Bản án số 19/2025/DS-PT ngày 28/02/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 19/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 19/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 19/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 19/2025/DS-PT ngày 28/02/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hải Dương |
Số hiệu: | 19/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 19/2025/DS-PT
Ngày: 28 - 02 - 2025
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
V/v tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Đăng Huy
Các Thẩm phán: Ông Trần Hữu Hiệu
Bà Phạm Thúy Hằng
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Mai Trang – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương: Bà Bùi Thị Hậu -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 28 tháng 02 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 119/2024/TLPT-DS ngày 18 tháng
11 năm 2024 về “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ
thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện
Ninh Giang, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
phúc thẩm số 21/2025/QĐ-PT ngày 10 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị N, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện
N, tỉnh Hải Dương; có mặt
- Bị đơn: Ông Bùi Văn N1, sinh năm 1956; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện
N, tỉnh Hải Dương; có mặt
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1970 và chị Triệu Thị L, sinh năm 1975; địa
chỉ: Thôn K, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương; (chị L ủy quyền cho anh T), anh T
có mặt, chị L vắng mặt
2. Bà Bùi Thị K, sinh năm 1938 (đã chết);
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà K: Anh Lê Văn L1, sinh năm
1951; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương; Có mặt
3. Ông Bùi Văn Đ, sinh năm 1945; địa chỉ: Thôn K, xã Y, huyện T, tỉnh
Quảng Ninh; vắng mặt
2
4. Bà Bùi Thị L2, sinh năm 1950; địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện N, tỉnh
Hải Dương; vắng mặt
5. Bà Bùi Thị T1, sinh năm 1952; địa chỉ: Khu A, phường Q, thị xã Q, tỉnh
Quảng Ninh; vắng mặt
6. Ông Bùi Quang V, sinh năm 1953; địa chỉ: Số A, khu A, đường B, thị
trấn H, huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ, bà L2, bà T1, ông V: Bà Bùi Thị
N, sinh năm 1963; địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương. có mặt
7. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1936; vắng mặt
8. Anh Nguyễn Hữu N2, sinh năm 1972; có mặt
Đều có địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
9. Anh Nguyễn Hữu T2, sinh năm 1962; vắng mặt
10. Chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1968; vắng mặt
Đều có địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
11. Chị Nguyễn Thị V1, sinh năm 1959; địa chỉ: Thôn Đ, xã Q, huyện Q,
tỉnh Thái Bình; vắng mặt
12. Chị Nguyễn Thị N3, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện Đ,
tỉnh Kon Tum. Vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền của bà S, anh T2, chị B, chị V1, chị N3: Anh
Nguyễn Hữu N2, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình.
Có mặt
13. Ủy ban nhân dân xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương
Người đại diện theo pháp luật:Ông Trần Đình B1 – Chủ tịch UBND xã,
xét xử vắng mặt
- Người kháng cáo: Anh Đỗ Văn T – người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan. Có mặt
Bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Nguyên đơn – bà Bùi Thị N đồng thời là người đại diện theo ủy quyền
của ông Đ, bà L2, bà T1, ông V trình bày:
Cụ Bùi Văn N4 và cụ Phạm Thị Đức S1 được 08 người con gồm: bà Bùi
Thị T3, sinh năm 1936 (đã chết); bà Bùi Thị K (chết năm 2018), bà K có con trai
là anh Lê Văn L1, sinh năm 1951); ông Bùi Văn Đ, sinh năm 1945; bà Bùi Thị
L2, sinh năm 1950; bà Bùi Thị T1, sinh năm 1952; ông Bùi Quang V, sinh năm
1953; ông Bùi Văn N1, sinh năm 1956 và bà.
Bà Bùi Thị T3 kết hôn với ông Nguyễn Ngọc K1, sinh năm 1928, ông bà
không có con đẻ, con nuôi. Ông K1 chết ngày 06/01/2010, bà T3 chết ngày
18/5/2014; khi chết hai ông bà đều không để lại di chúc. Quá trình chung sống,
ông K1, bà T3 tạo dựng được khối tài sản chung gồm:
3
- Thửa đất 272, tờ bản đồ 03, diện tích 282 m² (trong đó đất ở 200 m²; đất
vườn trồng cây hàng năm 82 m²), trên đất có nhà ở cấp 4 hiện đã cũ dột nát không
sử dụng được; đã được UBND huyện N cấp GCNQSDĐ số Q963976 ngày
11/7/2003 mang tên Nguyễn Ngọc K1 và Bùi Thị T3.
- Thửa đất 270a, tờ bản đồ số 03, diện tích 44 m² đất ở được UBND huyện
N cấp GCNQSDĐ số AE026572 ngày 15/5/2006 mang tên Bùi Thị T3.
Hai thửa đất đều có địa chỉ tại xã A, huyện N, tỉnh Hải Dương.
Năm 2010, ông K1 chết (bố mẹ ông K1 đã chết trước ông K1), hàng thừa
kế thứ nhất chỉ có bà T3 nên bà T3 được quyền quản lý, sử dụng hai thửa đất số
272, 270a, tờ bản đồ số 03 và tài sản trên đất. Năm 2014, bà T3 chết nên hàng
thừa kế thứ nhất không có mà chỉ có hàng thừa kế thứ hai là các anh chị em ruột
của bà T3.
Sau khi bà T3 chết, do ông N1 đứng lên tuyên bố tài sản của bà T3 thuộc
quyền quản lý, sử dụng của ông N1 nên các anh, chị em bà không nhất trí và đã
nhiều lần họp gia đình để hòa giải nhưng đều không thống nhất được. Do đó bà
khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bà T3, ông K1 theo quy định pháp luật.
Bà đề nghị Tòa án giao cho bà được hưởng toàn bộ di sản của bà T3, ông K1 để
lại bằng hiện vật (do các anh chị em đều đã nhượng lại kỷ phần cho bà), bà sẽ có
trách nhiệm trích trả kỷ phần cho ông N1 bằng tiền.
Ông Đ, bà L2, bà T1, ông V tự nguyện tặng cho toàn bộ kỷ phần được
hưởng cho bà N.
2. Bị đơn – ông Bùi Ngọc N5 trình bày:
Về thời điểm bà T3 kết hôn với ông K1, ông bà không có con đẻ, con nuôi
hợp pháp, cũng như thời điểm ông bà Khiên T3 chết, thời điểm mở thừa kế và
hàng thừa kế như bà N trình bày là đúng. Sau khi bà T3 chết, ông là người quản
lý 02 thửa đất số 272, 270a, tờ bản đồ số 03 + tài sản trên đất. Ông đề nghị hòa
giải để anh, chị em thống nhất về việc phân chia di sản thừa kế của bà T3, ông
K1. Trường hợp không hòa giải được, ông đề nghị phân chia khối di sản theo quy
định pháp luật.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Anh Nguyễn Hữu N2 đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của
bà S, anh T2, chị B, chị V1, chị N3 trình bày:
Ông K1 là chú ruột của anh. Ông K1 có anh chị em ruột là bố anh – ông
Nguyễn Hữu L3 (chết ngày 02/8/2010) và bà Nguyễn Thị S. Về việc ông bà Khiên
T4 không có con đẻ, con nuôi; thời điểm ông bà Tâm K2 chết và di sản thừa kế
đúng như bà N trình bày. Bà N khởi kiện yêu cầu chia sản thừa kế của ông bà Tâm
K2, anh không đồng ý vì nguyện vọng của con cháu là để lại thửa đất trên làm nơi
thờ cúng cho ông bà Tâm K2. Đồng thời anh có quan điểm di sản thừa kế của ông
bà phải chia cho hai bên nội, ngoại được hưởng như nhau.
3.2. Anh Lê Văn L1 (người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà K)
trình bày:
Năm 1974 trước khi đi bộ đội anh sinh sống với ông K2, bà T4. Ông bà
không có con chung và không nhận con nuôi. Ông bà chưa khi nào đón anh T về
nuôi dưỡng và làm thủ tục nhận con nuôi theo quy định. Khi bà T4 chết không ai
4
biết, bà N từ Hải Dương về mới phát hiện ra và gọi mọi người đến lo hậu sự. Anh
đề nghị tặng cho toàn bộ kỷ phần được hưởng của anh cho bà N.
3.3. Anh Đỗ Văn T, chị Triệu Thị L trình bày:
Khi còn sống ông K2 và bà T4 không có con nên đã nói chuyện với bố mẹ
đẻ của anh (vì nhà anh lúc đó đông con, bố mẹ đẻ anh sinh được 07 người con,
khi anh được 02 tuổi thì bố đẻ anh mất) muốn nhận anh làm con nuôi, mẹ anh
đồng ý cho anh làm con nuôi ông K2 và bà T4. Ông K2 và bà T4 nhận anh làm
con nuôi từ khi còn nhỏ cho đến khi dựng vợ, gả chồng, những công việc của bố
mẹ nuôi anh đều có mặt và công việc của anh thì bố mẹ nuôi đều có mặt lo toan.
Cuộc sống của vợ chồng anh được bố mẹ nuôi thường xuyên vun vén, cả về công
sức, tiền bạc để lo toan công việc. Trong cuộc sống anh coi ông K2, bà T4 như bố
mẹ đẻ của mình vì ông bà không có con chỉ có duy nhất mình anh là con nuôi nên
từ khi chưa lấy vợ đến sau này có vợ thì mọi công việc trong gia đình của bố mẹ
nuôi cả bên nội, bên ngoại của bố mẹ nuôi, vợ chồng anh đều có mặt chung tay lo
toan. Khi bố mẹ nuôi anh chết đột ngột thì việc lo hậu sự của bố mẹ nuôi đều do
vợ chồng anh bỏ tiền đứng lên lo toan mọi thứ cho mồ yên mả đẹp (Anh đứng lên
mời cả bên nội, bên ngoại và hàng xóm láng giềng). Sau khi bố mẹ nuôi chết thì
có họp hai bên nội ngoại của bố mẹ nuôi và thống nhất giao cho anh quản lý trông
nom và có trách nhiệm thờ cúng ông bà hàng năm. Việc này có sự chứng kiến của
những người bên nội và bên ngoại của bố mẹ nuôi và những người dân ở thôn K,
xã A.
Đối với khối tài sản chung của ông K2 bà T4 bao gồm: 01 thửa đất số 272,
tờ bản đồ số 03, diện tích 282m² và 01 thửa đất số 270a, tờ bản đồ số 03, diện tích
44m²; sau khi ông bà chết toàn bộ khối tài sản này do anh quản lý từ năm 2014
đến nay. Sau khi anh cải táng cho bố mẹ nuôi vào năm 2019 xong thì các em của
bà T4 có đến đòi đất để chia thừa kế mà không cho anh biết. Chỉ đến khi Tòa án
gần xét xử thì anh mới biết việc bà N, ông N5 có tranh chấp về tài sản bố mẹ nuôi
để lại và anh đang có trách nhiệm được giao quản lý trông nom di sản. Do nơi thờ
cúng của bố mẹ nuôi anh thời gian gần đây có xuống cấp nên hai vợ chồng anh
đang tính sẽ tu sửa hoặc xây mới để có nơi thờ cúng cho bố mẹ nuôi. Anh đề nghị
Tòa án giải quyết:
+ Xác định nghĩa vụ do người chết (bà T4) để lại đối với số tiền 8.963.000
đồng do vợ chồng anh đã chi phí cho đám tang của bà T4.
+ Công nhận anh là con nuôi thực tế của ông K2, bà T4 và là người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của ông K2, bà T4. Giao toàn bộ di sản của bà T4, ông K2
cho anh được quản lý sử dụng, thờ cúng cũng như là chỗ để các con cháu bên nội
bên ngoại đến thắp hương cho ông bà.
4. Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện N:
Nguồn gốc, quá trình sử dụng của thửa đất:
Theo sổ dã ngoại và bản đồ 299 thể hiện: Thửa 192, tờ bản đồ số 06, diện
tích 400 m², loại đất: đất thửa mang tên chủ sử dụng Nguyễn Bá N6 và 01 phần
thửa đất số 191, tờ bản đồ số 6, diện tích 461 m², loại đất: đất ao do UBND xã
quản lý.
5
Theo hồ sơ địa chính năm 1993 thể hiện: thửa đất 272, tờ bản đồ số 03, diện
tích 282 m², loại đất T (đất ở) mang tên chủ sử dụng Nguyễn Bá N7 và 01 phần
thửa đất số 270, tờ bản đồ số 03, diện tích 441 m², loại đất ao do UBND xã quản
lý.
Tại Quyết định số 246/QĐ- UB ngày 26/5/2003 của UBND huyện N cho
phép ông Đoàn Phú Đ1 sử dụng 200 m² đất ao để vượt lập làm nhà ở. Đến ngày
28/02/2006 ông Đ1 chuyển nhượng cho cụ Bùi Thị T3 44 m² được thể hiện tại
thửa đất số 270a, tờ bản đồ số 3, diện tích 44 m² và ngày 15/5/2006 được UBND
huyện N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Bùi Thị T3.
Ngày 16/5/2003 hộ gia đình ông Nguyễn Bá N6, bà Trịnh Thị C chuyển
nhượng 282 m² đất ở và tài sản gắn liền với đất với giá 15.000 đồng/ m². Tổng giá
trị chuyển nhượng là 4.200.000 đồng.
Ngày 11/7/2003 ông K2, bà T3 được UBND huyện N cấp giấy CNQSDĐ
đối với thửa đất số 272, tờ bản đồ số 3, diện tích 282 m² (trong đó: đất ở diện tích
200 m²; đất vườn trồng cây hàng năm 10/2013 diện tích 82 m²).
Tại hồ sơ địa chính năm 2013 thể hiện thửa đất số 54, tờ bản đồ 37, diện
tích 356 m² mang tên chủ sử dụng Bùi Thị T3. Diện tích đất thực tế tăng lên so
với GCNQSDĐ là sai số do đo đạc.
Việc trừ đất ngoài đồng: Ông K2, bà T3 là cán bộ hưu trí, không được giao
ruộng nên không trừ đất ngoài đồng.
Tại sổ đăng ký khai tử xã A thể hiện: Cụ Nguyễn Ngọc K1, sinh năm
1928; mất ngày 01/01/2010 đăng ký khai tử vào ngày 06/01/2010; cụ Bùi Thị T3,
sinh năm 1933; mất ngày 18/5/2014. Ông K1, bà T3 không có con đẻ, con nuôi
và không để lại di chúc phân chia di sản thừa kế.
5. Kết quả thẩm định, định giá tài sản:
Thửa số 272 và thửa số 270a, tờ bản đố số 03 có tổng diện tích đo hiện trạng
là 327,5 m². Giá trị quyền sử dụng đất là 8.000.000 đồng/m
2
đất ở; 75.000 đồng/m
2
đất trồng cây hàng năm. Tài sản trên đất gồm 01 nhà trị giá 10.709.000 đồng và
các công trình khác (01 tường hoa, 01 sân lát gạch, 01 bể nước, 01 cổng, 01 cây
nhãn, 01 cây xoài, 02 cây dừa), tổng trị giá tài sản trên đất là 14.754.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 25 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu hưởng di sản thừa kế của bà S và những người
kế thừa quyền và nghĩa vụ của ông L3; không chấp nhận yêu cầu của anh T về
việc xác định anh T là con nuôi thực tế của ông bà Tâm K2 và yêu cầu hưởng di
sản thừa kế của anh T. Đình chỉ yêu cầu của anh T, chị L về việc xác định nghĩa
vụ do người chết để lại đối với số tiền 8.963.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N6:
- Xác định di sản thừa kế của bà T3 gồm thửa đất số 272, 272a, tờ bản đồ
số 03, diện tích 327,5 m² và các tài sản trên đất. Tổng giá trị di sản thừa kế là
1.973.016.500 đồng.
6
- Xác định những người thừa kế của bà T3 gồm bà N6, ông Đ, bà L2, bà
T1, ông V, anh L1 (người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà K3), trị giá di sản thừa
kế mỗi người được hưởng là 281.859.500 đồng
- Chấp nhận sự tự nguyện của ông Đ, bà L2, bà T1, ông V, anh L1 về việc
tặng cho toàn bộ kỷ phần của mình cho bà N6.
- Về chia hiện vật: Chia cho bà N6 toàn bộ diện tích 327,5 m
2
đất và toàn
bộ tài sản trên đất. Bà N6 có trách nhiệm trả cho ông N5 281.859.500 đồng.
Ngoài ra bản án còn áp dụng điều luật, tuyên về chi phí tố tụng, án phí,
quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/10/2024, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan – anh Đỗ Văn T kháng cáo với nội dung: Đề nghị xác định anh là con
nuôi hợp pháp của ông K2, bà T3 và được hưởng di sản thừa kế của ông bà; tính
công sức trông coi, quản lý di sản của ông bà T3, K2.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên yêu cầu phản tố và
yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
anh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Anh T kháng cáo không được chấp nhận nên
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của đương sự trong thời hạn quy định tại Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự là kháng cáo hợp lệ được xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
[2] Xem xét kháng cáo của anh Đỗ Văn T:
[2.1] Đối với kháng cáo đề nghị xác định con nuôi và giao di sản thừa kế
của ông K2, bà T3 cho anh T quản lý, sử dụng: Lời khai của một số hàng xóm tại
khu vực gần nhà ông K2, bà T3 xác định anh T không ở cùng nhà với ông bà, khi
còn sống hai ông bà có nhiều người đến nhận con nuôi vì 02 cụ là giáo viên, không
có con đẻ nên ai giúp đỡ hoặc ông bà quý ai thì tự nhận là con nuôi. Xác minh tại
UBND xã A thể hiện không có việc bà T3, cụ K2 làm thủ tục nhận con nuôi. Tại
thời điểm chuẩn bị xét xử sơ thẩm, anh T có đơn đề nghị Ủy ban xã xác nhận là
con nuôi của ông K2, bà T3 nhưng Ủy ban xã đã không xác nhận vì một số đơn
của những người mà anh T giao nộp chủ yếu có quan hệ họ hàng ruột thịt với anh
T, thể hiện sự không khách quan, địa phương xác định anh T không phải là con
7
nuôi hợp pháp của bà T3, ông K2. Thông tin trên dữ liệu quốc gia về dân cư cũng
chỉ thể hiện bố mẹ đẻ anh T là ông T5, bà D và anh T không có bố mẹ nuôi.
Ngoài ra lời khai của bà N6 xác định năm 2010, ông K2 bị tai biến nằm liệt
một chỗ thì bà T3 phải nhờ người chăm sóc, lúc đó chỉ có chị em bà N6 đến hỗ
trợ. Sau khi ông K2 chết, bà T3 sống 1 mình, bà N6 lĩnh lương hàng tháng hộ bà
T3 và chăm sóc cho bà T3. Sau đó, bà N6 có lên Hải Dương trông cháu khoảng
10 ngày, khi về phát hiện bà T3 đã chết. Lời khai của bà N6 cũng phù hợp với lời
khai của anh T thể hiện anh T không sống cùng với ông bà Tâm K2 và ông bà
Tâm K2 cũng không nuôi anh T ngày nào.
Việc anh T trình bày có lo ma chay hay ông bà Tâm K2 có tham gia vào
các công việc như dựng vợ, gả chồng cho anh T không có nghĩa anh T là con nuôi
của ông bà T3, Khiên như đã phân tích ở trên. Do đó không có căn cứ xác định
anh T là con nuôi hợp pháp và trên thực tế của ông K2, bà T3 nên anh T không
thuộc diện thừa kế theo quy định và không được hưởng phân chia di sản thừa kế
của ông K2, bà T3.
[2.2] Đối với kháng cáo đề nghị tính công sức trông coi, quản lý di sản của
ông bà T3, K2 cho vợ chồng anh T: Tại biên bản xác minh Ủy ban nhân dân xã A
xác định khối di sản thừa kế của ông bà K2, T3 khi ông bà chết không có ai sinh
sống, quản lý, trông nom, toàn bộ nhà đất để hoang, xuống cấp. Lời khai của ông
N5, bà N6 xác định khi cụ T3 chết không có ai ở cùng cụ; ông N5 khai nhà đất
của ông bà để hoang, không có việc trông nom của anh T. Tại phiên tòa, các đương
sự và chính anh T đều xác định từ khi ông bà Khiên T3 chết không có ai đến ở
trên thửa đất của ông bà. Do đó xác định vợ chồng anh T không có công sức, trông
nom quản lý di sản của ông bà T3, K2.
Từ những phân tích trên, xác định toàn bộ kháng cáo của anh T không có
căn cứ chấp nhận nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Anh T kháng cáo không được chấp nhận nên phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội
đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án.
8
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của anh Đỗ Văn T. Giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 25/9/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Đỗ Văn T phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự phúc thẩm, đối trừ với số tiền 300.000 đồng anh T đã nộp theo biên lai
thu số 0001047 ngày 09/10/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh
Giang, tỉnh Hải Dương, anh T đã thi hành xong.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án phúc thẩm
28/02/2025.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- TAND huyện Ninh Giang;
- Chi cục THADS huyện Ninh Giang;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Bùi Đăng Huy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm