Bản án số 82/2025/DS-PT ngày 11/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 82/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 82/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 82/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 82/2025/DS-PT ngày 11/02/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 82/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 82/2025/DS-PT
Ngày: 11 - 02 - 2025
V/v tranh chấp chia di sản thừa
kế
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Phạm Thị Thu Trang;
Các Thẩm phán:
Ông Lê Văn Phận;
Ông Nguyễn Chí Đức.
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Triệu Anh Thư - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Bà Nguyễn Thị Xa Riêng - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 588/2025/TLPT-DS ngày 10 tháng
12 năm 2025 về “Tranh chấp chia di sản thừa kế”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 206/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 260/2025/QĐXXPT-DS
ngày 17 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1961; địa chỉ: 1, ấp A, xã A,
huyện T, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1963; địa chỉ: ấp A, xã A, huyện
T, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:
Ông Huỳnh Văn B, sinh năm 1964; địa chỉ: E, khu phố A, phường P, thành
phố B, tỉnh Bến Tre. (có mặt)
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Nguyễn Thị Ư, sinh năm 1958; địa chỉ: Tổ A, ấp A, xã V, huyện
V, tỉnh Đồng Nai. (có đơn xin vắng mặt)
3.2. Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1966; địa chỉ: 1 ấp T, xã B, huyện T, tỉnh
Bến Tre. (có đơn xin vắng mặt)
3.3. Bà Nguyễn Thị B1, 60 tuổi; địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Bến
Tre. (có yêu cầu vắng mặt)
4. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Văn T, là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm,
Theo nội dung đơn khởi kiện, đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện và trong quá
trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T trình bày:
Ông Nguyễn Văn T2 là bác ruột của ông, ông T2 chết năm 1987, do thời
điểm chết đã lâu nên không có thực hiện khai tử theo quy định. Ông T2 có các
anh, chị em ruột gồm: Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thị K, Nguyễn
Văn T4, Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thi N. Hiện nay, tất cả các anh, chị em
ruột của ông T2 đều đã chết; ông T3 có một người con là bà Nguyễn Thị B1, 60
tuổi; địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông Nguyễn Văn T5 có các
người con gồm: ông, ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Ư, bà Nguyễn Thị M.
Ông Nguyễn Văn T2 không có vợ con nên hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai đều
không còn. Sau đó, được sự thống nhất của gia đình, ông thờ cúng ông T2 và
cúng giỗ hàng năm. Ông xác định hàng thừa kế thứ ba của ông Nguyễn Văn T2
gồm: ông, ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Ư, bà Nguyễn Thị M, bà
Nguyễn Thị B1. Phần diện tích đất là di sản thừa kế của ông T2 thuộc thửa 214,
tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre, có thời gian ông, ông T,
bà M cùng quản lý và sử dụng; ông T1 quản lý và sử dụng phần đất của cha mẹ
các ông, bà để lại.
Đến năm 1994, khi nhà nước có chính sách đo đạc 299, do ông đang điều
trị vết thương ở chân tại bệnh viện (ông là thương binh hạng 2/4, 71%) nên
không có ở nhà để chứng kiến quá trình đo đạc. Khi đó, ông T1 tự ý đứng ra kê
khai đo đạc phần đất nêu trên. Phần đất tranh chấp trước đây có diện tích
4.472m
2
thuộc thửa 1277, tờ bản đồ số 01, chủ sử dụng là Ủy ban nhân dân xã
A, huyện T, tỉnh Bến Tre; sau đó qua đo đạc Vlap phần đất đó được cấp lại cho
3
nhiều người trong đó có ông Nguyễn Văn T1 với diện tích 775,3 m
2
thuộc thửa
214, tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Nay ông yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú giải quyết tranh chấp
chia di sản thừa kế là buộc ông T1 phải chia cho ông diện tích đất là 199,8m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214D), tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T,
tỉnh Bến Tre. Ông đồng ý giao cho bà Ư quản lý và sử dụng diện tích đất là
192m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214C), tờ bản đồ số 07, bà M quản lý và sử
dụng diện tích đất là 191,9m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214B), tờ bản đồ số 07,
ông T1 quản lý và sử dụng diện tích đất là 191,7m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu
214A), tờ bản đồ số 07.
Đối với diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08, tọa
lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre thì ông có ý kiến như sau: ông thừa nhận
phần đất nêu trên có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn T2. Năm 1978, nhà nước
có chủ trương thu hồi phần đất của ông T2 (cả thửa 214, tờ bản đồ số 07 và thửa
250, tờ bản đồ số 8) để làm kênh thủy lợi dọc quốc lộ 57 do Ủy ban nhân dân xã
A kê khai chủ sử dụng năm 1994. Năm 1981-1982, khi có chủ trương đưa đất
vào tập đoàn thì cả hai phần đất nêu trên đều được đưa vào tập đoàn và do nhà
nước quản lý. Đến khi tập đoàn T7 thì nhà nước cấp lại cho ông diện tích
2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08 (thửa cũ là thửa 1281, tờ
bản đồ số 01) để ông quản lý và sử dụng; đồng thời ông đã tiến hành thương
lượng 815 với bà Nguyễn Thị V để nhận diện tích 1.300m
2
(thửa cũ thuộc thửa
1958, tờ bản đồ số 01). Tổng cộng diện tích là 3.590,8m
2
,
ông sử dụng ổn định,
liên tục từ đó cho đến năm 2015 thì làm thủ tục đăng ký để được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Khi ông lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì không ai khiếu nại hay tranh chấp gì. Lý do trong quy trình cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông ghi nguồn gốc của phần đất diện tích
2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08 là của ông Nguyễn Văn T5
(cha ruột của ông) cho ông năm 1990 là do cán bộ xã A hướng dẫn ông ghi như
vậy cho thuận tiện trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Đối với việc ông T1 rút yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích 550m
2
thuộc
thửa số 250 (ký hiệu 250A), tờ bản đồ số 08 thì ông đồng ý.
Qua yêu cầu của bà M, bà Ư, ông không đồng ý chia thừa kế đối với diện
tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08 do phần đất đó ông đã
được cấp quyền sử dụng đất ổn định.
Đối với Họa đồ hiện trạng sử dụng đất thửa 250, tờ bản đồ số 08 xã A ngày
29/02/2023 thì ông xác định vị trí đất được nhà nước cấp có diện tích là 2.290,8
4
m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08 không đúng với vị trí do ông T1 và
bà M xác định. Tuy nhiên, ông không có yêu cầu đo đạc lại.
Đối với chi phí đắp bờ bao xung quanh phần đất thuộc thửa 214, tờ bản đồ
số 7, ông đồng ý với kết quả định giá ngày 25/8/2023 là 10.000.000 đồng.
Ông khẳng định cả hai phần đất tranh chấp thuộc thửa 250, tờ bản đồ số 08
và thửa 214, tờ bản đồ số 07 đều thuộc diện cải tạo do nhà nước quản lý (đưa
vào tập đoàn và làm kênh thuỷ lợi) như lời trình bày nêu trên của ông. Đối với
thửa 214, tờ bản đồ số 07 thì cả ông và ông T1 đều không được nhà nước khoán
cấp lại khi vào tập đoàn và khi tập đoàn T7. Do đất có nguồn gốc của ông T2
nên cả ông, ông T1, bà M đều có sử dụng (đốn lá dừa nước để làm nhà) nhưng
đến khi ông T1 thực hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2019
thì các bên mới phát sinh tranh chấp.
Ông đồng ý với kết quả đo đạc theo Họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày
23/9/2021 và kết quả thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án.
Theo nội dung đơn yêu cầu phản tố, bản tự khai và trong quá trình giải
quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn T1 trình bày:
Ông Nguyễn Văn T2 là bác ruột của ông, ông T2 chết năm 1987, do thời
điểm chết đã lâu nên không có thực hiện khai tử theo quy định. Ông T2 có các
anh, chị em ruột gồm: Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thị K, Nguyễn
Văn T4, Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thị N1. Hiện nay, tất cả các anh, chị em
ruột của ông T2 đều đã chết; ông T3 có một người con là bà Nguyễn Thị B1, 60
tuổi; địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông Nguyễn Văn T5 có các
người con gồm: ông, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Ư, bà Nguyễn Thị M.
Ông Nguyễn Văn T2 không có vợ, con nên hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai đều
không còn. Ông xác định hàng thừa kế thứ ba của ông Nguyễn Văn T2 gồm:
ông, ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Ư, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị
B1.
Ông T2 mất không để lại di chúc. Phần đất thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 07
có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn T2, năm 1978 nhà nước có chủ trương thu
hồi phần đất của ông T2 (cả thửa 214, tờ bản đồ số 07 và thửa 250, tờ bản đồ số
8) để làm kênh thủy lợi dọc quốc lộ 57 do Ủy ban nhân dân xã A kê khai chủ sử
dụng năm 1994. Năm 1981-1982, khi có chủ trương đưa đất vào tập đoàn thì cả
hai phần đất thửa 214, tờ bản đồ số 07 và thửa 250, tờ bản đồ số 08 đều được
đưa vào tập đoàn. Ông đồng ý với lời trình bày của bà Đặng Thị M1, ông Lê
Văn Đ, ông Trần Văn S, ông Trần Văn B2 về việc xác định cả hai phần đất tranh
5
chấp thuộc thửa 250, tờ bản đồ số 08 và thửa 214, tờ bản đồ số 07 đều thuộc
diện cải tạo do nhà nước quản lý (đưa vào tập đoàn và làm kênh thuỷ lợi). Năm
2010, khi đo đạc V1, ông là người đăng ký kê khai phần đất có diện tích
775,3m
2
thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Do khi phần đất thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 07 đưa vào tập đoàn nhưng tập
đoàn không khoán cấp cho ai nên ông là người trực tiếp quản lý và sử dụng đất
từ khoảng năm 1982 đến nay. Khi ông tiến hành đo đạc và đăng ký kê khai cũng
không ai tranh chấp hay ngăn cản gì. Đến năm 2019, khi ông tiến hành thủ tục
để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông T mới tranh chấp cho
đến nay. Quá trình sử dụng đất, ông đã bỏ công sức cải tạo nhiều lần (đắp bờ
bao) với chi phí khoảng 40.000.000 đồng và hiện nay hiện trạng là đất lá dừa
nước một số có sẵn và một số do ông trồng. Ngoài phần đất tranh chấp, ông T2
còn một phần đất khác có diện tích 3.590,8m
2
thuộc thửa 250, tờ bản đồ số 08,
tọa lạc tại xã A, huyện T, phần đất này ông T là người quản lý sử dụng và đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nay ông không đồng ý chia thừa kế quyền sử dụng đất cho ông T diện tích
đất là 199,8m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214D) tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã
A, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông không đồng ý chia cho bà Ư quản lý và sử dụng
diện tích đất là 192m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214C), tờ bản đồ số 07, ông
không đồng ý chia bà M quản lý và sử dụng diện tích đất là 191,9m
2
thuộc thửa
số 214 (ký hiệu 214B) tờ bản đồ số 07. Về chi phí đắp bờ bao thì ông đồng ý với
kết quả định giá ngày 25/8/2023 là 10.000.000 đồng.
Vào ngày 27/4/2021, ông có yêu cầu chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất
với ông Nguyễn Văn T diện tích đất là 3.590,8m
2
thuộc thửa số 250, tờ bản đồ
số 8, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre do ông T đang quản lý, sử dụng.
Đến ngày 27/6/2022, ông có đơn thay đổi yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng
đất với ông Nguyễn Văn T, cụ thể như sau: trong tổng diện tích 3.590,9m
2
thì
ông chỉ tranh chấp diện tích là 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250, tờ bản đồ
số 8, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre do ông T đang quản lý, sử dụng,
ông yêu cầu chia đều thành 04 kỷ phần bằng nhau, cụ thể: ông Nguyễn Văn T1
diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250A), tờ bản đồ số 08, ông Nguyễn
Văn T diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250D), tờ bản đồ số 08, bà
Nguyễn Thị Ư diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250C), tờ bản đồ số
08, bà Nguyễn Thị M diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250B), tờ bản
đồ số 08. Lý do chia thừa kế: diện tích đất nêu trên hiện do ông T quản lý, sử
dụng và được cấp quyền sử dụng đất nhưng có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn
6
T2 nên đó cũng là di sản thừa kế của ông T2 chưa chia. Ông xác định vị trí đất
tranh chấp có diện tích là 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250, tờ bản đồ số 8
thì ông đã xác định đúng theo Họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 29/02/2023
nên ông không có yêu cầu đo đạc lại.
Tại phiên tòa, ông xin rút yêu cầu chia thừa kế với ông T tại thửa 250, tờ
bản đồ số 08, tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Theo nội dung biên bản lấy lời khai, đơn yêu cầu độc lập và trong quá
trình tố tụng tại Tòa án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn
Thị M trình bày:
Ông Nguyễn Văn T2 là bác ruột của bà, ông T2 chết năm 1987, do thời
điểm chết đã lâu nên không có thực hiện khai tử theo quy định. Ông T2 có các
anh, chị em ruột gồm: Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thị K, Nguyễn
Văn T4, Nguyễn Văn T5, bà Nguyễn Thị N1. Hiện nay, tất cả các anh, chị em
ruột của ông T2 đều đã chết; ông T3 có một người con là bà Nguyễn Thị B1, 60
tuổi; địa chỉ: ấp T, xã B, huyện T, tỉnh Bến Tre. Ông Nguyễn Văn T5 có các
người con gồm: bà, ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Ư, ông Nguyễn Văn T.
Ông Nguyễn Văn T2 không có vợ con nên hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai đều
không còn. Bà xác định hàng thừa kế thứ ba của ông Nguyễn Văn T2 gồm: bà,
ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Ư, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị B1.
Sau khi ông T2 chết, không để lại di chúc. Di sản của ông T2 để lại là phần đất
có diện tích 775,3m
2
thuộc thửa đất số 214, tờ bản đồ số 07 và diện tích là
2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250, tờ bản đồ số 8, cùng tọa lạc tại xã A,
huyện T, tỉnh Bến Tre.
Nay bà yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa 214, tờ bản đồ
số 07 như sau: chia cho ông T diện tích đất là 199,8m
2
thuộc thửa số 214 (ký
hiệu 214D), tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre, bà Ư quản
lý và sử dụng diện tích đất là 192m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214C) tờ bản đồ
số 07, bà quản lý và sử dụng diện tích đất là 191,9m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu
214B) tờ bản đồ số 07, ông T1 quản lý và sử dụng diện tích đất là 191,7m
2
thuộc
thửa số 214 (ký hiệu 214A) tờ bản đồ số 07. Trên đất đang tranh chấp có trồng
cây dừa nước, bà không tranh chấp. Đối với chi phí đắp bờ bao đối với phần đất
thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 07, bà đồng ý với kết quả định giá ngày 25/8/2023
là 10.000.000 đồng.
Bà vẫn giữ yêu cầu độc lập về việc chia thừa kế đối với diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08 và yêu cầu chia đều thành 04 kỷ phần
bằng nhau, cụ thể: ông Nguyễn Văn T1 diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký
7
hiệu 250A), tờ bản đồ số 08, ông Nguyễn Văn T diện tích 550m
2
thuộc thửa số
250 (ký hiệu 250D), tờ bản đồ số 08, bà Nguyễn Thị Ư diện tích 550m
2
thuộc
thửa số 250 (ký hiệu 250C), tờ bản đồ số 08, bà diện tích 550m
2
thuộc thửa số
250 (ký hiệu 250B), tờ bản đồ số 08. Lý do chia thừa kế do bà cho rằng diện tích
đất nêu trên hiện do ông T quản lý nhưng có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn T2
nên đó cũng là di sản thừa kế của ông T2 chưa chia. Mặc dù diện tích bà yêu cầu
chia thừa kế là 2.290,8m
2
nhưng tại phiên tòa bà khẳng định đối với vị trí đất và
diện tích đất tranh chấp mà bà yêu cầu chia thừa kế thuộc một phần thửa số 250,
tờ bản đồ số 8 thì bà đã xác định đúng theo Họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày
29/02/2023 nên bà không có yêu cầu đo đạc lại. Bà đồng ý với kết quả đo đạc
theo Họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 23/9/2021 và kết quả thu thập tài liệu,
chứng cứ của Tòa án.
Theo bà biết thì cả hai phần đất thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 07 và thửa
250, tờ bản đồ số 08 thì không có đưa vào tập đoàn nhưng bà không có tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho lời trình bày của bà là có căn cứ.
Theo nội dung biên bản lấy lời khai, đơn khởi kiện và trong quá trình tố
tụng tại Tòa án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Ư
trình bày:
Nguyên là trước đây bác ruột bà tên là Nguyễn Văn T2 đã mất năm 1987.
Ông T2 không có vợ, con nên bà cùng ông T1, ông T, bà M là những người
thuộc hàng thừa kế thứ ba. Các hàng thừa kế thứ nhất và thứ hai của ông T2 đều
không còn. Sau đó, được sự thống nhất và đồng ý của gia đình, ông T đem di
ảnh của ông T2 về thờ cúng và làm lễ giỗ hàng năm, từ đó điện tích đất mà ông
T2 để lại cũng giao lại cho ông Nguyễn Văn T quản lý, sử dụng và canh tác từ
năm 1987 cho đến nay, ông Nguyễn Văn T1 thì thừa hưởng phần đất của cha mẹ
để lại.
Năm 1994, khi đoàn VLAP đo đạc, do ông Nguyễn Văn T đang điều trị vết
thương ở chân tái phát nên không có mặt ở nhà để đo đạc. Ông Nguyễn Văn T1
tự ý đứng ra kê khai đo đạc phần đết trên. Theo bà được biết thửa đất đang canh
tác theo hồ sơ thể hiện có diện tích là 4.472m² thuộc thửa 1277, tờ bản đồ số 01
(thửa cũ), chủ sử dụng là Ủy ban nhân dân xã A, sau đó có cấp lại cho nhiều
người trong đó có ông Nguyễn Văn T1. Theo đo đạc mới thì có diện tích là
775,3m² thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 7.
Diện tích tranh chấp có tứ cận như sau: phía Đông giáp đất ông Lê Văn R,
phía Tây giáp đất ông Ngô Văn Đ1, phía Bắc giáp ông Trần Văn O, phía Nam
8
giáp Quốc lộ E. Trên phần đất tranh chấp có lá dừa nước, ngoài ra không có tài
sản gì khác.
Bà yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú giải quyết buộc ông Nguyễn
Văn T1 phải chia cho bà phần di sản của ông Nguyễn Văn T2 để lại là 775,3m²
thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre. Bà yêu
cầu ông T1 phải chia cho bà diện tích 193,8m
2
thuộc một phần thửa 214, tờ bản
đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, trên đất không có tài sản gì.
Đối với phần đất tranh chấp giữa ông T1 và ông T có diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08, tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre
do ông T đang quản lý và sử dụng có nguồn gốc do ông Nguyễn Văn T2 để lại
cho ông T. Phần đất này bà yêu cầu ông T phải chia cho bà quản lý và sử dụng
phần đất có diện tích 572,7m² thuộc thửa 250, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại xã A,
huyện T, tỉnh Bến Tre. Bà Ư có yêu cầu vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng tại
Tòa án.
Theo nội dung biên bản lấy lời khai ngày 18/9/2024, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị B1 trình bày:
Ông Nguyễn Văn T2 là bác ruột của bà, ông T2 chết năm 1987, do thời
điểm chết đã lâu nên không có thực hiện khai tử theo quy định. Ông T2 có các
anh, chị em ruột gồm: Nguyễn Văn T3, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thị K, Nguyễn
Văn T4, Nguyễn Văn T5. Hiện nay, tất cả các anh, chị em ruột của ông T2 đều
đã chết; bà là con ruột của ông Nguyễn Văn T3. Ông Nguyễn Văn T5 có các
người con gồm: ông Nguyễn Văn T1, ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Ư, bà
Nguyễn Thị M. Ông Nguyễn Văn T2 không có vợ con nên hàng thừa kế thứ
nhất và thứ hai đều không còn. Bà xác định hàng thừa kế thứ ba của ông Nguyễn
Văn T2 gồm: bà, ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị Ư, bà
Nguyễn Thị M.
Ông T2 mất không để lại di chúc. Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng
đất, bà đồng ý với lời trình bày của ông Nguyễn Văn T1. Mặc dù nguồn gốc cả
hai thửa đất tranh chấp đều là của ông T2 (bác ruột bà) và bà cũng là một hàng
thừa kế của ông T2 nhưng bà xác định bà không có tranh chấp hay yêu cầu gì
trong vụ án này. Bà xin từ chối nhận di sản và xin không tham gia tố tụng trong
vụ án.
Đối với vụ án tranh chấp giữa ông T và ông T1 thì bà yêu cầu Tòa án xem
xét, giải quyết vụ án theo quy định. Vì lý do bận công việc gia đình nên bà yêu
9
cầu được vắng mặt trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Bà cam kết không tranh
chấp hay khiếu nại gì về sau.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú đưa vụ án ra
xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 206/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre đã tuyên:
Căn cứ vào Điều 26, điểm a, khoản 1 Điều 35, các điều 39, 147, 157, 217,
227, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 609, 610, 611,
612, 618, 623, 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 5 Điều 26, các điều 99,
100, 101, 103, 166, 167, 169, 170, 179, 188, 203 Luật Đất đai; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí của Tòa án.
Tuyên xử:
Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T1 về việc yêu cầu chia
thừa kế đối với phần đất tranh chấp có diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký
hiệu 250A) tờ bản đồ số 08, tọa lạc ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc yêu
cầu chia thừa kế đối với diện tích đất là 199,8m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu
214D) tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị M về việc yêu cầu
chia thừa kế đối với diện tích đất là 191,9m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214B),
tờ bản đồ số 07 và diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250B), tờ bản đồ
số 08, tọa lạc tại ấp A, xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Ư về việc yêu cầu
chia thừa kế đối với diện tích đất là 193,8m
2
thuộc thửa số 214, tờ bản đồ số 07
và diện tích đất là 572,7m
2
thuộc thửa số 250, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp A,
xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Đối với diện tích 1.300m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08 nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh chấp nên Hội
đồng xét xử không xem xét.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị B1 không tranh chấp,
từ chối nhận di sản và xin không tham gia tố tụng nên Hội đồng xét xử không
xem xét.
10
Về độ dài tứ cận, vị trí thửa đất có trích lục họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thửa 214, tờ bản đồ số 07 và thửa 250, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp A, xã A,
huyện T kèm theo.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Ngày 14/10/2024, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên yêu cầu kháng
cáo, không đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm.
Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn, đề
nghị y án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền và
nghĩa vụ được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên
Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng của các bên đương sự, xét kháng
cáo của nguyên đơn và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến
Tre; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng
cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự
phúc thẩm.
Thửa đất số 214, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre do
ông T6 quản lý sử dụng nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Căn cứ vào Giấy xác nhận ngày 12/6/2020 của Ủy ban nhân dân xã A xác
định thửa đất số 214, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre
11
không thuộc quản lý của Ủy ban nhân dân xã A. Ủy ban nhân dân xã A không
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Vì vậy, Ủy ban nhân dân xã A
không tham gia tố tụng là đúng quy định.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T yêu cầu Tòa án giải quyết chia di sản thừa
kế, yêu cầu buộc ông T1 phải chia cho ông diện tích đất là 199,8m
2
thuộc thửa
số 214 (ký hiệu 214D), tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
Ông đồng ý giao cho bà Ư quản lý và sử dụng diện tích đất là 192m
2
thuộc thửa
số 214 (ký hiệu 214C), tờ bản đồ số 07, bà M quản lý và sử dụng diện tích đất là
191,9m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214B), tờ bản đồ số 07, ông T1 quản lý và
sử dụng diện tích đất là 191,7m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214A), tờ bản đồ số
07. Đối với việc ông T1 rút yêu cầu chia thừa kế đối với diện tích 550m
2
thuộc
thửa số 250 (ký hiệu 250A), tờ bản đồ số 08 thì ông T đồng ý. Ông T không
đồng ý với yêu cầu chia thừa kế của bà M, bà Ư đối với diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08 do phần đất đó ông đã được cấp quyền
sử dụng đất ổn định.
Ông Nguyễn Văn T1 không đồng ý chia thừa kế quyền sử dụng đất cho ông
T, bà M, bà Ư đối với phần đất có diện tích 775,3m² thuộc thửa 214, tờ bản đồ
số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre. Về chi phí đắp bờ bao thì ông
đồng ý với kết quả định giá ngày 25/8/2023 là 10.000.000 đồng.
Bà M, bà Ư có yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa 214, tờ
bản đồ số 07 và diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08,
tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre. Cụ thể, bà M yêu cầu chia như sau: Chia
cho ông T diện tích đất là 199,8m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214D) tờ bản đồ
số 07, bà Ư quản lý và sử dụng diện tích đất là 192m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu
214C), tờ bản đồ số 07, bà M quản lý và sử dụng diện tích đất là 191,9 m
2
thuộc
thửa số 214 (ký hiệu 214B), tờ bản đồ số 07, ông T1 quản lý và sử dụng diện
tích đất là 191,7m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214A), tờ bản đồ số 07; chia cho
ông Nguyễn Văn T1 diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250A), tờ bản
đồ số 08, ông Nguyễn Văn T diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250D),
tờ bản đồ số 08, bà Nguyễn Thị Ư diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu
250C), tờ bản đồ số 08, bà M diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký hiệu 250B),
tờ bản đồ số 08. Bà Ư yêu cầu ông T1 phải chia cho bà diện tích 193,8m
2
thuộc
một phần thửa 214, tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre và
yêu cầu ông T phải chia cho bà phần đất có diện tích 572,7m² thuộc thửa 250, tờ
bản đồ số 08, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
12
[3] Xét yêu cầu khởi kiện và kháng cáo của nguyên đơn, yêu cầu độc lập
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Về thời hiệu khởi kiện:
Tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời hiệu khởi
kiện về thừa kế như sau: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di
sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể thừa thời điểm
mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người quản lý di sản đó”. Tuy
nhiên các đương sự đều thống nhất thời gian ông T2 chết là năm 1987, thuộc
trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/9/1990, thời hiệu khởi kiện di sản thừa kế
là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh thừa kế
năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định
của Pháp lệnh thừa kế, cụ thể: “Thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày
10/9/1990”. Do đó, trường hợp này, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế vẫn còn.
[3.2] Về nguồn gốc đất tranh chấp:
Phần đất tranh chấp diện tích 775,3m
2
thuộc thửa số 214, tờ bản đồ số 07 và
diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã A,
huyện T, tỉnh Bến Tre có nguồn gốc là của ông Nguyễn Văn T2 (bác ruột của
ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị Ư, ông Nguyễn Văn T1, bà Nguyễn Thị M,
bà Nguyễn Thị B1). Theo trình bày của đương sự và qua kết quả thẩm tra xác
minh của Tòa án đối với ông Trần Văn S, bà Đặng Thị M1, ông Lê Văn Đ có cơ
sở xác định vào năm 1981-1982 khi có chủ trương đưa đất vào tập đoàn thì phần
đất diện tích 775,3m
2
thuộc một phần thửa số 214, tờ bản đồ số 07 được đưa vào
tập đoàn nhưng do là đất thuỷ lợi, không phải đất nông nghiệp nên không được
tập đoàn khoán cấp cho ai mà thuộc quyền quản lý của Ủy ban nhân dân xã A.
Căn cứ vào Báo cáo số 116/BC-UBND ngày 14/3/2019 của Ủy ban nhân dân xã
A xác định ông Nguyễn Văn T1 là người được Ủy ban nhân dân xã A cho phép
trực tiếp quản lý và sử dụng phần đất nêu trên từ năm 1992 đến năm 2019 thì
ông T mới phát sinh tranh chấp. Căn cứ vào Giấy xác nhận ngày 12/6/2020 của
Ủy ban nhân dân xã A có nội dung: “Căn cứ vào hồ sơ quản lý tại địa phương
(Hồ sơ 299) thì đo đạc năm 1994 hồ sơ địa chính để chủ sử dụng UBND, thuộc
thửa 1277, tờ bản đồ số 1, diện tích 4472m
2
. Do trước đó không có chủ sử dụng
kê khai đăng ký, nên năm 2010 đo đạc VLAP lập hồ sơ địa chính và đo đạc
chỉnh lý thuộc 214, tờ bản đồ số 7, diện tích 775,3m
2
do ông Nguyễn Văn T1 kê
khai đăng ký.
13
Căn cứ vào hồ sơ quản lý đất công, công ích của xã thì thửa 214, tờ bản đồ
số 7 không thuộc quản lý của Ủy ban nhân dân xã A.”
Đối với phần đất có diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250, tờ bản
đồ số 8, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre, mặc dù căn cứ vào quy trình cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn T thì theo đơn đăng
ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất ông T xác định diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250,
tờ bản đồ số 08 là do ông Nguyễn Văn T5 (cha ruột ông T) cho năm 1990 nhưng
qua sự thừa nhận của các đương sự và kết quả thẩm tra xác minh của Tòa án đối
với ông Trần Văn S, bà Đặng Thị M1, ông Lê Văn Đ có cơ sở xác định phần đất
có diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250, tờ bản đồ số 08 có nguồn
gốc của ông Nguyễn Văn T2, phần đất này cũng được đưa vào tập đoàn sản xuất
theo chủ trương của nhà nước và sau đó tập đoàn khoán cấp lại cho ông Nguyễn
Văn T; phần còn lại của thửa 250 có diện tích 1.300m
2
do ông Nguyễn Văn T
thỏa thuận với bà Nguyễn Thị V theo nội dung Quyết định số 815/QĐ-TTg ngày
04/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ.
Đồng thời, tại khoản 5 Điều 26 Luật Đất đai năm 2013 có quy định: “Nhà
nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được giao theo quy định của Nhà nước
cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền N Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Do đó, mặc dù các đương sự đều thừa nhận cả thửa 214, tờ bản đồ số 07 và
thửa 250, tờ bản đồ số 08 có nguồn gốc của ông Nguyễn Văn T2 nhưng cả hai
phần đất này đều được đưa vào tập đoàn sản xuất và sau khi tập đoàn T7 thì
phần đất thuộc thửa 214, tờ bản đồ số 07 và thửa 250, tờ bản đồ số 08 đều không
được cấp lại cho ông T2 nên có cơ sở xác định phần đất tranh chấp có diện tích
775,3m
2
thuộc thửa số 214, tờ bản đồ số 07 và diện tích 2.290,8m
2
thuộc một
phần thửa số 250, tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre không
phải là di sản thừa kế chưa chia của ông Nguyễn Văn T2. Do đó, yêu cầu chia
thừa kế của ông Nguyễn Văn T, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Ư tại thửa
đất số 214, tờ bản đồ số 07 và diện tích 2.290,8m
2
thuộc một phần thửa số 250,
tờ bản đồ số 8, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre là không có căn cứ nên
Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế của ông Nguyễn Văn
T, bà Nguyễn Thị M, bà Nguyễn Thị Ư là phù hợp.
14
[3.3] Đối với diện tích 1.300m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08,
tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre thì nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không tranh chấp nên không xem xét.
[4] Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo.
[5] Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là
phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên được chấp nhận.
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông T là người cao tuổi nên được miễn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn T.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 206/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ vào các điều 609, 610, 611, 612, 618, 623, 688 Bộ luật Dân sự năm
2015; khoản 5 Điều 26, 99, 100, 101, 103, 166, 167, 169, 170, 179, 188, 203 của
Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ vào các điều 147, 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
của Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Văn T1 về việc yêu cầu chia
thừa kế đối với phần đất tranh chấp có diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250 (ký
hiệu 250A), tờ bản đồ số 08, tọa lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc yêu
cầu chia thừa kế đối với diện tích đất là 199,8m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu
214D), tờ bản đồ số 07, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
3. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị M về việc yêu cầu
15
chia thừa kế đối với diện tích đất là 191,9m
2
thuộc thửa số 214 (ký hiệu 214B),
tờ bản đồ số 07 và diện tích 550m
2
thuộc thửa số 250, (ký hiệu 250B), tờ bản đồ
số 08, tọa lạc tại xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre.
4. Không chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Ư về việc yêu cầu
chia thừa kế đối với diện tích đất là 193,8m
2
thuộc thửa số 214, tờ bản đồ số 07
và diện tích đất là 572,7m
2
thuộc thửa số 250, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại xã A,
huyện T, tỉnh Bến Tre.
5. Đối với diện tích 1.300m
2
thuộc một phần thửa 250, tờ bản đồ số 08, tọa
lạc xã A, huyện T, tỉnh Bến Tre thì nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị B1 không tranh
chấp, từ chối nhận di sản và xin không tham gia tố tụng nên Hội đồng xét xử
không xem xét.
Về độ dài tứ cận, vị trí thửa đất có trích lục họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thửa 214, tờ bản đồ số 07 và thửa 250, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại xã A, huyện T,
tỉnh Bến Tre kèm theo.
7. Về chi phí tố tụng: Tổng số tiền chi phí tố tụng là 18.323.000 đồng
(mười tám triệu, ba trăm hai mươi ba nghìn đồng).
Ông Nguyễn văn T và bà Nguyễn Thị Ư có nghĩa vụ chịu 7.495.000 đồng
(bảy triệu, bốn trăm chín mươi lăm nghìn đồng) và đã quyết toán xong.
Ông Nguyễn Văn T1 tự nguyện chịu số tiền chi phí tố tụng là 10.828.000
đồng (mười triệu, tám trăm hai mươi tám nghìn đồng) và đã quyết toán xong.
8. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Do yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn
Thị Ư, bà Nguyễn Thị M không được chấp nhận nên ông T, bà M, bà Ư không
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Bà Nguyễn Thị M được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh phú hoàn
trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) theo biên
lai thu số 0005244 ngày 12/7/2021 và 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm nghìn
đồng) theo biên lai thu số 0005074 ngày 22/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Thạnh Phú.
Ông Nguyễn Văn T1 được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh phú
hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) theo
biên lai thu số 0000779 ngày 27/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Thạnh Phú.
16
9. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Nguyễn Văn T được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Thạnh Phú;
- Chi cục THADS huyện Thạnh Phú;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm