Bản án số 96/2025/DS-PT ngày 07/02/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 96/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 96/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 96/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 96/2025/DS-PT ngày 07/02/2025 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 96/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Phạm Thị N “Tranh chấp thừa kế” Ngô Thanh T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
——————
Bản án số: 96/2025/DS-PT
Ngày 07-02-2025
V/v tranh chấp thừa kế
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
———————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Kim Nga
Các Thẩm phán: Ông Trần Tấn Quốc
Bà Đinh Thị Ngọc Yến
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Hồng Thuý – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà
Đặng Thị Cẩm Chi – Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 652/2024/TLPT-DS ngày 03 tháng 12
năm 2024 về việc “Tranh chấp thừa kế”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 113/2024/DS-ST ngày 27 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện T bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 621/2024/QĐ-PT ngày
25 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Phạm Thị N, sinh năm 1941.
Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện T, tỉnh Long An.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: bà Trần Thị Hồng X, sinh năm
1960; địa chỉ: số A K, ấp V, xã B, huyện T, tỉnh Long An.
(Theo văn bản uỷ quyền ngày 29/4/2022).
- Bị đơn: bà Ngô Thanh T, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện T, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn T1, sinh năm
1996.
Địa chỉ: Ấp A, xã L, huyện C, tỉnh Đồng Nai.
- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Phạm Thị N.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 22 tháng 12 năm 2022 và các lời khai trong quá
trình tham gia tố tụng tại Toà án cấp sơ thẩm, nguyên đơn bà Phạm Thị N cũng
như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn bà Trần Thị Hồng X trình bày:
Bà Phạm Thị N là chủ sử dụng các thửa đất số 84, 85, 103 cùng tờ bản đồ
số 3. Các thửa đất này bà N được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào năm 1996. Vào tháng 4/2012, bà N lập thủ tục tặng
cho 03 thửa đất này cho con ruột là ông Bùi Thanh N1 để ông N1 có điều kiện
đứng ra vay tiền Ngân hàng, thời điểm này ông N1 chưa kết hôn cũng như
không chung sống như vợ chồng với bất kỳ người nào. Tháng 8/2012 ông N1
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 84 diện tích 633m
2
loại đất
thổ, thửa 85 diện tích 1.267m
2
loại đất trồng cây lâu năm, thửa 103 diện tích
7.677m
2
loại đất lúa, đất toạ lạc tại Ấp B, xã L, huyện T. Đến năm 2018, ông N1
kết hôn với bà T, cả hai không có con chung, ông N1 và bà T có sửa chữa lại
nhà nhưng trên nền nhà cũ, có sẵn cột kèo. Ngày 27/12/2020, ông Bùi Thanh N1
chết, không để lại di chúc. Toàn bộ tài sản của ông N1 gồm quyền sử dụng đất
cùng các tài sản khác do bà T quản lý sử dụng.
Bà N xác định các thừa kế của ông N1 thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm bà
là mẹ ruột của ông N1, bà Ngô Thanh T là vợ của ông N1 và người con riêng
của ông N1 là Nguyễn Văn T1. Bà N khởi kiện yêu cầu chia di sản của ông N1,
yêu cầu được hưởng 1 kỷ phần thừa kế theo quy định pháp luật là 1/3 di sản của
ông N1 bao gồm quyền sử dụng 03 thửa đất và ½ giá trị nhà trên 03 thửa đất số
84, 85, 103. Bà N yêu cầu nhận hiện vật là một phần thửa đất số 103 và một
phần thửa số 85 để canh tác và thuận tiện vận chuyển, đồng ý với Mảnh trích đo
địa chính đối với các thửa đất và chứng thư thẩm định giá, không tranh chấp cây
trồng trên đất vì do bà T trồng.
Đối với ông Nguyễn Văn T1 thì khi còn sống, ông N1 có chung sống với
người phụ nữ tên thường gọi là T2, nhưng tên trong các giấy tờ về nhân thân là
Nguyễn Thị Thu T3, sinh ra ông T1. Việc chung sống giữa ông N1 và bà T3 chỉ
trong thời gian ngắn, không có tổ chức cưới và không có đăng ký kết hôn. Khi
mới sinh, bà T3 và ông N1 đặt tên con là Bùi Công C, sinh ngày 21/8/1995, sau
đó bà T3 cùng con về Đồng Nai sinh sống, đổi tên thành Nguyễn Văn T1 sinh
năm 1996, tuy ông T1 có hai tên khác nhau, nhưng cùng là một người, là con
ruột của ông N1.
Trong đơn phản tố ngày 03 tháng 01 năm 2023 và các lời khai trong quá
trình tố tụng, bị đơn bà Ngô Thanh T trình bày:
Khoảng cuối năm 2016, bà về chung sống như vợ chồng với ông N1, lúc đó
nhà cũ đã xuống cấp, bà mới đề nghị với ông N1 là bà bỏ tiền ra sửa chữa nhà,
thực tế nhà được xây dựng lại toàn bộ, chỉ giữ lại 4 cây cột và vài cây đòn tay.
Tiền bỏ ra sửa chữa lại nhà là tiền của riêng bà. Năm 2018, bà sửa chữa nhà,
hiện trạng như hiện nay, cây trồng trên 3 thửa đất do bà trồng, mồ mã của ông
N1 là do bà xây dựng và bà là người thờ cúng ông N1. Bà cũng thống nhất với
3
bà N về việc xác định tài sản mà ông N1 để lại gồm 03 thửa đất 84, 85, 103 cùng
tờ bản đồ số 3, vì khi về chung sống với ông N1 thì ông N1 đã có đất.
Bà T thống nhất với trình bày của bà N về xác định người thừa kế của ông
N1 gồm bà N, bà và ông T1 là con riêng của ông N1. Bà yêu cầu chia giá trị 03
thửa đất này làm 3 kỷ phần, bà nhận 1 kỷ phần, bà xin nhận thửa đất thổ số 84
trên đó có căn nhà để bà sinh sống và thờ cúng ông N1, và 01 phần thửa 103 để
canh tác, toàn bộ cây mai do bà trồng trên thửa 84 và 85, bà sẽ tự di dời hoặc khi
thi hành án không di dời được thì bà cho luôn ai lấy phần thửa 85, bà không
tranh chấp cây trồng trên đất. Đối với toàn bộ nhà mái che hàng rào trên thửa 84
là tài sản của bà do bà tự bỏ tiền ra xây dựng không phải tài sản ông N1 để lại
nên bà không đồng ý chia thừa kế phần giá trị nhà công trình trên đất. Bà đồng ý
với Mảnh trích đo địa chính và chứng thư thẩm định giá.
Trong đơn yêu cầu ngày 03 tháng 01 năm 2023 và các lời khai trong quá
trình tố tụng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 trình
bày:
Ông là con ruột của ông Bùi Thanh N1 và bà Nguyễn Thị Thu T3, ông sinh
năm 1995, trước đây giấy khai sinh tại xã L là Bùi Công C, ông N1 và mẹ ông là
bà T3 chung sống cùng nhau sinh ra ông nhưng không có đăng ký kết hôn. Năm
1996, khi về Đồng Nai thì bà T3 khai sinh lại cho ông là Nguyễn Văn T1 sinh
năm 1996, căn cước công dân cũng là Nguyễn Văn T1. Năm 2003, bà T3 kết
hôn với người khác, có đăng ký kết hôn. Ông thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông N1, ông thống nhất với bà N và bà T xác định 03 thửa đất 84, 85, 103 là di
sản thừa kế ông N1 để lại, còn nhà chính, nhà phụ mái che tiền chế là do bà T
xây dựng sau này nên ông không yêu cầu chia giá trị nhà, ông yêu cầu chia cho
ông 1 kỷ phần là 1/3 giá trị 03 thửa đất, yêu cầu lấy hiện vật là 1 phần thửa 85
và 1 phần thửa 103 để có đất canh tác và có lối đi ra. Ông tham gia vụ kiện chia
thừa kế của ông N1 thì mẹ ruột ông cũng có biết, chỉ nói là của cha với bà nội
cho thì cứ nhận, không có ý kiến gì khác. Ông đồng ý với Mảnh trích đo địa
chính và chứng thư thẩm định giá. Ông không tranh chấp cây trồng trên đất, cây
của bà T trồng, trường hợp giao đất cho ông thì ông tạo điều kiện để bà T di dời
cây trồng hoặc thu hoạch.
Vụ án được Toà án cấp sơ thẩm tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận
công khai chứng cứ và hoà giải nhưng các đương sự không thoả thuận được với
nhau.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 113/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện T đã căn cứ vào Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39, Điều 95, Điều 205; các Điều 147, 217, 227, 266, 267, 271, 273 Bộ
luật Tố tụng dân sự; Điều 130, 133 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 609, 611,
612, 613, 623, 649, 650, 651 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết về án phí, lệ
phí Toà án của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30
tháng 12 năm 2016.
Tuyên xử:
4
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị N.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Ngô Thanh T.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn T1.
Xác định di sản thừa kế của ông Bùi Thanh N1 là:
- Quyền sử dụng đất thửa số 84 tờ bản đồ số 03 loại đất ONT diện tích
601m
2
trị giá 512.063.000 đồng.
- Quyền sử dụng đất thửa số 85 tờ bản đồ số 03 loại đất CLN diện tích
1.100m
2
, trị giá 210.175.200 đồng.
- Quyền sử dụng đất thửa số 103 tờ bản đồ số 03 loại đất LUC diện tích
7.128m
2
trị giá 1.304.424.000 đồng.
- ½ Giá trị nhà trên thửa đất 84 (gồm nhà chính, nhà phụ, mái che tiền chế,
hàng rào) là 273.823.525 đồng
Cùng tọa lạc Ấp B, xã L, huyện T, tỉnh Long An (hiện do ông Bùi Thanh
N1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất số BH 425658, BH 425659, BH 425660 được cấp cùng ngày
03/8/2012) theo Mảnh trích đo địa chính số 1654-2023 được Chi nhánh Văn
phòng đất đai tại huyện T duyệt ngày 07/8/2023.
Tổng giá trị di sản là 2.300.485.725 đồng, gồm 2.026.662.200 đồng giá trị
đất + 273.823.525 đồng giá trị ½ nhà. Di sản được chia cho 3 kỷ phần, kỷ phần
giá trị đất là 675.554.067 đồng, kỷ phần giá trị nhà là 91.274.508 đồng (theo
Chứng thư thẩm định giá số 1371.2023.VT.HS ngày 21/11/2023 của Công ty
T4).
Chia cho bà Phạm Thị N kỷ phần trị giá 766.828.575 đồng (675.554.067
đồng giá trị đất + 91.274.508 đồng giá trị nhà).
Chia cho bà Ngô Thanh T kỷ phần quyền sử dụng đất trị giá 675.554.067
đồng.
Chia cho ông Nguyễn Văn T1 kỷ phần quyền sử dụng đất trị giá
675.554.067 đồng
Tạm giao 02 kỷ phần giá trị nhà là 182.549.016 đồng cho bà Ngô Thanh T
tiếp tục quản lý.
Hiện vật di sản được chia như sau:
- Giao cho bà Phạm Thị N được quyền sử dụng 01 phần thửa đất số 103
diện tích 3.145,4m
2
ký hiệu Khu F, trị giá 575.608.200 đồng.
Buộc bà Ngô Thanh T giao cho bà Phạm Thị N quyền sử dụng đất 01 phần
thửa đất số 103 diện tích 3.145,4m
2
ký hiệu Khu F.
- Giao cho bà Ngô Thanh T tiếp tục được quyền sử dụng thửa đất số 84
diện tích 601m
2
(trên thửa đất số 84 có kỷ phần nhà bà N được chia) và quyền
5
sử dụng 01 phần thửa đất số 103 diện tích 1.910,6m
2
ký hiệu Khu E, tổng trị giá
952.977.308 đồng.
- Giao cho ông Nguyễn Văn T1 được quyền sử dụng thửa đất số 85 diện
tích 1.100m
2
(trên đất có Mả) và quyền sử dụng 01 phần thửa đất số 103 diện
tích 2.072m
2
ký hiệu Khu G, tổng trị giá 589.351.200 đồng.
Buộc bà Ngô Thanh T giao cho ông Nguyễn Văn T1 được quyền sử dụng
thửa đất số 85 diện tích 1.100m
2
và quyền sử dụng 01 phần thửa đất số 103 diện
tích 2.072m
2
ký hiệu Khu G.
Toàn bộ quyền sử dụng đất cùng tọa lạc ấp B, xã L, huyện T, tỉnh Long An.
Vị trí kích thước diện tích các thửa đất và phân khu được thể hiện theo Mảnh
trích đo địa chính số 1654-2023 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại
huyện T duyệt ngày 07/8/2023 và Mảnh trích đo phân khu ngày 12/9/2024 của
Công ty TNHH Đ1 dựa trên Mảnh trích đo địa chính số 1654-2023.
Bà Ngô Thanh T có nghĩa vụ thu hoạch, di dời các cây trồng trên các thửa
đất, khu đất giao quyền sử dụng cho bà Phạm Thị N và ông Nguyễn Văn T1.
Các đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về quản lý đất đai thực hiện thủ tục kê khai, đăng ký để được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Buộc bà Ngô Thanh T có nghĩa vụ trả phần giá trị chênh lệch kỷ phần được
chia cho bà Phạm Thị N là 191.220.375 đồng.
Buộc bà Ngô Thanh T có nghĩa vụ trả phần giá trị chênh lệch kỷ phần được
chia cho ông Nguyễn Văn T1 là 86.202.866 đồng.
Về chi phí tố tụng xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá:
51.500.000 đồng, bà N, bà T và ông T1 mỗi người chịu 17.166.666 đồng. Chi
phí xác minh thu thập chứng cứ: 1.000.000 đồng. Bà N và bà T mỗi người chịu
500.000 đồng. Bà N đã nộp tạm ứng 51.500.000 đồng, bà T đã nộp tạm ứng
1.000.000 đồng. Bà T có nghĩa vụ trả lại cho bà N 16.666.666 đồng, ông T1 có
nghĩa vụ trả lại cho bà N 17.166.666 đồng chi phí tố tụng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
Về án phí: Bà N không phải chịu án phí.
Bà Ngô Thanh T phải chịu 28.266.622 đồng. Khấu trừ 15.633.500 đồng
tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu số 0008115 ngày 10/01/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Long An. Bà T phải nộp thêm
12.633.122 đồng.
Ông Nguyễn Văn T1 phải chịu 28.266.622 đồng. Khấu trừ 18.963.250
đồng tiền tạm ứng án phí ông T1 đã nộp theo biên lai thu số 0008116 ngày
6
10/01/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Long An. Ông T1 phải
nộp thêm 9.303.372 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, quyền và
nghĩa vụ thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/10/2024, nguyên đơn bà Phạm Thị N làm
đơn kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, đề nghị Toà án
cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chia lại quyền sử dụng đất cho phù hợp, bảo
đảm quyền có lối đi ra đường công cộng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn bà Phạm Thị N do bà Trần Thị Hồng
X đại diện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và không rút đơn kháng cáo, bị đơn bà
Ngô Thanh T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn T1 giữ
nguyên yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập, các đương sự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án. Theo đó quyền sử dụng đất chia
cho bà T giữ nguyên như quyết định của bản án sơ thẩm, chỉ chia lại quyền sử
dụng đất cho bà N và ông T1 đối với hai thửa đất 85 và 103 cùng tờ bản đồ số 3,
mỗi người được nhận ½ thửa đất 85 và ½ thửa đất số 103 nhưng chia theo chiều
Đông-Tây, quyền sử dụng đất mỗi người được nhận đều giáp đường công cộng
là đường B. Bà T không phải hoàn trả số tiền chênh lệch về giá trị quyền sử
dụng đất cho bà N và ông T1.
Đối với căn nhà xây dựng trên đất gồm nhà chính, nhà phụ, mái che tiền
chế và hàng rào có giá trị là 547.647.051đồng thì các bên thoả thuận, giao bà T
được sở hữu toàn bộ, ông T1 không yêu cầu chia thừa kế giá trị nhà, bà T hoàn
trả giá trị 1/3 di sản thừa kế là ½ giá trị căn nhà là 91.274.508 đồng cho bà N.
Về chi phí tố tụng mỗi bên chịu 1/3.
Về cây trồng trên đất, các bên không có tranh chấp, cây trồng trên phần đất
của người nào thì người đó được quyền sở hữu.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến của
Viện kiểm sát về việc chấp hành pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
cho rằng: Toà án cấp phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự, kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị N trong thời
hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Xét thấy tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự thoả thuận với nhau về
việc giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ
Điều 300 Bộ luật Tố tụng dân sự, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị N làm đúng theo quy định tại
Điều 272 và được gửi đến Tòa án trong thời hạn quy định tại Điều 273 Bộ luật
Tố tụng dân sự nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Các đương sự gồm bà Phạm Thị N, bà Ngô Thanh T và ông Nguyễn
Văn T1 tranh chấp với nhau di sản thừa kế của ông Bùi Thanh N1. Toà án cấp
7
sơ thẩm xác định các thừa kế của ông N1 thuộc hàng thừa kế thứ nhất là mẹ của
ông N1 là bà N, vợ ông N1 là bà T và con của ông N1 là ông T1; xác định di sản
của ông N1 là quyền sử dụng thửa đất số 84 có giá trị là 512.063.000đồng, thửa
đất số 85 có giá trị là 210.175.200đồng, thửa đất số 103 có giá trị là
1.304.424.000đồng và ½ giá trị vật kiến trúc trên đất là 273.823.525đồng, tổng
giá trị toàn bộ di sản là 2.300.485.725đồng, các đương sự không có kháng cáo.
Toà án cấp sơ thẩm chia cho 3 thừa kế mỗi người 1/3 di sản, riêng bà T và ông
T1 không có yêu cầu chia nhà nên Toà án cấp sơ thẩm tạm giao nhà cho bà T
quản lý sử dụng. Do vị trí đất bà N được chia không tiếp giáp đường giao thông
nên bà N kháng cáo yêu cầu chia lại quyền sử dụng đất.
[3] Tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án. Theo đó quyền sử dụng đất chia cho bà T
giữ nguyên như quyết định của bản án sơ thẩm, chỉ chia lại quyền sử dụng đất
cho bà N và ông T đối với hai thửa đất 85 và 103 cùng tờ bản đồ số 3, mỗi người
được nhận ½ thửa đất 85 và ½ thửa đất số 103 nhưng chia theo chiều Đông-Tây,
quyền sử dụng đất mỗi người được nhận đều giáp đường công cộng là đường B.
[4] Căn cứ vào Mảnh trích đo địa chính số 1654 ngày 28/7/2023 của Công
ty TNHH Đ1 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T phê duyệt
ngày 07/8/2023 và Mảnh trích đo phân khu ngày 05/02/2025 thì phần diện tích
đất bà T được chia là thửa đất số 84 diện tích 601m
2
, 1910.6m
2
đất thuộc một
phần thửa 103 thuộc khu E; phần diện tích đất ông T1 được nhận tại khu F diện
tích 2608,9m
2
, khu H diện tích 550m
2
; phần diện tích đất bà N được nhận tại
khu G diện tích 2609,5m
2
, khu I diện tích 550m
2
. Bà N và ông T1 không yêu
cầu bà T hoàn trả giá trị phần diện tích đất chênh lệch nên Hội đồng xét xử
không xem xét.
[5] Đối với căn nhà xây dựng trên thửa đất số 84 gồm nhà chính, nhà phụ,
mái che tiền chế và hàng rào có giá trị là 547.647.051đồng, trong đó giá trị di
sản là 273.823.525đồng, thì các bên thoả thuận, giao bà T được sở hữu toàn bộ
căn nhà, bà T hoàn trả giá trị 1/3 di sản là 91.274.508đồng cho bà N. Riêng ông
T1 không yêu cầu chia thừa kế di sản là căn nhà trên đất, đồng ý để bà T được
sở hữu nên ghi nhận.
[6] Về cây trồng trên đất, các bên trình bày thống nhất, cây trồng trên đất
do bà T trồng nhưng bà T không có tranh chấp, cây trồng trên phần đất được
chia cho người nào thì người đó được quyền sở hữu.
[7] Về chi phí tố tụng ở hai cấp xét xử tổng cộng là 56.500.000đồng, bà N,
bà T và ông T1 mỗi bên chịu 1/3 là 18.833.333đồng. Toàn bộ số tiền này bà N
đã nộp tạm ứng, bà T và ông T1 mỗi người phải nộp lại 18.833.333đồng để hoàn
trả cho bà N. Đối với số tiền thu thập chứng cứ 1.000.000đồng, bà T và bà N
mỗi người chịu 500.000đồng, số tiền này bà T đã nộp tạm ứng, bà N phải nộp lại
500.000đồng để hoàn trả cho bà T. Như vậy tổng số tiền chi phí tố tụng là
57.500.000đồng, bà N và bà T mỗi người phải chịu 19.333.333đồng, ông T1
chịu 18.833.333đồng, trong đó bà N nộp tạm ứng 56.500.000đồng, bà T nộp tạm
8
ứng 1.000.000đồng. Ông T1 nộp lại 18.833.333đồng, bà T nộp lại
18.333.333đồng để hoàn trả cho bà N.
[8] Xét thấy sự thoả thuận của các đương sự là tự nguyện, phù hợp với
Điều 12 Quyết định số 49/2024/QĐ-UBND ngày 25/10/2024 của Ủy ban nhân
dân tỉnh L quy định về điều kiện tách thửa, hợp thửa đất và diện tích tối thiểu
được tách thửa đối với một số loại đất trên địa bàn tỉnh Long An. Căn cứ Điều
300 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử ghi nhận sự thoả thuận của các
đương sự.
[9] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đề nghị
Hội đồng xét xử công nhận sự thoả thuận của các đương sự, sửa bản án sơ thẩm
là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[10] Về án phí: các đương sự chịu án phí trên giá trị di sản được nhận theo
quy định tại khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016.
[10.1] Bà T được chia thửa đất số 84 diện tích 601m
2
, 1910.6m
2
đất thuộc
một phần thửa 103 có tổng giá trị là 861.702.800đồng; 2/3 phần di sản căn nhà
là 182.549.016đồng, tổng giá trị di sản bà T được nhận là 1.044.251.816 đồng.
Bà T phải chịu án phí là 43.327.000đồng.
[10.2] Ông T1 được nhận 2608,9m
2
thuộc một phần thửa 103, 550m
2
thuộc
một phần thửa 85 (trong đó có 95.8m
2
thuộc ranh giới vùng phụ cận) có tổng giá
trị là 583.380.300đồng; ông T1 phải chịu án phí là 27.335.000đồng.
[10.3] Miễn án phí cho bà N do thuộc đối tượng người cao tuổi có đơn xin
miễn án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo nguyên đơn bà Phạm Thị N.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 113/2024/DS-ST ngày 27/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện T.
Căn cứ các Điều 26, 37, 39, 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 609,
611, 612, 613, 649, 650, 651 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 12, 27, 29 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
Công nhận sự thoả thuận của các đương sự bà Phạm Thị N, bà Ngô Thanh
T, ông Nguyễn Văn T1. Sự thoả thuận của các đương sự cụ thể như sau:
9
1. Xác định các thừa kế của ông Bùi Thanh N1 gồm bà Phạm Thị N, bà
Ngô Thanh T, ông Nguyễn Văn T1
2. Xác định di sản thừa kế của ông Bùi Thanh N1 gồm quyền sử dụng thửa
đất số 84 tờ bản đồ số 03 loại đất ONT diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất là 633m
2
, diện tích đo đạc thực tế là 601m
2
trị giá 512.063.000đồng;
quyền sử dụng thửa đất số 85 tờ bản đồ số 03 loại đất CLN diện tích theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là 1.267m
2
, diện tích đo đạc thực tế là 1.100m
2
,
trị giá 210.175.200 đồng; quyền sử dụng thửa đất số 103 tờ bản đồ số 03 loại đất
LUC diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 7.677m
2
, diện tích đo
đạc thực tế là 7.128m
2
trị giá 1.304.424.000 đồng; ½ giá trị nhà trên thửa đất 84
(gồm nhà chính, nhà phụ, mái che tiền chế, hàng rào) là 273.823.525đồng.
Cùng tọa lạc Ấp B, xã L, huyện T, tỉnh Long An (hiện do ông Bùi Thanh
N1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
gắn liền với đất số BH 425658, BH 425659, BH 425660 được Ủy ban nhân dân
huyện T cấp cùng ngày 03/8/2012).
3. Di sản được chia như sau:
3.1. Chia cho bà Ngô Thanh T thửa đất số 84 tờ bản đồ số 3, diện tích theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BH 425660 ngày 03 tháng 8 năm 2012
do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho ông Bùi Thanh N1 là 633m
2
, diện tích đo
đạc thực tế là 601m
2
và 1.910,6m
2
thuộc một phần thửa đất số 103 tờ bản đồ số
3 cùng toàn bộ vật kiến trúc, cây trồng trên đất, gồm nhà chính, nhà phụ, mái
che.
Theo Mảnh trích đo địa chính số 1654 ngày 28/7/2023 của Công ty TNHH
Đ1 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T phê duyệt ngày
07/8/2023 và Mảnh trích đo phân khu ngày 05/2/2025 thì phần diện tích đất bà T
được chia tại thửa 84 và khu E có vị trí tiếp giáp như sau:
Đông giáp thửa 106
Tây giáp đường B
Nam giáp khu H thửa 85 và khu F thửa 103
Bắc giáp thửa 83, 237
Bà Ngô Thanh T có nghĩa vụ giao cho bà Phạm Thị N số tiền
91.274.508đồng.
3.2. Chia cho ông Nguyễn Văn T1 2608,9m
2
đất thuộc một phần thửa 103
và 550m
2
thuộc một phần thửa 85 tờ bản đồ số 3 cùng toàn bộ cây trồng trên đất.
Theo Mảnh trích đo địa chính số 1654 ngày 28/7/2023 của Công ty TNHH Đ1
được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T phê duyệt ngày
07/8/2023 và Mảnh trích đo phân khu ngày 05/2/2025 thì phần diện tích đất ông
T1 được chia tại khu H và khu F có vị trí tiếp giáp như sau:
Đông giáp thửa 106
Tây giáp đường B
10
Nam giáp khu I thửa 85 và khu G thửa 103
Bắc giáp thửa 84 và khu E thửa 103
Bà Ngô Thanh T có nghĩa vụ giao cho ông T1 phần diện tích đất được chia.
3.3. Chia cho bà Phạm Thị N 2609,5m
2
đất thuộc một phần thửa 103;
550m
2
đất thuộc một phần thửa 85 tờ bản đồ số 3 cùng toàn bộ cây trồng trên đất
và số tiền 91.274.508 đồng do bà T giao lại. Theo Mảnh trích đo địa chính số
1654 ngày 28/7/2023 của Công ty TNHH Đ1 được Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai tại huyện T phê duyệt ngày 07/8/2023 và Mảnh trích đo phân khu
ngày 05/2/2025 thì phần diện tích đất bà N được chia tại khu I và khu G có vị trí
tiếp giáp như sau:
Đông giáp thửa 106
Tây giáp đường B
Nam giáp thửa 107
Bắc giáp khu H thửa 85 và khu F thửa 103
Bà Ngô Thanh T có nghĩa vụ giao cho bà N phần diện tích đất được chia và
số tiền 91.274.508đồng.
Các đương sự được quyền liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê
khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất
được chia.
4. Về chi phí tố tụng: bà N và bà T mỗi người phải chịu 19.333.333đồng,
ông T1 chịu 18.833.333đồng, trong đó bà N nộp tạm ứng 56.500.000đồng, bà T
nộp tạm ứng 1.000.000đồng. Ông T1 nộp lại 18.833.333đồng, bà T nộp lại
18.333.333đồng để hoàn trả cho bà N.
5. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án
của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự
2015.
6. Về án phí: bà Ngô Thanh T phải chịu 43.327.000đồng án phí chia thừa
kế, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 15.633.500đồng theo
biên lai thu số 0008115 ngày 10/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
T, tỉnh Long An. Bà T phải nộp tiếp số tiền 27.693.500đồng.
Ông Nguyễn Văn T1 phải chịu 27.335.000đồng án phí chia thừa kế, nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 18.963.250 đồng theo biên lai thu
số 0008116 ngày 10/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh
Long An. Ông T1 phải nộp tiếp số tiền 8.371.750đồng.
Miễn án phí cho bà Phạm Thị N.
7. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi
hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành
11
án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
8. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện T;
- Chi cục THADS huyện T;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Kim Nga
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 60/2025/DS-PT ngày 14/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 14/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Bản án số 53/2025/DS-PT ngày 12/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm