vắng mặt).
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện:
- Ông Mạnh H1; Chức vụ: Phó trưởng Phòng Tài nguyên Môi trường
thị xã P (vắng mặt).
- Ông Phạm Hoàng V; Chức vụ: Chuyên viên Phòng Tài nguyên i
trường thị xã P (có mặt).
- Ông Phạm Doãn N; Chức vụ: Trưởng Phòng nghiệp vụ Trung tâm phát
triển quỹ đất thị xã P (vắng mặt).
- Ông Nguyễn Tấn H2; Chức vụ: Chủ tịch UBND xã C (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Lê Thị M, sinh năm 1967 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3.2. Bà Thị L1, sinh năm 1967 và ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1960
(có đơn xin xét xử vắng mặt);
Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4. Người làm chứng:
4.1. Bà Đỗ Thị Y, sinh năm 1953 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ C, ấp T, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4.2. Ông Đoàn Văn V1, sinh năm 1954 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ I, ấp T, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
4.3. Bà Dương Thị H4, sinh năm 1968 (có mặt);
Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã C, thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Người kháng cáo: Người bị kiện UBND thị xã P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện ông
Dương Đình H và người đại diện hợp pháp của người khởi kiện trình bày:
Năm 1986, vợ chồng ông Dương Đình H, bà Thị M di vào ấp T,
C, thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu sinh sống khai phá được một số thửa
đất bao gồm các thửa: 194, 195, 196, 197, 198, 181, 159 và 160, tờ bản đồ 28 tại
C. Lúc khai phá vào năm 1986, toàn bộ diện tích trên đang rừng. Đến năm
1989, do nhu cầu cao về lương thực, vợ chồng ông H đã san lấp làm ruộng trồng
lúa đồng thời đào mương dẫn nước xung quanh đất giữa đất. Đến năm 1993,
vợ chồng ông H muốn chuyển đổi cơ cấu cây trồng thành cây lâu năm nên lại tiếp
tục san lấp đổ đất độ cao như hiện tại. Cũng vào năm 1993, UBND C đã
vận động bà con dọc tuyến hiến đất làm đường vào mỏ đá Lương Cơ, tổng chiều
dài khoảng 2.000m, trong đó nhà vchồng ông H đã hiến chiều dài hơn 80m. Đến
năm 1994, con đường trên đã được thảm nhựa với chiều rộng khoảng 8m. Cùng
năm 1994, vợ chồng ông H bán cho ông Mai Văn T1 thửa đất số 198 (có mặt tiền
3
là con đường nhựa, sát thửa 197). Năm 2012, gia đình ông H có làm hàng rào sát
đường nhựa đồng thời thông báo cho UBND xã C. Tuy nhiên, UBND C không
có bất cứ ý kiến nào. Từ đó, gia đình ông H sdụng ổn định các thửa đất cho đến
nay.
Năm 2020, gia đình ông H làm thủ tục hợp thửa thì mới được quan đăng
ký thông báo là đất không đường đi và diện tích bị giảm rất nhiều so với thực
tế sử dụng.
Đến ngày 29/08/2023, UBND thị P ra Quyết định số 7976/QĐ-UBND,
chỉ thu hồi diện tích 13,5m
2
thuộc thửa 197, tbản đồ 28 (thửa mới 551, tờ 28);
trong khi diện tích thực tế đang sử dụng của gia đình ông H bị mất khoảng
600m
2
. Phần diện tích chênh lệch này bị cho đất công (đất sông suối). Tuy
nhiên, báo cáo kiểm tra tàn tích sông suối do UBND C tthuê đơn vị thẩm
định đã kết luận rằng: Khu vực mà UBND thị xã P gọi là đất sông suối không có
trầm tích sông suối”; “đây là đất trồng lúa và đất san lấp”. Xác nhận của UBND
C cũng như những hộ dân sinh sống lâu đi tại khu vực này cũng khẳng định
gia đình ông H khai phá toàn bộ diện tích đang sử dụng vào năm 1986, đã san lấp
và sử dụng ổn định, không tranh chấp.
Cùng ngày 29/08/2023, Quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư số 7978/-UBND đã không bao gồm chiều dài hàng rào bị tháo dỡ
khoảng 25m UBND thị P cho rằng hạng mục hàng rào trên xây dựng
trái phép trên đất công.
Ngoài ra, UBND thị P xác định vtrí đất gia đình ông H được bồi thường
vị trí 5. Đây là một việc rất vô lý, bởi vì con đường nhựa hiện hữu (đường C)
do gia đình ông H hiến, được lấy từ phần đất liền khối, cùng kết cấu, cùng
nguồn gốc. Hơn nữa, thửa đất 198, tờ bản đồ 28 mà vợ chồng ông H bán cho ông
Mai Văn T1 cũng cùng kết cấu, cùng nguồn gốc, lại được tính vị trí 1. Thêm vào
đó, số tiền nộp thuế đất phi nông nghiệp mà quan thuế áp dụng cho gia đình
ông H đối với thửa 160, tbản đồ 28 (liền khối với thửa 197, tờ 28) là vị trí 1
đường nhựa 8m.
Do đó ông Dương Đình H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn
đề sau:
- Huỷ Quyết định 7976/QĐ-UBND ngày 29/08/2023 của UBND thị xã P.
- Huỷ Quyết định 7978/QĐ-UBND ngày 29/08/2023 của UBND thị xã P.
- Buộc UBND thị P phải công nhận toàn bộ diện tích 600m
2
bị thu hồi
gia đình ông H đang thực tế sử dụng là đất riêng của gia đình ông H, đủ điều
kiện để được bồi thường giá tr quyền sử dụng đất.
- Buộc UBND thị P xác định vị trí đất bị thu hồi của gia đình ông H
vị trí 1 đường nhựa 8m.
- Buộc UBND thị P phải hỗ trợ vật kiến trúc trên diện tích 600m
2
nêu
trên bao gồm: 25m hàng rào, nhà 1 tầng loại 5, cùng các vật kiến trúc cây trồng
khác.
4
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị kiện UBND thị P
trình bày:
1. Người khởi kiện yêu cầu buộc UBND thị xã P phải ban hành Quyết định
thu hồi đất và Quyết đnh phê duyệt kinh phí bồi thường đúng với diện tích đất đã
thu hồi thực tế của gia đình ông ơng Đình H 600,0m
2
theo quy định pháp
luật:
Đối với nội dung ông Dương Đình H đề nghị bồi thường phần diện tích
600,0m
2
theo hiện trạng thực tế. Qua kiểm tra hồ địa chính, số mục kê do Chi
nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị P cung cấp theo văn bản số
2874/CNVPĐK-TTLT ngày 08/7/2024 thì phần diện tích ông Dương Đình H yêu
cầu bồi thường đất Suối do UBND C quản nên không đủ điều kiện bồi
thường. Tại khoản 2 Điều 8 Luật Đất đai năm 2013 quy định: 2. Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích
công cộng được giao để quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa
phương”.
2. Người khởi kiện yêu cầu buộc UBND thị P xác định vị trí đất bị thu
hồi của gia đình ông Dương Đình H là vị trí 1 đưng nhựa 8m:
Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị P Văn bản s
2874/CNVPĐK-TTLT ngày 08/7/2024 về việc cung cấp hồ sơ địa chính, Sổ mục
kê liên quan đến nội dung khởi kiện của ông Dương Đình H vợbà Lê Thị M
thuộc dự án Đường C - Vũng Tàu giai đoạn 1, xã C.
Căn cứ điểm b, khoản 3, Điều 1 Quyết định số 25/2022/QĐ-UBND ngày
14/12/2022 của UBND tỉnh B về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết
định 38/2019/-UBND ngày 20/12/2019 quy định bảng giá các loại đất định kỳ
5 năm (01/01/2020 - 31/12/2024) trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quy định:
“... Trong trường hợp thửa đất không có lối ra hợp pháp (thửa đất bị bao quanh
bởi các thửa đất khác đã được nhà ớc giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền
sử dụng đất hoặc đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng
không cùng sdụng đất đến đường chính thì vị trí đất được xác định vị trí 5
của đường chính gần nhất (có khoảng cách ngắn nhất tính từ tâm thửa đất đến
đường đó) nhưng mức giá không cao hơn mức giá vị trí 5 thấp nhất tính theo
các thửa đất lối ra hợp pháp liền kề trực tiếp với thửa đất này...”. Theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi tắt là GCN.QS”) số DC 627091, số vào
sổ cấp GCN: CS12948 do Sở T2 cấp ngày 20/7/2021; Theo Trích lục bản đồ địa
chính do Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đ xác nhận ngày 15/7/2021; Theo
Mảnh xử nội nghiệp bản đồ địa chính số 143/2021 do Giám đốc Chi nhánh Văn
phòng Đ ký xác nhận ngày 19/5/2021, thể hiện thửa đất số 551(197) tờ bản đồ địa
chính số 28 không tiếp giáp với đưng giao thông (có một mặt giáp Suối). Do đó,
vị trí bồi thường cho ông Dương Đình H được xác định vị trí 5 đúng theo
quy định.
3. Buộc UBND thị P bồi thường cho gia đình ông Dương Đình H 25m
hàng rào:
5
Căn cứ khoản 1 Điều 6 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
Điều 6. Nguyên tắc sử dụng đất
1. Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và đúng mục đích sử dụng đất.
Căn cứ khoản 2 Điều 92 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
Điều 92. Trường hợp Nhà ớc thu hồi đất không được bồi thường tài sản
gắn liền với đất.
2. Tài sản gắn liền với đất được tạo lập trái quy định của pháp luật hoặc
tạo lập từ sau khi thông báo thu hồi đất của quan nhà nước thẩm quyền”.
Hàng rào ông Dương Đình H xây dựng trên đất công (đất Suối) do UBND
xã C quản lý nên không đủ điều kiện bồi thường.
4. Từ những căn cứ nêu trên, UBND thị P đề nghị Tòa án bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của ông Dương Đình H và bà Lê Thị M.
Tại Bản án hành chính thẩm số 110/2024/HC-ST ngày 28 tháng 8
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã quyết định:
Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 193 Lut T tng hành chính; Điều 66, 69,
75, 101 Luật Đất đai năm 2013; Điều 4 Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày
20/12/2019 Quyết định số 25/2022/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND
tỉnh B; Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Đình H:
- Hủy Quyết định 7976/QĐ-UBND ngày 29/8/2023 của UBND thị xã P về
việc thu hồi đất của ông Dương Đình H đang sử dụng đất tại xã C;
- Hủy Quyết định số 7978/QĐ-UBND ngày 29/8/2023 của UBND thị xã P
về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ tr và tái định cư cho ông Dương Đình
H;
- Buộc UBND thị P ban hành lại quyết định thu hồi đất đối với tổng diện
tích đất mà thực tế gia đình ông Dương Đình H đang sử dụng bị thu hồi (bao gồm
phần diện tích đất thuộc thửa 551, tờ bản đồ số 28 và phần diện tích đất thuộc thửa
463 (số mới 546), tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại C, thị P nằm tiếp giáp với
đường nhựa 8m) để thực hiện dự án: Thành phần 3 thuộc Dự án đầu tư xây dựng
đường bộ Cao tốc B.
- Buộc UBND thị P ban hành lại quyết định phê duyệt kinh phí bồi
thường, hỗ trợ, tái định đối với tổng diện tích đất thực tế gia đình ông
Dương Đình H đang sử dụng bị thu hồi đthực hiện dự án: Thành phần 3 thuộc
Dự án đầu tư xây dựng đường bộ Cao tốc B (bao gồm phần diện tích đất thuộc
thửa 551, tờ bản đồ số 28 và phần diện tích của thửa 463 (số mới 546), tờ bản đồ
6
số 28 tọa lạc tại xã C, thị xã P nằm tiếp giáp với đường nhựa 8m mà gia đình ông
H đang sử dụng bị thu hồi) theo đúng quy định của pháp luật.
- Ngày 22/9/2024, người bị kiện UBND thị P do ông Nguyễn Văn T là
người đại diện theo pháp luật của UBND thịP đơn khángo toàn bộ bản
án sơ thẩm với nội dung kháng cáo:
UBND thịP đã có ý kiến và cung cấp hồ sơ, chứng cứ liên quan đến nội
dung khởi kiện của của ông Dương Đình H tại Văn bản số 5348/UBND-TNMT
ngày 07/8/2024 về việc ý kiến và cung cấp hồ sơ, chứng cứ liên quan đến nội
dung khởi kiện của ông Dương Đình H và bà Lê Thị M (BL 150, 151).
Qua rà soát hồ sơ, UBND thị P giữ nguyên quan điểm đã giải quyết tại
Văn bản số 5348/UBND-TNMT ngày 07/8/2024, Quyết định số 7976/QĐ-UBND
ngày 29/8/2023 Quyết định số 7978/QĐ-UBND ngày 29/8/2023 của UBND
thị xã P.
Vì thế, UBND thị xã P kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ
thẩm, chấp nhận kháng cáo của người bị kiện, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
ông Dương Đình H.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Người kháng cáo có đơn xin xét xử vắng mặt, những người bảo vệ quyền
lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày: Người bị kiện giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo theo nội dung đơn kháng cáo ngày 22/9/2024 trình bày của
người bị kiện tại Văn bản số 5348/UBND-TNMT ngày 07/8/2024. Yêu cầu Hội
đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa án thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu
của người khởi kiện.
- Nguyễn Thị L là người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện
trình bày: Giữ nguyên yêu cầu và trình bày của người khởi kiện theo nội dung án
sơ thẩm đã nêu, đồng ý với nhận định và quyết định của án sơ thẩm, không đồng
ý nội dung kháng cáo của người bị kiện, yêu cầu Hội đồng xét xử bác kháng cáo,
giữ nguyên án sơ thẩm.
- Thị M đồng ý với lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền
của người khởi kiện vừa nêu trên.
- Những người làm chứng Đỗ Thị Y, ông Đoàn Văn V1, Dương Thị
H4 đều xác nhận: Ông Dương Đình H sử dụng đất thửa 463 thửa 551 từ năm
1986 đến khi đất bị thu hồi, ông H sử dụng liên tục ổn định, không ai tranh chấp,
đất ông H sử dụng không có dòng suối như người bị kiện trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, tkhi thụ lý đến
thời điểm hiện nay thấy rằng Thẩm phán; Hội đồng xét xử và những người tham
gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính, không
vi phạm.
7
- Về nội dung: Người bị kiện ban hành các Quyết định s7976/QĐ- UBND
và Quyết định số 7978/QĐ-UBND liên quan đến phần đất diện tích 13,5m
2
thuộc
một phần thửa 551 nằm trong GCN.QSDĐ của ông ơng Đình H được cấp
nên là đúng trình tự thủ tục. Vì thế, đề nghị chấp nhận phần kháng cáo của người
bị kiện không hủy các Quyết định số 7976/QĐ-UBND Quyết định số 7978/QĐ-
UBND của người b kiện. Đối với phần đất ông H sử dụng thuộc thửa 463 nằm
ngoài GCN.QSDĐ của ông H được cấp, tuy nhiên ông H sử dụng liên tục từ năm
1986, có xây dựng công trình trên đất, không bị xử phạt vi phạm hành chính nên
đủ điều kiện để xem xét bồi thường nhưng ngưi bị kiện không ban hành quyết
định thu hồi đất là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện,
thế đề nghị Hội đồng t xử bác phần kháng cáo này của người bị kiện, giữ
nguyên án thẩm phần liên quan đến thửa đất 463 của ông H sử dụng chưa được
cấp GCN.QSDĐ.
NHẬN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng
tại phiên tòa và ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Đơn kháng o của người bị kiện còn trong hạn luật định hợp lệ được
xem xét tại cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 206 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015.
- Người bị kiện, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đơn xin xét xử
vắng mặt. Vì vậy, căn cứ Điều 225 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hội đồng
xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định.
[2] Tòa án cấp thẩm xác định đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết
và thời hiệu khởi kiện là đúng theo quy định tại Điều 30, Điều 32, Điều 116 Luật
T tụng hành chính năm 2015.
[3] Đối với kháng cáo của người bị kiện, xét:
[3.1.] Đối với yêu cầu của người khởi kiện của ông Dương Đình H về việc
hủy Quyết định 7976/QĐ-UBND ngày 29/8/2023 Quyết định 7978/QĐ-UBND
ngày 29/8/2023 của UBND thị xã P, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[3.1.1] Về thẩm quyền ban hành các quyết định bị kiện:
Ngày 29/8/2023, UBND thị xã P ban hành Quyết định số 7976/QĐ-UBND
về việc thu hồi 13,5m
2
đất tại xã C, thị xã P do ông Dương Đình H đang sử dụng
thuộc một phần thửa 551, tờ bản đồ số 28 để đầu tư xây dựng dự án: Thành phần
3 thuộc Dự án đầu xây dựng đường bộ cao tốc B giai đoạn 1, đoạn qua C,
thị P, tỉnh Rịa - Vũng Tàu (đợt 69). Cùng ngày, UBND thị P ban hành
Quyết định số 7978/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư cho ông H đối với diện tích đất thu hồi 13,5m
2
đất.
Đối chiếu điểm a khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc
quyết định thu hồi đất, phê duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư đưc quy định như sau:Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quy
8
định tại Điều 66 của Luật này quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong cùng một ngày” và điểm a khoản 2 Điều
66 Luật Đất đai năm 2013 quy định về thẩm quyền thu hồi đất như sau: “Ủy ban
nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau đây: a, Thu
hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với các quy định trên thì
UBND thị P ban hành Quyết định số 7976/QĐ-UBND Quyết định số
7978/QĐ-UBND cùng ngày 29/8/2023 là đúng thẩm quyền.
[3.1.2] Xét nh căn cứ tại Quyết định 7976/-UBND Quyết định
7976/QĐ-UBND cùng ngày 29/8/2023:
- Theo hồ địa chính, sổ mục kê, theo GCN.QSDĐ số DC 627091, số vào
sổ cấp GCN: CS12948 do Sở T2 cấp ngày 20/7/2021 (BL 33); Theo Trích lục bản
đồ địa chính do Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị xã P ký xác
nhận ngày 15/7/2021 (BL 105); Theo Mảnh xử lý nội nghiệp bản đồ địa chính số
143/2021 do Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị xã P xác
nhận ngày 19/5/2021 (BL 102), thể hiện thửa đất số 551 (197) tờ bản đồ địa chính
số 28 không tiếp giáp với đường giao thông (có một mặt giáp Suối). Đất Suối do
UBND xã C quản lý nên không đủ điều kiện bồi thường. Tại khoản 2 Điều 8 Luật
Đất đai năm 2013 quy định: “2. Chủ tịch y ban nhân dân cấp chịu trách
nhiệm đối với việc quản lý đất sử dụng vào mục đích công cộng được giao để
quản lý, đất chưa giao, đất chưa cho thuê tại địa phương.
- Ông Dương Đình H được UBND huyện T (nay thị P) cấp
GCN.QSDĐ số N218945 ngày 26/10/1998 (BL 32). Ngày 19/5/2021, Ông H
đơn đề nghị cấp đổi GCN.QSDĐ (BL 104). Ngày 20/7/2021, Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh T2 cấp GCN.QSDĐ số DC 627091, số vào sổ cấp GCN:
CS12948, tại khoản 6 Mục II trang 2 Giấy chứng nhận thể hiện:6. Ghi chú: Cấp
đổi từ giấy chứng nhận số N218945 cấp ngày 26/10/1998, thửa đất không tiếp
giáp đường giao thông hiện hữu”. Tại Mục III trang 3 Giấy chứng nhận thể hiện:
hình thể thửa đất một mặt tiếp giáp suối, các mặt còn lại tiếp giáp thửa đất
số 204, 549, 550. Như vậy, từ khi ông H được cấp GCN.QSlần đầu (năm
1998) đến khi ông H có đơn xin cấp đổi GCN.QSDĐ năm 2021, cơ quan quản lý
đất đai đã tiến hành đo đạc, giải thửa, ông H ký đồng ý không thắc mắc, khiếu nại
gì liên quan, đã thừa nhận sử dụng đất theo đúng hồ sơ đã cấp.
- Ông H khởi kiện yêu cầu bồi thường phần diện tích ngoài GCN.QSDĐ số
DC 627091, số vào sổ cấp GCN: CS12948 ngày cấp 20/7/2021 (phần đất giáp
thửa đất số 551 tờ bản đồ số 28). Như vậy, phần diện tích UBND thị P đã thu
hồi 13,5m
2
đất nông nghiệp thuộc thửa đất số 551 tờ bản đồ số 28 là đã đúng theo
ranh giới của thửa đất số 551. Tại cấp thẩm, người khởi kiện đồng ý rằng:
UBND thịP đã thu hồi đúngđủ theo GCN.QSDĐ đối với diện tích 13,5m
2
,
phần diện tích đang khi kiện nằm ngoài GCN.QSDĐ số DC 627091, số vào sổ
cấp GCN: CS12948 ngày cấp 20/7/2021. Do đó, Tòa thẩm hủy hai Quyết định
số 7976/QĐ-UBND ngày 29/8/2023 Quyết định số 7978/QĐ-UBND ngày
29/8/2023 của UBND thị xã P là không đúng.
- Trong trường hợp công nhận phần diện tích đất của người khởi kiện đủ
9
điều kiện bồi thường thì chỉ phải tính phần thu hồi, bồi thường bổ sung (ngoài hai
Quyết định số 7976/-UBND ngày 29/8/2023 Quyết định số 7978/-
UBND cùng ngày 29/8/2023 của UBND thị P). Tại Biên bản kiểm đếm ngày
03/01/2023 ông H đồng ý diện tích thu hồi 13,5m
2
(BL 132)tại Phiếu đóng
góp về phương án bồi thường, hỗ trợ, ông H ký ngày 11/4/2023 (BL 81-82), ông
H ghi ý kiến như sau: Tôi đồng ý với phương án này đồng ý bàn giao mặt
bằng. Tuy nhiên, phần diện tích khoảng 420m
2
tiếp giáp với đường nhựa đất
của gia đình tôi khai phá từ năm 1986 đến năm 1993 gia đình tôi hiến đất làm
đường chiều rộng là 8m x 86m, đất còn lại của gia đình tôi. Đề nghị xác
minh làm rõ phần diện tích tôi chưa được cấp giấy chứng nhận để gia đình được
hưởng bồi thường thêm”.
[3.1.3] Về yêu cầu bồi thường phần diện ch của thửa 463 (số mới 546), tờ
bản đồ số 28, tọa lạc tại xã C, thị xã P của người khởi kiện, xét:
- Về quyền sử dụng đất, ranh giới đất đai của ông H sử dụng đã được Nhà
nước xác lập từ năm 1998 (thời điểm cấp GCN.QSDĐ cho ông H lần đầu), sau đó
ông H tự ý san lấp, làm thay đổi mục đích sử dụng đất đã xác lập, xây dựng công
trình vật kiến trúc trên đất công là hành vi lấn chiếm, vi phạm quy định của pháp
luật về đất đai, vi phạm quy định tại khoản 25 Điều 3 và khoản 1, khoản 3, khoản
4 Điều 12 Luật Đất đai năm 2013, cụ thể như sau:
Hủy hoại đất theo quy định tại khoản 25 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013:
25. Hủy hoại đất hành vi làm biến dạng địa hình, làm suy giảm chất lượng
đất, gây ô nhiễm đất, làm mất hoặc giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã
được xác định.
Vi phạm quy định tại khoản 1, khoản 3, khoản 4 Luật Đất đai năm 2013
như sau:
Điều 12. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai.
2. …
3. Không sử dụng đất, sử dụng đất không đúng mục đích.
4. Không thực hiện đúng quy định của pháp luật khi thực hiện quyền của
người sử dụng đất.”
Hộ dân sử dụng đất không bị xử lý vi phạm về xây dựng, về sử dụng đất
sai mục đích không đồng nghĩa với việc sử dụng đất của hộ dân là hợp pháp, mọi
hành vi lấn chiếm, sử dụng đất sai mục đích, xây dựng không xin phép là trái quy
định pháp luật. Ông H thừa nhận việc xây dựng công trình từ khoảng những năm
gần đây, việc xây dựng công trình nằm ngoài GCN.QSDĐ, chưa được công nhận
quyền sử dụng đất ông H đã tự ý xây dựng vi phạm pháp luật khoản 1,
khoản 3, khoản 4 Điều 12 Luật Đất đai năm 2013 như nêu trên.
- Theo hiện trạng sử dụng đất, theo bản đồ địa chính, theo Trích lục bản đồ
địa chính do Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thị xã P xác
nhận ngày 15/7/2021, theo Mảnh xử nội nghiệp bản đồ địa chính số 143/2021
10
do Giám đốc Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thị P xác nhận ngày
19/5/2021, thì hiện trạng sử dụng đất từ trước đến nay có một dòng suối chảy dài
theo chiều dài đất của ông H và các hộ dân lân cận, việc có dòng chảy liên thông,
chảy liên tục khắp khu vực lân cận với đất ông H dòng chảy tự nhiên phục vụ
thoát nước, tưới tiêu của toàn bộ dân khu vực, ông H cũng thừa nhận sau khi
san lấp có lắp đặt cống thoátc rộng 1,5m đã chứng minh có dòng chảy lớn tại
khu vực đất. Với độ rộng cống 1,5m thì dòng chảy là khá lớn. Ông H yêu cầu bồi
thường phần diện tích của thửa 463 (số mới 546), tờ bản đồ số 28 tọa lạc tại xã C,
thị P nhưng không cung cấp được các tài liệu chứng cứ chứng minh về quyền
sử dụng đất, thực tế ông cũng không khai, đăng thực hiện nghĩa vụ tài
chính về quyền sử dụng đất với Nhà nước. Theo quy định tại khoản 1 Điều 75,
khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai m 2013, ông H sử dụng đất nguồn gốc lấn
chiếm đất công, không GCN.QSDĐ và không đủ điều kiện được cấp
GCN.QSDĐ. vậy, ông H không đủ điều kiện bồi thường theo quy định tại
khoản 1 Điều 82 Luật Đất đai năm 2013.
[4] Với những nhận đnh nêu trên, Tòa thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông Dương Đình H không đúng quy định của pháp luật. thế, Hội
đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát; chấp nhận
kháng cáo của người bị kiện UBND thị xã P; sửa án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu
của người khởi kiện ông Dương Đình H.
[5] Về án phí hành chính thẩm: Do sửa án thẩm nên tính lại án phí
hành chính thẩm, ông Dương Đình H phải nộp 300.000 đồng án phí, được khấu
trừ từ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí,
lệ phí Tòa án số 0000191 ngày 11/01/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Rịa - Vũng Tàu, nên đã nộp xong.
[6] Về chi phí tố tụng: Ông Dương Đình H chịu toàn bộ và đã nộp xong.
[7] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên
UBND thị P không phải chịu án phí hành cnh phúc thẩm, hoàn trả UBND thị
P 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lphí Tòa án số 0000699
ngày 03/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 241, điểm b khoản 2 Điều 193; các điều 30, 32, 116,
206, 225 Luật Tố tụng hành chính 2015;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của Ủy ban nhân dân thị xã P, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, sửa Bản án hành chính thẩm số 110/2024/HC-ST ngày 28 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
11
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Dương Đình H về các yêu cầu:
2.1. Hủy Quyết định 7976/QĐ-UBND ngày 29/8/2023 của Ủy ban nhân
dân thị xã P về việc thu hồi đất của ông Dương Đình H đang sử dụng đất tại C;
2.2. Hủy Quyết định số 7978/QĐ-UBND ngày 29/8/2023 của Ủy ban nhân
dân thị xã P về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho ông
Dương Đình H;
2.3. Buộc Ủy ban nhân dân thị xã P ban hành lại quyết định thu hồi đất đối
với tổng diện tích đấtthực tế gia đình ông Dương Đình H đang sử dụng bị thu
hồi (bao gồm phần diện tích đất thuộc thửa 551, tờ bản đồ số 28 và phần diện tích
đất thuộc thửa 463 (số mới 546), tbản đồ số 28, tọa lạc tại C, thị P nằm
tiếp giáp với đường nhựa 8m) để thực hiện dự án: Thành phần 3 thuộc Dự án đầu
tư xây dựng đường bộ Cao tốc B;
2.4. Buộc Ủy ban nhân dân thị xã P ban hành lại quyết định phê duyệt kinh
phí bồi thường, hỗ trợ, tái định đối với tổng diện tích đất thực tế gia đình
ông Dương Đình H đang sdụng bị thu hồi để thực hiện dự án: Thành phần 3
thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường bộ Cao tốc B (bao gồm phần diện tích đất
thuộc thửa 551, tbản đồ s28 phần diện tích của thửa 463 (số mới 546), tờ
bản đồ số 28 tọa lạc tại C, thị P nằm tiếp giáp với đường nhựa 8m mà gia
đình ông H đang sử dụng bị thu hồi) theo đúng quy định của pháp luật.
3. Án phí hành chính sơ thẩm: Ông Dương Đình H phải nộp 300.000 đồng,
được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lphí Tòa án số 0000191 ngày 11/01/2024 của Cục Thi hành án dân
sự tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nên đã nộp xong.
4. Án phí hành chính phúc thẩm: Ủy ban nhân dân thị xã P không phải nộp,
hoàn trả Ủy ban nhân dân thịP 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án
phí, lệ phí Tòa án số 0000699 ngày 03/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
5. Chi phí tố tụng: Ông Dương Đình H nộp toàn bộ và đã nộp xong.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
- VKSND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
- Cục THADS tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
- Các đương sự;
- Lưu VT (5), HS (2), 15b, (TK-PH).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Tửu
Tải về
Bản án số 334/2025/HC-PT Bản án số 334/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 334/2025/HC-PT Bản án số 334/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất