Bản án số 88/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 88/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 88/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 88/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 88/2025/DS-PT ngày 26/02/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Tháp |
Số hiệu: | 88/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG THÁP
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 88/2025/DS-PT
Ngày: 26-02-2025
V/v “Tranh chấp tuyên bố vô
hiệu di chúc, chia thừa kế”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hứa Quang Thông.
Các Thẩm phán: Ông Đinh Chí Tâm.
Bà Kiều Kim Xuân.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Mỹ Hương - Thư k Tòa án nhân dân tỉnh
Đng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Điểu - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17/01 và ngày 26/02/2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Đng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ l số: 403/2024/TLPT-
DS ngày 09 tháng 10 năm 2024, về việc “Tranh chấp tuyên bố di chúc vô hiệu,
chia thừa kế”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 33/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 763/2024/QĐ-PT ngày
09 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Thị Đ, sinh năm 1958.
Địa chỉ: Số B, ấp B, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Đ: Anh Nguyễn Thanh L,
sinh ngày 01/4/1994 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ I, Thôn D, L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàug Tàu.
2. Bị đơn: Trần Văn M, sinh năm 1967 (Có mặt).
Địa chỉ: Tổ G, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Đng Tháp.
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Trần Văn A, sinh năm 1946 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp P, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
3.2. Trần Văn B, sinh năm 1947.
Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Văn B: Ông Lê Quang C, sinh
năm 1965 (Có mặt). Địa chỉ: Số A, khu dân cư K, thị trấn L, huyện L, tỉnh Vĩnh
Long (Văn bản ủy quyền ngày 07/3/2022).
3.3. Trần Thị B1, sinh năm 1965 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Đng Tháp.
3.4. Trần Thị T, sinh năm 1966 (Có mặt).
Địa chỉ: Số A, khu dân cư K, thị trấn L, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
3.5. Trần Thị P, sinh năm 1969 (Có mặt).
3.6. Trần Minh H, sinh năm 1999 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: Tổ G, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Đng Tháp Tháp.
4. Người kháng cáo: Bà Trần Thị Đ là nguyên đơn; Ông Trần Văn A, ông
Trần Văn B, bà Trần Thị B1, bà Trần Thị T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án.
NỘI DUNG V ÁN:
Theo đơn khởi kiện, tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Trần Thị Đ
trình bày:
Cha mẹ của bà là ông Trần Văn M1 (chết năm 2018) và bà Nguyễn Thị T1
(chết năm 2016) chung sống với nhau có 06 con chung gm: Trần Văn A, Trần
Văn B, Trần Văn D (đã chết không vợ con), Trần Thị Đ, Trần Văn D1 (đã chết có
01 vợ và 01 con nhưng không biết họ tên gì, đang ở đâu) và Trần Thị T. Thời gian
bà T1 sinh bà thì ông M1 không sống với bà Nguyễn Thị T1 mà chung sống với
bà Lê Thị T2 (chết năm 2013). Ông M1 và bà T2 chung sống với nhau có 02 con
chung là bà Trần Thị B1 và ông Trần Văn M. Khi còn sống chung thì cha mẹ bà
cũng có tạo được tài sản là đất đai ở Vĩnh Long nhưng sau này đất bị lỡ nên không
còn. Ngun gốc thửa đất 3171 là do ông M1 mua trước khi sống chung sống với
bà T2. Trước đây bà Đ có nghe bà N của bà nói lại ông M1 đã lấy 08 chỉ vàng
24k của ông M1 và bà T1 để mua đất. Tổng diện tích đất ông M1 mua được thì
bà không biết, thời gian sử dụng ông M1 có cho Trần Thị B1 và Trần Văn M mỗi
người 3.100m
2
, nên ông M1 còn lại là thửa đất 3171 diện tích 5.017m
2
. Năm 2018,
ông M1 chết không để lại đi chúc. Đối với “Giấy ủy quyền thừa kế” và “Tờ duy
chúc cho con” cùng đề ngày 23.11.2009 do Trần Văn M cung cấp thì từ trước đến
nay bà không biết có việc ông M1 để lại di chúc. Quan sát bằng mắt thường thì
3
chữ k của ông M1 trong “tờ duy chúc cho con” và “Giấy ủy quyền thừa kế”
không phải chữ k của ông M1. Bà yêu cầu giám định chữ k của ông M1 trong
02 văn bản di chúc do M cung cấp. Sau khi có kết quả giám định thì bà không
thống nhất nhưng không có yêu cầu giám định lại, về dấu vân tay của bà T2 trong
tờ duy chúc cho con thì bà không có kiến. Bà Đ cho rằng di chúc không được
công chứng chứng thực và ông M là người nhận di chúc thì không được k tên
vào di chúc do đó bà Đ không thừa nhận di chúc và có yêu cầu tuyên bố vô hiệu
“Tờ duy chúc” lập ngày 23/11/2009 và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật thửa
đất 3171 tờ bản đ số 02 diện tích 5.017m
2
(đo đạc thực tế 4.346,1m
2
). Sau khi
trừ khu mộ có diện tích 89,2m
2
còn lại chia 06 phần cho Trần Thị Đ, Trần Văn A,
Trần Văn B, Trần Thị T, Trần Văn M và Trần Thị B1. Bà Đ yêu cầu được nhận
diện tích 594,7m
2
theo vị trí các mốc 11, 1, 2, 12, 15, 10, 16, 17, 18, 11 theo sơ
đ đo đạc, nếu diện tích đất bà Đ yêu cầu nhận nhiều hơn một suất thừa kế được
hưởng thì bà trả giá trị cho người nhận ít hơn, nếu diện tích bà nhận ít hơn suất
thừa kế thì bà yêu cầu được nhận giá trị cho đủ suất thừa kế của bà. Trên phần đất
bà yêu cầu được nhận có các cây trng, bà cho rằng đây là cây trng của ông M1
trng nên bà yêu cầu hưởng luôn phần cây trng. Tuy nhiên, hiện nay ông M đã
đốn hết các cây trng trên đất tranh chấp nên bà yêu cầu được nhận giá trị các cây
trng của ông M1 đã trng theo giá Hội đng định giá đã định.
Bị đơn ông Trần Văn M trình bày:
Trước đây ông Trần Văn M1 sinh sống ở Vĩnh Long có vợ là bà Nguyễn
Thị T1 và có các con chung là Trần Thị Đ, Trần Văn A, Trần Văn B, Trần Thị T.
Nhưng do cuộc sống vợ chng không hợp nên ông M1 về xã A sinh sống ở V
(hiện nay là Đình Thần P) cùng với mẹ của ông M là bà Lê Thị T2 và sinh ra bà
Trần Thị B1 và ông Trần Văn M. Khoảng năm Mậu Thân 1968, ông M1 và bà T2
chạy giặc về cn An N1 và mua phần đất để sinh sống trong đó có thửa 3171 tờ
bản đ số 2. Sau đó ông M1 và bà T2 có cho ông M và bà B1 mỗi người được
3.100m
2
, ông M và bà B1 đã được đứng tên quyền sử dụng. Sau khi tặng cho đất
cho con thì ông M1, bà T2 còn lại diện tích đất 5.017m
2
thuộc thửa 3171. Vợ
chng ông M ở cùng và canh tác thửa đất 3171 cùng với ông M1 và bà T2 đến khi
ông M1, bà T2 chết thì vợ chng ông trực tiếp quản l, canh tác cho đến nay. Khi
UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trần Văn M1
ngày 20/7/1993 bao gm các thửa đất 537, 538, 539, 451 (sau này là thửa 3171)
cùng tờ bản đ số 2 thì trong hộ ông M1 chỉ có M1, bà T2, bà B1 và ông M. Ngày
23/11/2009, ông M1 và bà T2 có lập Tờ di chúc cho con. Thời điểm năm 2009,
khi lập di chúc sức khỏe ông M1 và bà T2 vẫn còn minh mẫn vẫn tốt. Trước khi
lập di chúc cha ông có khám sức khỏe. Khi lập di chúc ông M1 có nhờ ông Trần
Văn L1 viết, nhờ ông Lê Văn T3 và ông Lê Hoàng S là các chủ đất giáp ranh
chứng kiến. Còn l do vì sao cha mẹ ông lập “Tờ duy chúc cho con” và “Giấy ủy
quyền thừa kế” cùng ngày 23/11/2009 thì ông không biết. Sau khi ông L1 lập di
chúc vài ngày thì ông M1 có kêu ông M k tên vào tờ giấy do ông M1 đưa, ông
M1 đưa ông k tên nhưng che lại phần nội dung phía trên, ông chỉ k tên phía
dưới còn k tên vào nội dung gì thì ông không biết. K tên xong ông M1 có nói
sau khi chết sẽ cho đất cho ông M nhưng vợ chng ông M phải chăm sóc cho cha
4
mẹ. Sau khi ông M1 chết, bà Đ khởi kiện chia thừa kế nên ông tìm lục các giấy tờ
của ông M1 để lại và tìm thấy “Tờ duy chúc cho con” và “Giấy ủy quyền thừa
kế”. Chữ k chỗ “người làm duy chúc cho con” trong “Tờ duy chúc cho con” và
“Giấy ủy quyền thừa kế” là chữ k của ông M1, chữ k chỗ người nhận đất duy
chúc trong “Tờ duy chúc cho con” và chữ k chỗ người nhận đất thừa kế trong
“Giấy ủy quyền thừa kế” là chữ k của ông.
Ông Trần Văn M không đng đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc
yêu cầu tuyên bố di chúc vô hiệu và không đng chia thừa kế theo pháp luật đối
với thửa đất 3171 theo yêu cầu của bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn A, ông Trần Văn
B, bà Trần Thị T, bà Trần Thị B1 do đất này là của cha mẹ ông tạo ra và cha mẹ
ông đã lập di chúc cho ông thửa đất 3171. Vì vậy ông yêu cầu công nhận di chúc
của cha mẹ là ông Trần Văn M1 và bà Lê Thị Tấn L2 ngày 23/11/2009. Yêu cầu
được thừa kế toàn bộ thửa đất 3171, tờ bản đ số 2, diện tích 5.017m
2
(đo đạc
thực tế 4.346,1m
2
), tọa lạc tại tổ G, ấp A, xã A, huyện C, tỉnh Đng Tháp theo nội
dung di chúc.
Các cây trng trên thửa đất 3171 là do vợ chng ông trng. Tuy nhiên, do
ông không đng chia thừa kế theo pháp luật theo yêu cầu của nguyên đơn nên
ông không đng trả giá trị cây trng cho nguyên đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn A trình bày:
Cha mẹ của ông là ông Trần Văn M1 (chết năm 2018) và bà Nguyễn Thị
T1 (chết năm 2016) chung sống với nhau có 06 con chung: Trần Văn A, Trần Văn
B, Trần Văn D (đã chết không vợ con), Trần Thị Đ, Trần Văn D1 (đã chết có 01
vợ và 01 con nhưng không biết họ tên gì và đang ở đâu), Trần Thị T. Khoảng năm
1958, khi bà T1 sinh bà Đương thì ông M1 chung sống với bà Lê Thị T2 (chết
năm 2013) sinh ra Trần Thị B1 và Trần Văn M. Khi ông A khoảng 12 tuổi thì ông
M1 đã lấy số tài sản chung của vợ chng là 08 chỉ vàng 24k, 02 chiếc ghe để sống
với bà T2. Đối với thửa đất 3171 ông không biết ngun gốc có từ đâu. Ông M1
chết không để lại di chúc, ông M1 chết để lại diện tích bao nhiêu thì ông không
biết. Đối với “Giấy ủy quyền thừa kế” và “Tờ duy chúc cho con” cùng đề ngày
23/11/2009 do ông M cung cấp thì ông không nghe ai nói về hai văn bản này. Do
ông không biết chữ nên ông không xác định được chữ k của ông M1. Đối với kết
quả giám định chữ k của ông M1 và ông M thì ông không thống nhất nhưng ông
không có yêu cầu giám định lại và không có kiến về dấu vân tay của bà T2 trong
Tờ duy chúc cho con.
Ông A thống nhất yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu tuyên bố di chúc lập
ngày 23/11/2009 là vô hiệu và yêu cầu chia thừa kế thửa đất 3171, tờ bản đ số
02 theo pháp luật, sau khi trừ khu mộ có diện tích 89,2m
2
còn lại chia 06 phần,
ông yêu cầu được nhận diện tích 595m
2
theo vị trí các mốc M1, M2, M3, M4, 1,
11, M1. Theo sơ đ đo đạc nếu diện tích ông nhận nhiều hơn một suất thừa kế thì
ông trả giá trị cho người nhận ít hơn, nếu diện tích ông nhận ít hơn suất thừa kế
thì ông yêu cầu được nhận giá trị cho đủ suất của ông. Trên phần đất ông yêu cầu
được nhận có các cây trng của ông M1 nên ông yêu cầu được nhận các cây trng.
5
Tuy nhiên, hiện nay ông M đã đốn hết các cây trng trên đất tranh chấp nên ông
yêu cầu được nhận giá trị các cây trng của ông M1 đã trng theo giá Hội đng
định giá đã định.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn B ủy quyền ông
Lê Quang C trình bày:
Thống nhất về hàng thừa kế như nguyên đơn trình bày. Trước đây ông có
nghe ông M1 và bà T1 nói có tạo lập được 08 chỉ vàng 24k, 02 chiếc ghe nhưng
ông M1 đã lấy hết để sống với bà T2. Đối với ngun gốc thửa đất 3171 là do ông
M1 mua khoảng hơn 10 công sau đó lấn ra thêm. Ông M1 chết không để lại đi
chúc, di sản của ông M1 là thửa đất 3171. Ông thấy chữ k trong 02 văn bản mà
ông M cung cấp là “Giấy ủy quyền thừa kế” và “Tờ duy chúc cho con” cùng để
ngày 23/11/2009 không phải là chữ k của ông M1. Đối với kết quả giám định
chữ k của ông M1 và ông M thì ông B không thống nhất nhưng ông B không có
yêu cầu giám định lại, ông B cũng không có kiến về dấu vân tay của bà T2 trong
Tờ duy chúc cho con.
Ông Trần Văn B thống nhất yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu vô hiệu “tờ
duy chúc” và yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật thửa đất 3171 tờ bản đ số 02,
sau khi trừ khu mộ có diện tích 89,2m
2
phần còn lại chia 06 phần, ông B yêu cầu
được nhận diện tích 868,1m
2
theo vị trí các mốc 9, 13, 3, M5, 4, 14, 8, 9 theo sơ
đ đo đạc nếu diện tích đất ông B yêu cầu nhận nhiều hơn một suất thừa kế thì sẽ
trả giá trị cho người nhận ít hơn, nếu diện tích nhận ít hơn suất thừa kế thì ông B
yêu cầu được nhận giá trị cho đủ suất. Trên phần đất ông B yêu cầu được nhận có
các cây trng của ông M1 nên ông B yêu cầu được nhận các cây trng. Tuy nhiên,
hiện nay ông M đã đốn các cây trng trên đất tranh chấp nên ông B yêu cầu được
nhận giá trị các cây trng của ông M1 đã trng theo giá Hội đng định giá đã định.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T trình bày:
Thống nhất về hàng thừa kế như nguyên đơn trình bày. Bà có nghe bà nội
của bà nói lại cha mẹ của bà có tạo lập được 08 chỉ vàng 24k nhưng cha bà đã lấy
hết để chung sống với bà T2. Ngun gốc thửa đất 3171 do ông M1 mua, được
khoảng 10 công đất, sau đó cho bà B1 3.300m
2
và cho ông M nhưng bà không
biết cho bao nhiêu. Ông M1 còn lại là thửa đất 3171, diện tích 5.017m
2
. Ông M1
chết không để lại di chúc, bà cũng không nghe ai nói về di chúc. Theo bà thấy thì
chữ k của ông M1 trong “Tờ duy chúc cho con” và “Giấy ủy quyền thừa kế”
không phải chữ k của ông M1. Đối với kết quả giám định chữ k của ông M1 và
ông M thì bà không thống nhất nhưng bà không yêu cầu giám định lại, bà cũng
không có kiến về dấu vân tay của bà T2 trong Tờ duy chúc cho con.
Bà T thống nhất yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu vô hiệu “Tờ duy chúc”
và yêu cầu chia thừa kế thửa đất 3171, tờ bản đ số 02 theo pháp luật. Bà T yêu
cầu được nhận diện tích sau khi trừ khu mộ 89,2m
2
còn lại chia 06 phần, bà T yêu
cầu được nhận diện tích 858m
2
theo vị trí các mốc 8, 14, 5, 6, 7, 8 nếu diện tích
đất bà yêu cầu nhận thừa kế nhiều hơn một suất thừa kế thì bà trả giá trị cho người
nhận ít hơn, nếu diện tích bà nhận ít hơn suất thừa kế thì bà yêu cầu được nhận
giá trị cho đủ suất của bà. Hiện nay ông M đã đốn hết các cây trng trên đất tranh
6
chấp nên ông yêu cầu được nhận giá trị các cây trng của ông M1 đã trng theo
giá Hội đng định giá đã định.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị B1 trình bày:
Trước đây ông Trần Văn M1 sinh sống với bà Nguyễn Thị T1 sinh được 04
người con là bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn A, ông Trần Văn B và bà Trần Thị T.
Sau đó ông M1 không sống với bà T1 mà chung sống với bà Lê Thị Tấn S1 ra bà
B1 và ông Trần Văn M. Ông M1 và bà T1 sống với nhau ở Vĩnh Long nên bà
không biết có tạo lập được tài sản gì hay không, sau đó ông M1 không sống với
bà T1 mà về Đng Tháp sống với bà T2. Từ nhỏ bà sống với cha mẹ thì bà biết
cha mẹ có mua được hơn 10 công đất ở cn A, bà lập gia đình nhưng do gia đình
chng khó khăn cha bà có cho vợ chng bà sinh sống trên diện tích đất của cha
mẹ. Năm 1999, ông M1 có cho bà 3.100m
2
và bà đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng. Thời gian sau thì cha mẹ cũng cho ông M 3.100m
2
. Ống Muối và
bà T2 chết không để lại di chúc nhưng có để lại di sản là thửa đất 3171. Khi ông
M1 còn sống bà có nghe ông M1 nói đã cho phần hai chị em ri còn phần của cha
mẹ thì hai đứa tự tính. Từ trước đến nay bà không nghe ai nói cha mẹ có giấy ủy
quyền thừa kế hay di chúc. Sau khi ông M1 chết được 18 ngày thì ông M có gặp
bà để yêu cầu bà k tên ủy quyền thửa đất 3171 nhưng bà không đng . Bà thấy
chữ k trong hai văn bản này không phải là chữ k của ông M1. Đối với kết quả
giám định chữ k của ông M1 và ông M thì bà không thống nhất nhưng bà không
có yêu cầu giám định lại, bà không có kiến về dấu vân tay của bà T2 trong tờ
duy chúc cho con.
Ông M1 và bà T2 chết có để lại thửa đất 3171 có diện tích 5.017m7 có vị
trí ngay căn nhà và vườn vợ chng ông M đang quản l sử dụng, trước đây vợ
chng ông M ở cùng cha mẹ thì làm cùng cha mẹ từ khi cha mẹ chết thì vợ chng
M vẫn tiếp tục sử dụng. Bà thống nhất với nguyên đơn yêu cầu vô hiệu di chúc và
yêu cầu được chia thừa kế theo pháp luật thửa đất 3171, bà yêu cầu chia tại vị trí
các mốc 5, 6, 7, M7, M6 có diện tích 547,7m
2
. Trên diện tích đất bà yêu cầu có
các cây trng của ông M thì bà đng trả giá trị cho ông M, nhưng hiện nay ông
M đã đốn các cây trng, diện tích đất còn lại thì bà không có kiến.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị P1 và anh Trần
Minh H trình bày:
Thống nhất theo kiến và yêu cầu của ông Trần Văn M.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 33/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành (viết tắt bản án sơ thẩm) đã xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Đ và
những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn B, ông Trần Văn
A, bà Trần Thị B1, bà Trần Thị T.
1.1. Không chấp nhận yêu cầu tuyên bố “Tờ duy chúc cho con” do ông Trần
Văn M1 và bà Lê Thị Tấn L2 ngày 23/11/2009 là vô hiệu.
7
1.2. Không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật thửa đất 3171,
tờ bản đ số 2 do hộ ông Trần Văn M1 đứng tên quyền sử dụng.
2. Chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Trần Văn M.
2.1. Công nhận di chúc của ông Trần Văn M1 và bà Lê Thị Tấn L2 ngày
23/11/2009 là hợp pháp.
2.2. Ông Trần Văn M được quyền quản l sử dụng thửa đất 3171, tờ bản
đ số 2 diện tích đo đạc thực tế là 4.346,1m
2
theo di chúc của ông Trần Văn M1
và bà Lê Thị Tấn L2 ngày 23/11/2009 tại vị trí các mốc M1, M2, M3, M4, 1, 2,
3, M5, 4, 5, M6, M7, 7, 8, 9, 15, 10, 18, 11, M1 theo sơ đ đo đạc ngày 03/02/2023
của Chi nhánh văn phòng đăng k đất đai huyện C.
Ông Trần Văn M có nghĩa vụ đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng
k để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn A, Trần Văn B được miễn án
phí dân sự sơ thẩm theo qui định pháp luật.
Bà Trần Thị T và bà Trần Thị B1 phải nộp 300.000 đng án phí dân sự sơ
thẩm.
Số tiền tạm ứng án phí bà B1 đã nộp 300.000 đng ngày 31/5/2024 theo biên
lai số 0002476 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành được chuyển
thành án phí bà B1 phải nộp.
Ông Trần Văn M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị phần
tài sản được hưởng theo quy định của pháp luật là 37.958.000 đng.
3. Về chi phí tố tụng khác:
Chi phí thẩm định, đo đạc, định giá tổng cộng là 11.872.000 đng. Ông Trần
Văn M phải chịu 11.872.000 đng. Bà Trần Thị T đã tạm nộp 600.000 đng, bà
Trần Thị Đ đã tạm nộp 11.272.000 đng và đã chi xong. Do đó, ông M có nghĩa
vụ trả lại cho bà T 600.000 đng và trả cho bà Đ 11.272.000 đng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên thời hạn, quyền kháng cáo và quyền,
nghĩa vụ, thời hiệu thi hành án của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Trần Thị Đ là nguyên đơn, ông Trần Văn A, ông
Trần Văn B, bà Trần Thị B1, bà Trần Thị T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan không thống nhất bản án sơ thẩm, nên đã kháng cáo yêu cầu Tòa án phúc
thẩm giải quyết sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn và bác toàn bộ yêu cầu cầu của bị đơn ông Trần Văn M.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bà Trần Thị Đ ủy quyền cho anh Nguyễn Thanh L, ông Trần Văn A, bà
Trần Thị B1, bà Trần Thị T và ông Lê Quang C là người đại diện theo ủy quyền
của ông Trần Văn B trình bày: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đng
xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bà Trần Thị Đ và bác toàn bộ yêu cầu cầu của bị đơn ông Trần Văn
M, với các căn cứ: Bà T1 có công sức đóng góp trong việc chuyển nhượng đất
8
trong giai đoạn ông M1 sống chung với bà T2 và phát sinh tranh chấp tài sản đến
hôm nay; Di chúc do ông M1 và T2 để lại, bà T2 không biết chữ nhưng không
được công chứng là vi phạm pháp luật. Hủy di chúc yêu cầu được chia thừa kế theo
pháp luật.
- Ông Trần Văn M trình bày: Không đng kháng cáo của bà Đ, ông A, ông
B, bà B1, bà T, đề nghị Hội đng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bà Trần Thị P và anh Trần Minh H trình bày: Thống nhất theo kiến của
ông M, đề nghị Hội đng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đng Tháp phát biểu kiến:
Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thủ tục kháng cáo của bà Trần Thị Đ, bà Trần Thị T, ông Trần
Văn B, bà Trần Thị B1, ông Trần Văn A thực hiện đúng quy định và hợp lệ theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán,
Hội đng xét xử và Thư k phiên tòa kể từ khi thụ l vụ án đến thời điểm xét xử
phúc thẩm đã chấp hành và thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự; Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ
tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đng xét xử áp dụng khoản 1
Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị
Đ, bà Trần Thị T, ông Trần Văn B, bà Trần Thị B1, ông Trần Văn A, giữ nguyên
bản án dân sự sơ thẩm số 33/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Châu Thành.
(Kèm theo Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm ngày
26/02/2025).
NHN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu và chứng cứ có trong h sơ, được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện
Viện kiểm sát, Hội đng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ l và giải quyết sơ
thẩm vụ án “Tranh chấp tuyên bố di chúc vô hiệu, chia thừa kế” là đúng quy định
tại khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật
Tố tụng dân sự về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án. Việc nguyên đơn
bà Trần Thị Đ nộp đơn kháng cáo ngày 09/7/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Trần Văn A, ông Trần Văn B, bà Trần Thị B1 nộp đơn kháng cáo
ngày 09/7/2024 và bà Trần Thị T nộp đơn kháng cáo ngày 05/7/2024 là trong thời
hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên được xem
xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều
thừa nhận: Trước đây ông Trần Văn M1 (chết năm 2018) chung sống cùng với bà
9
Nguyễn Thị T1 (chết năm 2016) ở Vĩnh Long và có 06 con chung gm: Ông Trần
Văn A, ông Trần Văn B, ông Trần Văn D (đã chết không vợ con), bà Trần Thị Đ,
ông Trần Văn D1 (đã chết có 01 vợ và 01 con nhưng không biết họ tên gì, không
xác định được đang ở đâu) và bà Trần Thị T. Sau này, ông M1 và bà T1 không
còn chung sống với nhau nữa nên ông M1 về xã A, huyện C, tỉnh Đng Tháp sinh
sống cùng với bà Lê Thị T2 (chết năm 2013) và có 02 con chung gm: Bà Trần
Thị B1 và ông Trần Văn M. Các đương sự thừa nhận ngun gốc đất là của ông
Trần Văn M nhận chuyển nhượng của người khác.
Ngày 20/7/1993, Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Trần Văn M1 gm các thửa: Thửa số 537, diện tích 5.250m
2
,
mục đích sử dụng đất: Q; Thửa số 538, diện tích 940m
2
, mục đích sử dụng đất: T;
Thửa đất số 539, diện tích 760m
2
, mục đích sử dụng đất: Đất bi và thửa đất số
451, diện tích 3.020m
2
, mục đích sử dụng đất: Q, cùng tờ bản đ số 02, đất tọa lạc
tại xã A, huyện C, tỉnh Đng Tháp.
Ngày 12/10/1999, ông Trần Văn M1 và bà Lê Thị Tấn L2 hợp đng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất diện tích 3.052m
2
(trong đó diện tích 1.714m
2
, thuộc
một phần thửa 451 và diện tích 1.338m
2
, thuộc một phần thửa 537) cho bà Trần
Thị B1, theo thể thức thanh toán cha cho con và bà B1 được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày 17/12/1999.
Ngày 17/10/2007, ông Trần Văn M1 và bà Lê Thị Tấn L2 hợp đng tặng
cho quyền sử dụng diện tích 3.100m
2
(trong đó diện tích 1.306m
2
, thuộc một phần
thửa 451 và diện tích 1.794m
2
, thuộc một phần thửa 537) cho ông Trần Văn M và
ông M được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/11/2007.
Ngày 01/10/2008, Ủy ban nhân dân huyện C thu hi và hủy bỏ giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 20/7/1993 và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mới cho hộ ông Trần Văn M1 tại thửa đất số 3171, tờ bản đ số 2, diện
tích 5.017m
2
, trong đó: Đất ở tại nông thôn 940m
2
và đất trng cây lâu năm
4.077m
2
(sau đây gọi là đất tranh chấp hay thửa đất số 3171).
Ngày 23/11/2009, ông Trần Văn M1 và bà Lê Thị Tấn lập T4 duy chúc cho
con, để lại thửa đất số 3171, tờ bản đ số 2, diện tích 5.017m
2
cho ông Trần Văn
M.
Bà Trần Thị Đ, bà Trần Thị T cho rằng có nghe bà nội của bà nói lại ông
M1 và bà T1 có tạo lập được 08 chỉ vàng 24kara nhưng ông M1 lấy hết để chung
sống với bà T2. Ông Trần Văn A và ông Trần Văn B (do ông Lê Quang C đại
diện) cho rằng ông M1 lấy số tài sản chung của vợ chng ông M1 và bà T1 là 08
chỉ vàng 24kara, 02 chiếc ghe để sống với bà T2. Còn ngun gốc đất đang tranh
chấp thì không biết.
Bà Trần Thị B1 cho rằng ông M1 có cho bà 3.100m
2
, cho ông M 3.100m
2
.
Ống Muối và T2 chết không để lại di chúc nhưng có để lại di sản là thửa đất 3171.
Từ trước đến nay bà không nghe ai nói cha mẹ có giấy ủy quyền thừa kế hay di
chúc.
10
Do đó, bà Đ, bà T, ông A, ông B và bà B1 khởi kiện yêu cầu tuyên bố di
chúc lập ngày 23/11/2009 là vô hiệu và yêu cầu chia thừa kế thửa đất 3171, tờ bản
đ số 02 theo pháp luật.
Ông Trần Văn M không đng yêu cầu khởi kiện của bà Đ, bà T, ông A,
ông B và bà B1 yêu cầu tuyên bố di chúc lập ngày 23/11/2009 là vô hiệu và yêu
cầu chia thừa kế thửa đất 3171, tờ bản đ số 02 theo pháp luật, do đất này là của
cha mẹ ông tạo ra và cha mẹ ông đã lập di chúc cho ông thửa đất 3171. Vì vậy
ông yêu cầu công nhận di chúc của cha mẹ là ông Trần Văn M1 và bà Lê Thị Tấn
L2 ngày 23/11/2009. Yêu cầu được thừa kế toàn bộ thửa đất 3171, tờ bản đ số 2,
diện tích 5.017m
2
(đo đạc thực tế 4.346,1m
2
).
Từ đó, đã làm phát sinh tranh chấp giữa các đương sự.
[3] Hội đng xét xử xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chấp nhận
yêu cầu phản tố của bị đơn là có cơ sở. Bởi các lẽ như sau:
- Các đương sự thừa nhận ông Trần Văn M1 chung sống với bà Nguyễn
Thị T1 có 06 con chung là ông Trần Văn A, bà Trần Văn B, ông Trần Văn D (đã
chết không vợ con), bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn D1 (đã chết có 01 vợ và 01 con
nhưng không biết họ tên gì, không xác định được đang ở đâu) và bà Trần Thị T.
Ông Trần Văn M1 chung sống với bà Lê Thị T2 có 02 con chung là bà Trần Thị
B1 và ông Trần Văn M. Ngoài ra, không có con nuôi, con riêng nào khác nên xác
định hiện nay hàng thừa kế thứ nhất của ông M1 còn lại là ông A, ông B, bà Đ,
bà T, ông M, bà B1.
Năm 2018, ông M1 chết để lại thửa đất 3171, tờ bản đ số 2, diện tích
5.017m
2
(đo đạc thực tế 4.346,1m
2
), hiện do hộ ông Trần Văn M1 đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 01/10/2008
nên xác định đây là di sản thừa kế do ông M1 chết để lại.
- Bà Trần Thị Đ, bà Trần Thị T cho rằng có nghe bà nội của bà nói lại ông
M1 và bà T1 có tạo lập được 08 chỉ vàng 24kara nhưng ông M1 lấy hết để chung
sống với bà T2. Ông Trần Văn A và ông Trần Văn B (do ông Lê Quang C đại
diện) cho rằng ông M1 lấy số tài sản chung của vợ chng ông M1 và bà T1 là 08
chỉ vàng 24kara, 02 chiếc ghe để sống với bà T2. Còn ngun gốc đất đang tranh
chấp thì không biết. Bà Đ, bà T, ông A, ông B không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ chứng minh tài sản chung của ông M1, bà T1 hay ông M1 lấy tài sản chung
của ông M1, bà T1 để chung sống với bà T2, mà chỉ nghe bà nội của các ông bà
kể lại, không biết ngun gốc đất đang tranh chấp, không chứng minh được tài sản
của ông M1, bà T1 có sử dụng vào mục đích nhận chuyển nhượng đất đang tranh
chấp nên lời trình bày của bà Đ, bà T, ông A, ông B là không có căn cứ.
- Đất đang tranh chấp được cấp cho hộ ông M1 nhưng ngun gốc là của
ông M1, bà T2 nhận chuyển nhượng, tại thời điểm nhận chuyển nhượng và sử
dụng thì trong hộ ông M1 chỉ có ông M1, bà T2, ông M, bà B1. Tại Công văn số
137/CAH ngày 12/6/2020 của Công an huyện L, tỉnh Vĩnh Long xác nhận hộ ông
Trần Văn M1 thời điểm từ ngày 01/10/2008 đến ngày 23/11/2009 như sau: Trần
11
Văn N2 (không rõ năm sinh), quan hệ: Cha (đã chết); Đặng Thị S2 (không rõ năm
sinh), quan hệ: Mẹ (đã chết); Lê Thị T2, sinh năm 1928, quan hệ: Vợ; Trần Thị
B1, sinh năm 1965, quan hệ: Con; Trần Văn M, sinh năm 1967, quan hệ: Con.
Do đó, sau khi ông M1, bà T2 chia đất cho ông M, bà B1 xong thì ông M1,
bà T2 còn lại thửa đất số 3171, diện tích 5.017m
2
. Đây là tài sản của ông M1, bà
T2 theo quy định pháp luật thì ông bà được toàn quyền quyết định và định đoạt.
- Xét, Tờ duy chúc cho con ngày 23/11/2009 là di chúc bằng văn bản có
người làm chứng, không có công chứng, chứng thực. Trong di chúc có thể hiện
người để lại di chúc là ông Trần Văn M1, bà Lê Thị T2, người nhận di chúc là
ông Trần Văn M, người viết hộ là ông Trần Văn L1, 02 người làm chứng là ông
Lê Hoàng S, ông Lê Văn T3 là người có đất giáp ranh với ông M1, tất cả những
người có tên trong di chúc đều có k tên và điểm chỉ vào di chúc. Di sản phân
chia trong di chúc là thửa đất 3171, tờ bản đ số 2, diện tích 5.017m
2
do hộ ông
Trần Văn M1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, về nội dung
thể hiện trong tờ di chúc đảm bảo theo quy định.
Trước khi lập di chúc ông M1 và bà T2 có khám sức khỏe tại Trung tâm
giám định y khoa Sở Y và được kết luận: Tâm thần kinh tỉnh táo, đủ điều kiện sức
khỏe lập di chúc theo các giấy khám sức khỏe số 223/GĐYK và số 224/GĐYK
ngày 17/9/2022. Việc lập di chúc hoàn toàn tự nguyện, không bị đe dọa, ép buộc.
Tại Kết luận giám định số 7107/KL-KTHS ngày 08/3/2024 của Phân viện
Khoa học hình sự tại Thành phố H Chí Minh – Bộ C1 kết luận: Chữ k đứng tên
Trần Văn M1 dưới mục “Người làm duy chúc cho con” trong “Tờ duy chúc cho
con ngày 23/11/2009” trên các tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người k ra.
Chữ k đứng tên Trần Văn M dưới mục “Người nhận đất duy chúc” trong “Tờ
duy chúc cho con ngày 23/11/2009” trên các tài liệu mẫu so sánh là do cùng một
người k ra. Như vậy, di chúc phù hợp với Điều 652, Điều 656 Bộ luật Dân sự
năm 2005.
[4] Tại phiên tòa bà Trần Thị Đ ủy quyền cho anh Nguyễn Thanh L, bà Trần
Thị T, ông Trần Văn B ủy quyền cho ông Lê Quang C, bà Trần Thị B1, ông Trần
Văn A vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Hội đng xét xử xét thấy, trình bày của
anh L, bà T, ông C, bà B1, ông A là không có đủ căn cứ như đã phân tích trên,
nên không được Hội đng xét xử chấp nhận.
[5] Đối với quan điểm và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa như nêu
trên. Hội đng xét xử xét thấy là có cơ sở và phù hợp pháp luật nên được chấp
nhận.
[6] Về án phí: Do kháng cáo của bà Đ, bà T, ông B, bà B1, ông A không
được chấp nhận, nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên, bà Đ, ông B,
ông A do thuộc diện người cao tuổi nên được xét miễn án phí dân sự phúc thẩm
theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản l và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
12
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu
lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 631, 635, 646, 649, 652, 653, 654, 656, 667, 684 Bộ luật
Dân sự năm 2005;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản l và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Trần Thị Đ và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn A, ông Trần Văn B, bà Trần Thị B1,
bà Trần Thị T.
2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 33/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đng Tháp.
3. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Trần Thị Đ, ông Trần Văn A, ông Trần Văn B được miễn án phí phúc
thẩm.
Bà Trần Thị B1 phải chịu 300.000 đng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đng, theo biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0013431 ngày 23/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Châu Thành, tỉnh Đng Tháp.
Bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đng án phí dân sự phúc thẩm, được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đng, theo biên lai thu tạm ứng
án phí, lệ phí Tòa án số 0013428 ngày 19/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Châu Thành, tỉnh Đng Tháp.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định
tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND Tỉnh;
- TAND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Đương sự;
- Phòng TTKT & THA TAND Tỉnh;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
13
- Lưu: VT, HSVA, TDS.
Hứa Quang Thông
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm