Bản án số 23/2025/DS-PT ngày 06/02/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 23/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 23/2025/DS-PT ngày 06/02/2025 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sóc Trăng
Số hiệu: 23/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 06/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bapt nguyễn thị N - Trần thị L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 23/2025/DS-PT
Ngày 21-01-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài
sản bị xâm hại.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hồ Văn Phụng.
Các Thẩm phán: Bà Trương Tố Hương.
Bà Tôn Thị Thanh Thúy.
- Thư phiên tòa: Ông Đinh Quốc Thanh- Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Ông Trương Minh Diền- Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17 ngày 21 tháng 01 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số:
276/2024/TLPT-DS ngày 12 tháng 12 m 2024 về việc tranh chấp quyền sử
dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại do tài sản bị xâm hại.
Do bản án n sự thẩm số 204/2024/DS-ST ngày 31 tháng 10 năm
2024 của Toà án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 332/2024/QĐ-PT
ngày 25 tháng 12 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số:
11/2025/QĐ-PT ngày 10 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị N, sinh năm 1949. Địa chỉ: Số nhà A ấp
N, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Trần Thị Thu T, sinh
năm 1975. Địa chỉ: Số nhà A ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).
2. Bị đơn: Trần Thị L, sinh m 1940. Địa chỉ: Số nA ấp N, V,
thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh
năm 1960. Địa chỉ: ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt).
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1960. Địa chỉ: ấp N, xã V, thị xã V,
tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt).
3.2. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1963. Địa chỉ: ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh
Sóc Trăng. (Có mặt)
3.3. Nguyễn Thị H1, sinh năm 1966. Địa chỉ: ấp N, V, thị V,
tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)
3.4. Ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1973. Địa chỉ: ấp N, V, thị V,
tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt)
3.5. Nguyễn Thị D, sinh năm 1976. Địa chỉ: ấp N, V, thị V, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt)
3.6. Ông Trần Thanh B, sinh năm 1980. Địa chỉ: ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh
Sóc Trăng. (Có mặt)
3.7. Nguyễn Ngọc G, sinh năm 1982. Địa chỉ: ấp N, V, thV,
tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt)
3.8. Thị Mỹ L2, sinh năm 1962. Địa chỉ: ấp N, V, thị V, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt)
3.9. Ông Văn N1, sinh năm 1957. Địa chỉ: ấp N, V, thị V, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt)
3.10. Bà Thạch Thị D1, sinh năm 1975. Địa chỉ: ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt).
3.11. Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1980. Địa chỉ: ấp N, V, thị
V, tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)
3.12. Lâm T1, sinh năm 1970. Địa chỉ: ấp N, V, thị V, tỉnh
Sóc Trăng. (vắng mặt)
3.13. Ông Trần Văn C, sinh năm 1971. Địa chỉ: p N, V, thị xã V, tỉnh
Sóc Trăng. (Có mặt)
3.14. Trần Thị Thu T, sinh năm 1975. Địa chỉ: ấp N, V, thị V,
tỉnh Sóc Trăng. (Có mặt)
3.15. Trần Thị Thu H2, sinh năm 1977.Địa chỉ: khóm K, phường K,
thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt)
3.16. Trần Thị Thu L3, sinh năm 1982. Địa chỉ: ấp L, N, huyện M,
3
tỉnh Sóc Trăng. (Vắng mặt)
3.17. Ông Trần Văn T2, sinh năm 1986. Địa chỉ: ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh
Sóc Trăng. (Vắng mặt)
4. Người kháng cáo:Nguyễn Thị N là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án thẩm và các tài liệu trong hồ vụ án, nội dung ván
được tóm tắt như sau:
* Theo đơn khởi kiện ngày 02/12/2022 của Nguyễn Thị N và trong quá
trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo y quyền của
nguyên đơn đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Thu
T trình bày: Cha mẹ T ông Trần Văn Ú và Nguyễn Thị N, ông Ú trước
đây sống chung với mẹ ruột bà Hứa Thị G1, các phần đất G1 được nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là của ông Ú nhưng do ông Ú
chung với mẹ nên khi đi làm Sổ đỏ ông Ú để ghi tên mẹ G1. Lúc ông Ú
còn sống, ông Ú có xin đất rừng diện tích 20 công theo đơn xin đất rừng đề ngày
2/3/1976 của ông Ú, xác nhận của chính quyền địa phương. Đất này, ông Ú
khai phá và sử dụng từ ngày xin đất cho tới năm 2007 vào mục đích chôn mồ mả
ông trồng (lá sẵn ông Ú N cùng trồng thêm). Lúc xin đất
xin 20 công nhưng cặm ranh từ nhà ông Ú đến nhà ông Sáu Đ (hiện nay
ông N2), phần đất này hiện nay thuộc thửa 217 và 213 tờ bản đồ 09 tọa lạc tại ấp
N, V. Ông Ú chết năm 2020, trước đó ông Ú không tranh chấp với gia
đình L, đến năm 2016 do gia đình hai bên không thuận với nhau nên ông Ú
muốn kiện để lấy lại phần đất của ông đã xin trước đó được chính quyền đồng ý
theo “Đơn xin đất rừng” ngày 2/3/1976, ông Ú làm đơn gởi Ủy ban nhân dân
xã V nhưng gởi Ủy ban nhân dân xã V không nhận đơn mà có gọi ông Ú lên cho
rằng ông Ú chưa được quyền khởi kiện giấy chứng nhận quyền sdụng đất
đứng tên bà Hứa Thị G1, cho đến lúc này, ông Ú vẫn nghĩ phần đất bà L đang sử
dụng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà G1.
Cho đến khi L khởi kiện ông Ú tại Tòa án tỉnh Sóc Trăng về việc chia
thừa kế của G1 thì gia đình ông Ú mới biết được phần đất này không nằm
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà G1. Bà L chị ruột của ông Ú,
trước đây đi ghe, lúc lên bờ không có đất nên ở đậu đất của ông Năm H3, sau đó
ông H3 không cho nữa nên ông Ú cho L cất một căn nhà cặp ranh của
4
ông Năm H3 (ông N2 hiện nay), đến khi L dời mồ mả ông về thì N
không biết. Sau đó, do con lớn của ông Ú là ông Trần Văn C cưới vợ nên ông Ú
giao cho ông C quản khai thác để bán. Đến năm 2007, L chiếm toàn bộ
diện tích đất này và dời mộ về nên ông Ú không đồng ý, nhưng lúc này ông Ú bị
bệnh Ung Thư vòm họng không nói chuyện được nên N đến ngăn cản thì
bị chị ông Ú là bà M đánh nên sau đó bà N sợ và không dám đến tranh chấp nữa.
Nay, T thống nhất kết quả đo đạc của Tòa án tại phiên xem xét thẩm
định. Phần đất tranh chấp tại 2 thửa 213 và 217 có vị trí cụ thể như sau:
- Phần đất tại thửa 213, tờ bản đồ số 09 tọa lạc tại ấp N, V, thị V,
tỉnh Sóc Trăng; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay cấp cho ông Trần
Thanh B, diện tích 4.585,2m
2
loại đất trồng cây lâu năm, vị trí tứ cận
như sau:
+ Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936 số đo 19,17m + 7,02m +
16,09m + 12,04m + 2,52m + 6,15m + 0,96m.
+ Hướng Tây giáp thửa 212 có số đo 70,30m.
+ Hướng Nam giáp thửa 218 số đo 35, 86m + 7,19m + 0,72m + 5,67m
+ 5,70m + 11,76m; giáp thửa 217 có số đo 18,48m .
+ Hướng Bắc giáp thửa 291 có số đo 46,36m + 19,83m.
- Phần đất tại thửa 217, tờ bản đồ số 09 tọa lạc tại ấp N, V, thị V,
tỉnh Sóc Trăng; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện nay cấp cho ông Trần
Thanh B, diện tích 436,5m
2
(trong đó đất thổ 300m
2
còn lại là đất
trồng cây lâu năm), có vị trí tứ cận như sau:
+ Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936 có số đo 11,32m + 5,67m + 6,94m.
+ Hướng Tây giáp thửa 213 có số đo 11,76m + 5,70m + 5,67m.
+ Hướng Nam giáp thửa 218 có số đo 18,53m .
+ Hướng Bắc giáp thửa 213 có số đo 18,48m.
Tại đơn khởi kiện, N yêu cầu bị đơn bà L gia đình L tháo dỡ i
sản trên đất trả cho N diện tích đất tranh chấp nêu trên. Tuy nhiên, trong quá
trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa thẩm T thay đổi yêu cầu khởi kiện
yêu cầu L và gia đình L trả gtrị đất đối với phần đất nêu theo giá của
Công ty T4 đã định g3.887.971.200đ (ba tỷ tám trăm tám mươi bảy triệu
chín trăm bảy mươi mốt nghìn hai trăm đồng). Đồng ý trừ giá trị đất đối với căn
5
nhà của L (căn nhà cặp ranh đất của ông N2), do ông Ú đã cho L cất
nhà chiều ngang 4,9m diện tích 53m
2
giá trị đất tính theo đất thổ
72.928.000đ (bảy mươi hai triệu chín trăm hai mươi tám nghìn đồng). Giá trị
còn lại của phần đất tranh chấp 3.815.043.200đ (ba tỷ tám trăm mười lăm
triệu không trăm bốn mươi ba nghìn hai trăm đồng) T yêu cầu L các
con L sử dụng đất gồm vợ chồng ông Nguyễn Thanh H Thị Mỹ
L2, vợ chồng ông Nguyễn Thanh S Thạch Thị D1, Nguyễn Thị H1, vợ
chồng bà Nguyễn Thị L1 ông Lê Văn N1, vợ chồng ông Nguyễn Thanh P
Nguyễn Ngọc G và vợ chồng ông Trần Thanh B Lâm Sà T1 phải trả cho bà
N số tiền nêu trên.
Ngoài ra, bà N yêu cầu L phải bồi thường tiền thất thu hoạch lá từ năm
2007 cho đến năm 2022 là 5.000.000đồng/năm x 15 năm = 75.000.000đ (bảy
mươi lăm triệu đồng).
T thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ Kết luận Thẩm
định giá của Công ty T4.
Đối với tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản chi
phí trích lục hồ sơ, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và là người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan ông Nguyễn Thanh H trình bày: Nguồn gốc phần đất tranh chấp
do bà L (mẹ ông H) khai phá cùng với các con từ sau năm 1975, năm 1987 L
cất nhà trên đất, sau đó vào năm 1997 L được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Căn nhà đầu tiên L cất từ năm 1987 sau đó thì L cho
các con cất nhà và ở ổn định từ 10 đến 15 năm riêng ông Nguyễn Thanh H và vợ
Thị Mỹ L2 cất nhà trên đất đó hơn 20 m. Còn phần T trình bày
đất này do ông Ú giao cho ông C khai thác lá không đúng, ông C cháu
kêu L bằng nên khi ông C cần dùng lá đến xin L thì bà L cho đốn
để sử dụng. Ngoài ra, việc T cho rằng di dời mộ về không đúng chỉ di
dời mộ của ông C1 về, còn ông ngoại thì được chôn cất tại đất này, ông
của bà T và ông bà của ông H là một, vì cùng là anh em họ hàng. Ngoải ra, bà T
cho rằng ông Trần Văn Ú thấy L không chỗ nên cho L cất nhà
không đúng, vì đất này là của bà L khai phá, ban đầu lúc mới lên bờ, do đất chưa
khia phá xong, không cất nhà được nên L mới cất nhà nhờ trên đất của ông
Năm H3 sau này L khai phá xong thì về cất nhà trên đất từ năm 1987 đến
6
nay. Từ khi bà L và các con khai phá sử dụng, ông Ú chưa từng sử dụng đất này
ngày nào, gia đình bà L không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của bà N.
Ông H thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ kết luận Thẩm
định giá của Công ty T4.
* Người quyền, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị L1 trình bày: L1
thống nhất với lời trình bày của ông H. Diện tích đất này là của mẹ bà là bà Trần
Thị L đã ở trước 1975, sau 1975 thì tiếp tục khai phá cất nhà ở cho đến nay, ông
Ú và bà N chưa từng khai phá và sử dụng đất này ngày nào. Diện tích đất này bà
L đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó sang tên cho con
anh Trần Thanh B. Trên đất, L đã cho các con cất nhà, trong đó cho vợ
chồng L1 ông Văn N1 một phần diện tích đất vợ chồng L1 từ
khoảng năm 2003 cho đến nay. Bà L1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của
N.
L1 thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ kết luận Thẩm
định giá của Công ty T4.
* Người có quyền, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị H1 trình bày: Bà H1
thống nhất với lời trình bày của ông H. Diện tích đất này là của mẹ bà là bà Trần
Thị L đã ở trước 1975, sau 1975 thì tiếp tục khai phá cất nhà ở cho đến nay, ông
Ú và bà N chưa từng khai phá và sử dụng đất này ngày nào. Diện tích đất này bà
L đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó sang tên cho con
anh Trần Thanh B. Trên đất, bà L đã cho các con cất nhà, trong đó có cho bà H1
một phần diện tích đất H1 cất nhà từ khoảng năm 2008 cho đến nay.
H1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà N.
H1 thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ kết luận Thẩm
định giá của Công ty T4.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh B vợ tên
Lâm T1 trình bày: Toàn bộ diện tích đất này hiện nay do ông B đứng tên
quyền sử dụng đất do được mẹ là bà L làm thủ tục tặng cho, thực tế, do bà L lớn
tuổi, hay đau bệnh nên sang tên cho ông B đứng tên nhưng phần đất này, L
đã cho các con cùng quản lý sử dụng, cất nhà ổn định trên đất. Ông B T1
thống nhất với lời trình bày của ông Nguyễn Thanh H không đồng ý yêu cầu
khởi kiện của N.
Ông B và bà T1 thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và kết luận
7
Thẩm định giá của Công ty T4.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh P trình bày:
Đất này hiện của mẹ ông L tkhai phá được nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. L cho vợ chồng ông P Nguyễn Ngọc
G một n nhà, căn nhà này L xây dựng từ năm 1996 (căn nhà giữa căn nhà
của bà L căn nhà hiện ông B đang sử dụng). Do vợ chồng ông P thường
xuyên đi làm xa nên giao lại cho ông B quản sử dụng. Ông P thống nhất với
lời trình bày của ông Nguyễn Thanh H không đồng ý yêu cầu khởi kiện của
N.
Ông P thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chkết luận Thẩm
định giá của Công ty T4.
* Người quyền li, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh S trình bày:
Đất này hiện của mẹ ông L tkhai phá được nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, L cho vợ chồng ông S Thạch Thị D1
một nền nhà cặp ranh đất H1. Ông S thống nhất với lời trình bày của ông
Nguyễn Thanh H không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà N.
Ông S thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chkết luận Thẩm
định giá của Công ty T4.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn C trình bày: Ông
C là con ruột của ông Trần Văn Ú, tuy nhiên, phần đất tranh chấp theo ông C
biết thì từ trước đến nay cha ông ông Ú chưa từng khai psử dụng. Từ
khi ông C biết thì đất này do L khai phá sử dụng cất nhà ổn định đến nay.
Trước đây, khi cần sử dụng dừa nước để làm công việc thì ông C hỏi xin
L để sử dụng chứ không tự ý đốn chưa được sự đồng ý của L.
Bà T cho rằng đây là đất của ông Ú là không đúng.
Ông C thống nhất kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và kết luận Thẩm
định giá của Công ty T4.
* Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị D,
Nguyễn Ngọc G, bà Lý Thị Mỹ L2, ông Lê Văn N1, bà Thạch Thị D1, bà Trần
Thị Thu H2, Trần Thị Thu L3 ông Trần Văn T2: được tống đạt hợp lệ
Thông báo về việc thụ vụ án, tại Thông báo thể hiện đầy đủ những tình tiết,
sự kiện, tài liệu, yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị N nhưng không ai ý
kiến gì, không có văn bản trình bày ý kiến và nguyện vọng của mình. Trong quá
8
trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành triệu tập các đương sự các đương
sự nêu trên cũng vắng mặt không có lý do trong các phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải. Tòa án đã thông o kết quả
phiên họp trên cho các đương sự được biết đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa
ngày 22/10/2024, các đương sự nêu trên vẫn vắng mặt không giao nộp tài
liệu, chứng cứ gì nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, tiếp tục đưa vụ
án ra xét xử theo luật định.
* Chứng cứ Tòa án thu thập được : Biên bản xem xét, thẩm định tại
chỗ. Công văn số 1330/CCTT-CNVC ngày 20/9/2024 của Chi nhánh Văn phòng
đăng đất đai thị V; Bản sao Hồ địa chính đối các thửa đất tranh chấp;
Biên bản xác minh ông Lưu Văn X; Kết quả Thẩm định giá của Công ty T4.
Tại Bản án dân sự thẩm số 204/2024/DS-ST, ngày 31 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân thị Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định: Căn
cứ Điều 5, khoản 6 khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản
1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều 165, điểm b
khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 202
Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 166, Điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015;
Khoản 3 Điều 26 điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14,
ngày 30 tháng 12 m 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV. Tuyên
xử:
1/. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Nguyễn Thị N với bị đơn Trần Thị L về tranh chấp quyền sử dụng đất và bồi
thường thiệt hai do tài sản bị xâm phạm.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị N v
việc buộc Trần ThL các thành viên gia đình L đang sử dụng đất gồm
Trần Thị L, vợ chồng ông Nguyễn Thanh H Lý Thị Mỹ L2, vợ chồng
Nguyễn Thị L1 ông Lê Văn N1, bà Nguyễn Thị H1, vợ chồng ông Trần Thanh
B Lâm T1, vợ chồng ông Nguyễn Thanh P Nguyễn Ngọc G vợ
chồng ông Nguyễn Thanh S Thạch Thị D1 trả cho Nguyễn Thị N giá trị
đất tranh chấp theo Kết luận thẩm định giá của Công ty T4 sau khi trừ diện tích
53m
2
căn nhà ông Ú cho N cất còn lại với số tiền là 3.815.043.200đ (ba tỷ
tám trăm mười lăm triệu không trăm bốn mươi ba nghìn hai trăm đồng) đối với
phần đất thuộc 2 thửa 213 217, tờ bản đồ 09 lạc tại ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh
9
Sóc Trăng; cụ thể như sau:
- Phần đất tại thửa 213 tờ bản đồ s09 tọa lạc tại ấp N, V, thị V,
tỉnh Sóc Trăng; đã được Ủy ban nhân dân thị V cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông Trần Thanh B; diện tích 4.585,2m
2
loại đất trồng cây
lâu năm; có vị trí tứ cận như sau:
+ Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936 số đo 19,17m + 7,02m +
16,09m + 12,04m + 2,52m + 6,15m + 0,96m.
+ Hướng Tây giáp thửa 212 có số đo 70,30m.
+ Hướng Nam giáp thửa 218 số đo 35, 86m + 7,19m + 0,72m + 5,67m
+ 5,70m + 11,76m; giáp thửa 217 có số đo 18,48m .
+ Hướng Bắc giáp thửa 291 có số đo 46,36m + 19,83m.
- Phần đất tại thửa 217 tờ bản đồ s09 tọa lạc tại ấp N, V, thị V,
tỉnh Sóc Trăng; đã được Ủy ban nhân dân thị V cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho ông Trần Thanh B; diện tích 436,5m
2
(trong đó đất thổ
là 300m
2
còn lại là đất trồng cây lâu năm), có vị trí tứ cận như sau:
+ Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936 có số đo 11,32m + 5,67m + 6,94m.
+ Hướng Tây giáp thửa 213 có số đo 11,76m + 5,70m + 5,67m.
+ Hướng Nam giáp thửa 218 có số đo 18,53m .
+ Hướng Bắc giáp thửa 213 có số đo 18,48m.
Trên đất, hiện nay đang 06 căn nhà của L các con L đang
quản lý sử dụng gồm:
- Căn nhà của ông Nguyễn Thanh H vợ Thị Mỹ L2 chiều
ngang 4,1m x dài 10m xây dựng năm 2013 từ nền nhà của ông H được bà L
cho trên 20 năm; 01 căn nhà tạm vách lá, mái tool cột xi măng, cột cây chiều
ngang 3,7m x chiều dài 10m; 01 nhà tắm xây gạch i lợp tol xi măng chiều
ngang 1,8m x dài 3m.
- Căn nhà của Nguyễn Thị H1 kết cấu nhà tường xây gạch, mái lợp tol
thiếc, loại nhà 2 gian nền lát gạch ceramit, chiều ngang 9m x chiều dài 12 m xây
dựng năm 2008; 01 mái che phía trước nhà lợp tol thiếc, cột đúc xi măng, nền
láng xi măng, chiều ngang 10m x dài 6m.
- Căn nhà của Nguyễn Thị L1 ông Văn N1 là: 01 nhà tường xây
gạch, cột đúc xi măng, mái lợp tol xi măng, đòn tay tầm vông nền lát gạch
10
ceramit chiều ngang 4,9m x chiều dài 17m xây dựng m 2008; 01 i che lợp
tol thiếc cột đúc xi măng + cột cây, nền xi măng, chiều ngang 7m dài 23m.
- Căn nhà của ông Trần Thanh B Lâm T1: 01 căn nhà cấp 4 kết
cấu xây tường gạch cột tông cốt thép, mái lợp tol thiếc, nền nền lát gạch
ceramit, chiều ngang 5,4m x dài 17,6m xây dựng năm 2019; Hàng rào xây gạch
lửng ốp gạch Ceramic, cột đúc, hàng rào sắt hộp, 02 cánh cửa sắt chiều ngang
7m x dài 9,9m nền lát gạch ceramit.
- Căn nhà của vợ chồng ông Nguyễn Thanh P Nguyễn Ngọc G (hiện
ông Trần Thanh B quản lý): 01 căn nhà tường xây gạch, mái lợp tol thiếc, cột bê
tông cốt thép, nền lát gạch ceramit, cửa kiếng, khung sắt xây dựng năm 1996
chiều ngang 5,3m x dài 15,6m.
- Căn nhà của Trần Thị L (hiện do ông Trần Thanh B quản lý) là: 01
căn nhà tường xây gạch, cột bê tông cốt thép, mái lợp tol thiếc, cửa sắt, nền láng
xi măng xây dựng năm 1996, chiều ngang 4,9m x dài 11,9m.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị N vviệc buộc
Trần Thị L bồi thường tiền thất thu hoạch 75.000.000đ (bảy mươi lăm
triệu đồng).
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng khác
thông báo quyền kháng cáo cho các đương sự theo luật định.
* Ngày 14/11/2024, nguyên đơn Nguyễn Thị N đơn kháng cáo với
nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm Hủy án thẩm số 204/2024/DS-ST
ngày 31/10/2024 của Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng.
* Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
Trần Thị Thanh T3 không rút đơn khởi kiện giữ nguyên nội dung đơn kháng
cáo; các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ
án.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng
về tính căn cứ hợp pháp của kháng cáo, việc tuân thủ chấp hành pháp
luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm.
Đồng thời, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về nội dung kháng cáo và đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bluật Tố tụng dân sự năm 2015,
không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N.
11
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại tòa, kết quả tranh
luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về Tố tụng:
[1] Về chủ thể, nội dung, hình thức đơn kháng o, thời hạn kháng o
của nguyên đơn Nguyễn Thị N là đúng theo quy định tại Điều 271, Điều 272
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên kháng cáo hợp lệ đúng theo luật
định.
[2] Về sự mặt của những người tham gia tố tụng: tại phiên tòa phúc
thẩm nguyên đơn Nguyễn Thị N, bị đơn Trần Thị L vắng mặt nhưng
người đại diện tham gia phiên tòa; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông
Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị D, Nguyễn Ngọc G, Thị Mỹ L2, ông
Văn N1, Thạch Thị D1, Lâm T1, Trần Thị Thu H2, Trần Thị
Thu L3 ông Trần Văn T2 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai đều vắng
mặt; Việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng
xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng n sự năm 2015, tiến
hành xét xử vụ án.
Nội dung vụ án:
[3] Tại đơn khởi kiện, nguyên đơn N yêu cầu bị đơn L gia đình
L tháo dỡ tài sản trên đất trả cho N diện tích đất tranh chấp nêu trên. Tại
phiên tòa thẩm T3 thay đổi yêu cầu khởi kiện u cầu L gia đình
L trả giá trị đất đối với phần đất nêu theo giá của Công ty T4 đã định giá
3.887.971.20 (ba tỷ tám trăm tám mươi bảy triệu chín trăm bảy mươi mốt
nghìn hai trăm đồng). Đồng ý trừ giá trị đất đối với căn nhà cũ của bà L (căn nhà
cặp ranh đất của ông N2), do ông Ú đã cho bà L cất nhà có chiều ngang 4,9m có
diện tích 53m
2
giá trị đất tính theo đất thổ 72.928.000đ (bảy mươi hai
triệu chín trăm hai mươi tám nghìn đồng). Giá trị còn lại của phần đất tranh chấp
3.815.043.200đ (ba tỷ tám trăm mười lăm triệu không tm bốn mươi ba
nghìn hai trăm đồng) bà T3 yêu cầu bà L và các con bà L sử dụng đất gồm có vợ
chồng ông Nguyễn Thanh H Lý Thị Mỹ L2, vợ chồng ông Nguyễn Thanh S
Thạch Thị D1, Nguyễn Thị H1, vợ chồng Nguyễn Thị L1 ông Lê
Văn N1, vợ chồng ông Nguyễn Thanh P Nguyễn Ngọc G và vchồng ông
Trần Thanh B Lâm Sà T1 phải trả cho bà N số tiền nêu trên. Ngoài ra, bà N
12
yêu cầu L phải bồi thường tiền thất thu hoạch từ năm 2007 cho đến năm
2022 là 5.000.000đồng/năm x 15 năm = 75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu đồng).
[4] Bị đơn L cho rằng, bà các con khai phá sử dụng, ông Ú chưa
từng sử dụng đất này ngày nào, gia đình bà L không đồng ý với các yêu cầu khởi
kiện của bà N.
[5] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các con của L không
đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của bà N.
[6] Xét kháng cáo của nguyên đơn bà N yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm
Hủy án thẩm số 204/2024/DS-ST ngày 31/10/2024 của Tòa án nhân dân thị
xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Nhận thấy:
[6.1] Các đương sthống nhất số đo, diện tích đo đạc thực tế, tài sản trên
đất giá trị phần đất tranh chấp theo Biên bản về việc xem xét, thẩm định tại
chỗ phục vụ cho việc định giá tài sản ngày 26/10/2023 (bút lục từ số G), Chứng
thư Thẩm định giá số 311/2024/G02, ngày 26/9/2024 của Công ty TNHH T4
(bút lục từ số 108 đến số A) đồ hiện trạng thửa đất ngày 05/10/2022 (bút
lục số 87-88), cụ thể phần đất tranh chấp địa chỉ tọa lạc tại ấp N, V, thị xã V,
tỉnh Sóc Trăng, đại diện nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn Trần Thị L
các con của L trả cho N giá trị đất theo Kết quả Thẩm định giá của
Công ty Thẩm định giá Đỉnh Vàng đối với phần đất thuộc 2 thửa 213 217, tờ
bản đồ 09 lạc tại ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; cụ thể như sau:
[6.1.1] Phần đất tại thửa 213, tờ bản đồ số 09 tọa lạc tại ấp N, xã V, thị xã
V, tỉnh Sóc Trăng; đã được Ủy ban nhân dân thị xã V cấp giấy chứng nhận
quyền sdụng đất cho ông Trần Thanh B; có diện tích 4.585,2m
2
loại đất
trồng cây lâu năm, hiện nay đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Trần Thanh B; có vị trí tứ cận như sau: Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936
số đo 19,17m + 7,02m + 16,09m + 12,04m + 2,52m + 6,15m + 0,96m;
Hướng Tây giáp thửa 212 số đo 70,30m; Hướng Nam giáp thửa 218 số đo
35, 86m + 7,19m + 0,72m + 5,67m + 5,70m + 11,76m và giáp thửa 217 có số đo
18,48m; Hướng Bắc giáp thửa 291 có số đo 46,36m + 19,83m.
[6.1.2] Phần đất tại thửa 217 tờ bản đồ số 09 tọa lạc tại ấp N, xã V, thị
V, tỉnh Sóc Trăng; đã được Ủy ban nhân dân thị xã V cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Trần Thanh B; diện tích là 436,5m
2
(trong đó đất
thổ 300m
2
còn lại đất trồng cây lâu năm), hiện nay đã được cấp giấy
13
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Thanh B; vttứ cận như sau:
Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936 số đo 11,32m + 5,67m + 6,94m; Hướng
Tây giáp thửa 213 số đo 11,76m + 5,70m + 5,67m; Hướng Nam giáp thửa
218 có số đo 18,53m; Hướng Bắc giáp thửa 213 có số đo 18,48m.
T3 đồng ý giao cho L phần căn nhà chiều ngang 4,9m diện tích
53m
2
tại thửa 217 tờ bản đồ s09 tọa lạc tại ấp N, V, thị V, tỉnh Sóc
Trăng; không yêu cầu bà L trả giá trị đất đối với phần này. Sau khi khấu trừ giá
trị n nhà do L cất nhà chiều ngang 4,9m diện tích 53m
2
giá trị đất
tính theo đất thổ cư là 72.928.000đ thì buộc bị đơn bà Trần Thị L các con của
bà L trả cho bà N giá trị đất còn lại của phần đất tranh chấp là 3.815.043.200đ.
[6.2] Sau khi xét xử sơ thẩm thì N kháng cáo và có cung cấp:
[6.2.1] Những người làm chứng Tòa án đi xác minh thì những người
làm chứng như ông Nguyễn Văn L4, bà Trương Thị Q, bà Lê Thị N3, bà Đỗ Thị
H4, ông Trần Văn L5 đều khai về nguồn gốc đất, thời gian sử dụng đất chung
chung, không xác định được phần đất tranh chấp của ai trong vụ án này; Đối
với người làm chứng khác Tòa đi thu thập thì họ không có ở nhà.
[6.2.2] Nguyên đơn cung cấp Thông báo nộp thuế sử dụng đất nông
nghiệp thuế nhà đất các ngày 10/10/1998, ngày 9/8/2000 Thông báo nộp
các quỹ xây dựng sở htầng ngày 17/4/2003, các Thông báo của Ủy ban
nhân dân xã V cho ông Trần Văn Ú nhưng các Thông báo trên không thể hiện là
đóng thuế thửa đất nào tại các Thông báo nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp
thuế nhà đất các ngày 10/10/1998, ngày 9/8/2000 ghi thuế nđất, qui
thóc 7kg. Tuy nhiên, tại phần đất tranh chấp thì tại thời điểm này ông Ú không
cất nhà, ông Ú cất nhà tại phần đất Hứa Thị G1 đứng tên nền nnày
hiện nay ông Ú cho ông C con ruột cất nhà ở hiện nay. Do đó, các Thông báo
nộp thuế sdụng đất nông nghiệp thuế nhà đất các ngày 10/10/1998, ngày
9/8/2000 thì không phải nộp thuế nhà đất trên phần đất tranh chấp.
[6.3] Về nguồn gốc đất tranh chấp:
[6.3.1] Theo nguyên đơn khai thì phần đất tranh chấp do ông Trần Văn
Ú xin khai phá theo “Đơn xin đất rừng” năm 1976 vợ chồng ông Ú, N
người trực tiếp khai phá, sử dụng đến năm 2007, nhưng chưa đăng quyền sử
dụng đất. Tài liệu, chứng cứ nguyên đơn giao nộp “Đơn xin đất rừng” có
xác nhận của Ban nhân dân ấp của Ủy ban nhân dân K vào năm 1976.
Ngoài đơn “Đơn xin đất rừng” thì nguyên đơn không chứng cứ nào chứng
minh phần đất này, vợ chồng ông Ú và N khai phá sử dụng đến năm 2007
như lời trình bày của nguyên đơn. Đồng thời, ông C con ruột của ông Ú
không thừa nhận đây là đất của ông Ú ông C khẳng định cha ông chưa từng
khai phá sử dụng đất này. Việc T3 cho rằng khi ông C lập gia đình được
14
ông Ú giao cho sdụng đất này nhưng ông C không thừa nhận ông C khẳng
định đất này là của bà L, ông C có sử dụng lá thì xin bà L.
[6.3.2] Theo bị đơn khai, phần đất này là của L, do L các con
khai phá từ năm 1975, đến năm 1987 L cất nhà trên đất, sau này cất nhà
tường vào năm 1996 và sau đó vào năm 1997 bà L được Ủy ban nhân dân huyện
V (nay là thị xã V) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó các con bà L
lập gia đình thì L chia cho các con lần lượt cất nhà gồm: vợ chồng ông
Nguyễn Thanh H, Thị Mỹ L2; vợ chồng Nguyễn Thị L1, ông Văn
N1; bà Nguyễn Thị H1, vợ chồng ông Trần Thanh B, bà Lâm T1 một nền
chưa cất nhà cho ông Nguyễn Thanh P, Nguyễn Ngọc G; hiện trạng nhà đất
đúng như hiện trạng khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ. L
các con ổn định trên đất từ năm 1987 đến nay. Quá trình sử dụng đất thì từ
khoảng năm 2008 2009 các con L cất nhà, gia đình ông Ú N gần
phần đất tranh chấp nhưng không ai tranh chấp hay có ý kiến gì.
[6.3.3] Tại Công văn số 1330/CCTT-CNVC ngày 20/9/2024 của Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai thị xã V thể hiện (BL 192-194) thì phần đất
tranh chấp nêu trên vào năm 1997 đã được y ban nhân dân huyện V (nay thị
V) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ Trần Thị L theo đúng
quy định của pháp luật tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nguồn gốc đất căn cứ vào khoản 1 Điều 2 Luật đất đai năm 1993 Người sử
dụng ổn định, được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được
quan nhà nước thẩm quyền xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Hiện nay, phần đất tranh chấp nêu trên đã được L chuyển quyền (tặng cho)
ông Trần Thanh B đứng tên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho ông Trần Thanh B tại: 1. Thửa đất số 213 tờ bản đồ 09 tọa lạc ấp N, V,
thị V, tỉnh Sóc Trăng; giấy chứng nhận số CH 0375, BR 061559 cấp ngày
03/7/2014 cho ông Trần Thanh B; 2. Thửa đất số 217 tờ bản đồ 09 tọa lạc ấp N,
V, thị V, tỉnh Sóc Trăng; giấy chứng nhận số CH 0376, BQ 684808 cấp
ngày 03/7/2014 cho ông Trần Thanh B.
[6.3.4] Theo lời trình bày của T3 thì tại năm 1997, ông Ú chung với
mẹ Hứa Thị G1 nên các phần đất của ông Ú, ông Ú người đi đăng
quyền sử dụng đất cho tên G1 G1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nhưng không có đăng ký các thửa đất tranh chấp nêu trên.
15
[6.4] Từ những phân tích tại các mục [6.1] đến [6.3] thì cấp thẩm xác
nhận phần đất tranh chấp nguồn gốc của Trần Thị L khai phá, sử dụng
ổn định được cấp quyền sử dụng đất đúng quy định tại thời điểm cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là có căn cứ.
[6.5] Quá trình sử dụng đất tranh chấp: Tại biên bản xem xét, thẩm định
tại chỗ ngày 26/10/2023, phần diện tích đất tranh chấp theo sự chỉ ranh của
Trần Thị Thu T thuộc quyền sử dụng do ông Trần Thanh B (con L) đang
đứng tên quyền sdụng đất. Trên đất, hiện nay đang 06 căn nhà của L
các con bà L đang quản lý sử dụng, bao gồm:
[6.5.1] Căn nhà của ông Nguyễn Thanh H vợ Thị Mỹ L2
chiều ngang 4,1m x dài 10m xây dựng năm 2013 tnền nhà của ông H được
bà L cho trên 20 năm; 01 căn nhà tạm vách lá, mái tol cột xi măng, cột cây chiều
ngang 3,7m x chiều dài 10m; 01 nhà tắm xây gạch i lợp tol xi măng chiều
ngang 1,8m x dài 3m.
[6.5.2] Căn nhà của Nguyễn Thị H1 kết cấu nhà tường xây gạch, mái
lợp tol thiếc, loại nhà 2 gian nền lát gạch ceramit, chiều ngang 9m x chiều dài 12
m xây dựng năm 2008; 01 mái che phía trước nhà lợp tol thiếc, cột đúc xi măng,
nền láng xi măng, chiều ngang 10m x dài 6m.
[6.5.3] Căn nhà của Nguyễn Thị L1 ông Văn N1 là: 01 nhà
tường xây gạch, cột đúc xi măng, mái lợp tol xi măng, đòn tay tầm vông nền lát
gạch ceramit chiều ngang 4,9m x chiều dài 17m xây dựng năm 2008; 01 mái che
lợp tol thiếc cột đúc xi măng + cột cây, nền xi măng, chiều ngang 7m dài 23m.
[6.5.4] Căn nhà của ông Trần Thanh B Lâm T1: 01 căn nhà cấp
4 kết cấu xây tường gạch cột bê tông cốt thép, mái lợp tol thiếc, nền nền lát gạch
ceramit, chiều ngang 5,4m x dài 17,6m xây dựng năm 2019; Hàng rào xây gạch
lửng ốp gạch Ceramic, cột đúc, hàng rào sắt hộp, 02 cánh cửa sắt chiều ngang
7m x dài 9,9m nền lát gạch ceramit.
[6.5.5] Căn nhà của vợ chồng ông Nguyễn Thanh P Nguyễn Ngọc
G (hiện ông Trần Thanh B quản lý): 01 căn nhà tường xây gạch, mái lợp tol
thiếc, cột tông cốt thép, nền t gạch ceramit, cửa kiếng, khung sắt xây dựng
năm 1996 chiều ngang 5,3m x dài 15,6m.
[6.5.6] Căn nhà của bà Trần Thị L (hiện do ông Trần Thanh B quản lý) là:
01 căn nhà tường xây gạch, cột tông cốt thép, mái lợp tol thiếc, cửa sắt, nền
16
láng xi măng xây dựng năm 1996, chiều ngang 4,9m x dài 11,9m. Căn nhà này
là của bà L được xây dựng từ nền nhà cũ ban đầu bà L cất là năm 1987.
[6.6] Tnhững phân tích tại các tiểu mục [6.5.1] đến tiểu mục [6.5.6]
mục [6.5] thì cấp thẩm khẳng định trên phần đất tranh chấp được bà L các
con L ổn định từ năm 1987, sau đó, lần lược các con L cất nhà sinh
sống trên đất. Trong khi đó, gia đình ông Ú N kế bên nhưng không ai
tranh chấp hay có ý kiến gì cho đến năm 2022 là trên 35 năm (2022- 1987). Nay
T cho rằng do ông Ú bị bệnh nên gia đình lo chữa bệnh cho ông Ú mà không
thời gian tranh chấp gia đình ông Ú sử dụng đất này đến năm 2007. Tuy
nhiên, bà T không có căn cứ nào chứng minh là gia đình ông Ú sử dụng đất đến
năm 2007, phần đất tranh chấp trước năm 2007 đã tồn tại căn nhà của L
của vợ chồng ông P, G. Đồng thời, theo trình bày của con ruột ông Ú ông
Trần Văn C thì phần đất tranh chấp ông Ú và gia đình ông Ú chưa từng sử dụng.
Ngoài ra, tại Biên bản xác minh người làm chứng ông Lưu Văn X thì phần đất
tranh chấp nêu trên do L gia đình L sử dụng từ khoảng năm 1980
1982 đến nay. L các con L cất nhà ổn định không ai tranh chấp. Mặc
khác, ông Ú “đơn xin đất rừng” vào năm 1976, tuy nhiên ngoài “đơn xin đất
rừng” thì ông Ú không chứng cứ đã sử dụng diện ch đất này. Theo quy
định căn cứ vào khoản 1 Điều 2 Luật đất đai năm 1993 “Người sử dụng ổn định,
được Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận thì được quan nhà
nước thẩm quyền xét cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất”. Do đó,
mặc ông Ú đơn xin đất rừng nhưng thực tế theo xác minh và thực tế s
dụng thì bà L đã sử dụng đất này từ năm 1987 cho đến nay và đã được nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, cấp sơ thẩm bác yêu cầu của bà
N về việc buộc L các con L đang sử dụng đất phải trả cho N phần
đất tranh chấp nêu trên bằng giá trị theo Kết luận thẩm định giá của Công Ty
Thẩm định giá Đỉnh Vàng sau khi trừ diện tích n nhà ông Ú cho bà N còn lại
với số tiền 3.815.043.20(ba tỷ tám trăm mười lăm triệu không trăm bốn
mươi ba nghìn hai trăm đồng) là có căn cứ chấp nhận.
[6.7] Đối với yêu cầu của nguyên đơn Nguyễn Thị N về việc buộc bđơn
Trần Thị L bồi thường tiền thất thu hoạch hàng năm tnăm 2007 cho đến
năm 2022 5.000.000đồng/năm x 15 năm = 75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu
đồng). Như đã nhận định trên thì yêu cầu của Nguyễn Thị N không chấp
17
nhận, nên yêu cầu của Nguyễn Thị N về việc buộc bị đơn Trần Thị L bồi
thường tiền thất thu hoạch lá là 75.000.000đ là không có căn cứ.
[7] Từ những phân tích tại các tiểu mục [6.1] đến tiểu mục [6.7] mục [6]
thì cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bà N về việc buộc bà L và các con
L đang sử dụng đất phải trả cho N phần đất tranh chấp nêu trên bằng giá
trị theo Kết luận thẩm định giá của Công Ty Thẩm định giá Đỉnh Vàng sau khi
trừ diện tích căn nhà ông Ú cho bà N còn lại với số tiền là 3.815.043.200đ (ba tỷ
tám trăm mười lăm triệu không trăm bốn mươi ba nghìn hai trăm đồng) tiền
bồi thường tiền thất thu hoạch lá là 75.000.000đ là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc
thẩm, nguyên đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ mới, nên kháng
cáo của N yêu cầu hủy án thẩm là không có n cứ chấp nhận, nên Hội
đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự giữ
nguyên án sơ thẩm.
[8] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng là có căn
cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm được giữ nguyên, nên
N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa
án. Tuy nhiên, N người cao tuổi, nên được miễn toàn bộ án phí theo quy
định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị định trên.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Thị N. Giữ nguyên bản án
dân sự thẩm số 204/2024/DS-ST ngày 31 tháng 10 năm 2024 của Tòa án
nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng như sau:
18
Căn cứ: Điều 5, khoản 6 khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, Điều 144, Điều 147, Điều 157, Điều
165, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 202 Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 166, Điều 589 Bộ luật dân
sự năm 2015; Khoản 3 Điều 26 điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội khóa XIV.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn
Thị N với bị đơn Trần Thị L về tranh chấp quyền sử dụng đất bồi thường
thiệt hai do tài sản bị xâm phạm.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị N
về việc buộc Trần Thị L các thành viên gia đình L đang sử dụng đất
gồm Trần Thị L, vợ chồng ông Nguyễn Thanh H Thị Mỹ L2, vợ
chồng Nguyễn Thị L1 ông Văn N1, Nguyễn Thị H1, vchồng ông
Trần Thanh B Lâm T1, vợ chồng ông Nguyễn Thanh P Nguyễn
Ngọc G vợ chồng ông Nguyễn Thanh S Thạch Thị D1 trả cho
Nguyễn Thị N giá trị đất tranh chấp theo Kết luận thẩm định giá của ng ty T4
sau khi trừ diện tích 53m
2
căn nhà ông Ú cho bà N cất còn lại với số tiền
3.815.043.20(ba tỷ tám trăm mười lăm triệu không trăm bốn mươi ba nghìn
hai trăm đồng) đối với phần đất thuộc 2 thửa 213 và 217, cùng tờ bản đồ 09, đất
tọa lạc tại ấp N, xã V, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng; cụ thể như sau:
1.1. Phần đất tại thửa 213, tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp N, V, thị
V, tỉnh Sóc Trăng; đã được Ủy ban nhân dân thị V cấp giấy chứng nhận
quyền sdụng đất cho ông Trần Thanh B; có diện tích 4.585,2m
2
loại đất
trồng cây lâu năm; có vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936 có số đo 19,17m + 7,02m + 16,09m
+ 12,04m + 2,52m + 6,15m + 0,96m.
- Hướng Tây giáp thửa 212 có số đo 70,30m.
- Hướng Nam giáp thửa 218 số đo 35, 86m + 7,19m + 0,72m + 5,67m
+ 5,70m + 11,76m; giáp thửa 217 có số đo 18,48m .
- Hướng Bắc giáp thửa 291 có số đo 46,36m + 19,83m.
1.2. Phần đất tại thửa 217, tờ bản đồ số 09, đất tọa lạc tại ấp N, V, thị
19
V, tỉnh Sóc Trăng; đã được Ủy ban nhân dân thị V cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Trần Thanh B; diện tích là 436,5m
2
(trong đó đất
thổ cư là 300m
2
còn lại là đất trồng cây lâu năm), có vị trí tứ cận như sau:
- Hướng Đông giáp đường tỉnh lộ 936 có số đo 11,32m + 5,67m + 6,94m.
- Hướng Tây giáp thửa 213 có số đo 11,76m + 5,70m + 5,67m.
- Hướng Nam giáp thửa 218 có số đo 18,53m .
- Hướng Bắc giáp thửa 213 có số đo 18,48m.
1.3. Trên đất, hiện nay đang có 06 căn nhà của bà L và các con bà L đang
quản lý sử dụng, bao gồm:
1.3.1. Căn nhà của ông Nguyễn Thanh H vợ Thị Mỹ L2
chiều ngang 4,1m x dài 10m xây dựng năm 2013 tnền nhà của ông H được
bà L cho trên 20 năm; 01 căn nhà tạm vách lá, mái tol cột xi măng, cột cây chiều
ngang 3,7m x chiều dài 10m; 01 nhà tắm xây gạch i lợp tol xi măng chiều
ngang 1,8m x dài 3m.
1.3.2. Căn nhà của Nguyễn Thị H1 kết cấu nhà tường xây gạch, i
lợp tol thiếc, loại nhà 2 gian nền lát gạch ceramit, chiều ngang 9m x chiều dài 12
m xây dựng năm 2008; 01 mái che phía trước nhà lợp tol thiếc, cột đúc xi măng,
nền láng xi măng, chiều ngang 10m x dài 6m.
1.3.3. Căn nhà của bà Nguyễn Thị L1 và ông Lê Văn N1 là: 01 nhà tường
xây gạch, cột đúc xi măng, mái lợp tol xi măng, đòn tay tầm vông nền lát gạch
ceramit chiều ngang 4,9m x chiều dài 17m xây dựng m 2008; 01 i che lợp
tol thiếc cột đúc xi măng + cột cây, nền xi măng, chiều ngang 7m dài 23m.
1.3.4. n nhà của ông Trần Thanh B Lâm T1: 01 căn nhà cấp 4
kết cấu xây tường gạch cột tông cốt thép, mái lợp tol thiếc, nền nền lát gạch
ceramit, chiều ngang 5,4m x dài 17,6m xây dựng năm 2019; Hàng rào xây gạch
lửng ốp gạch Ceramic, cột đúc, hàng rào sắt hộp, 02 cánh cửa sắt chiều ngang
7m x dài 9,9m nền lát gạch ceramit.
1.3.5. Căn nhà của vợ chồng ông Nguyễn Thanh P Nguyễn Ngọc G
(hiện ông Trần Thanh B quản lý): 01 căn ntường xây gạch, mái lợp tol thiếc,
cột bê tông cốt thép, nền lát gạch ceramit, cửa kiếng, khung sắt xây dựng năm
1996 chiều ngang 5,3m x dài 15,6m.
20
1.3.6. Căn nhà của Trần Thị L (hiện do ông Trần Thanh B quản lý) là:
01 căn nhà tường xây gạch, cột tông cốt thép, mái lợp tol thiếc, cửa sắt, nền
láng xi măng xây dựng năm 1996, chiều ngang 4,9m x dài 11,9m.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N về việc buộc
Trần Thị L bồi thường tiền thất thu hoạch 75.000.000đ (bảy mươi lăm
triệu đồng).
3. Vchi pxem t, thẩm định tại chỗ định giá tài sản: Chi pxem
xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 27.545.800đ (hai mươi bảy triệu năm
trăm bốn mươi lăm nghìn tám trăm đồng) nguyên đơn phải chịu, nguyên đơn đã
nộp xong.
4. Chi phí trích lục hồ 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) nguyên đơn
phải chịu, nguyên đơn đã nộp xong.
5. Về án phí thẩm: Nguyễn Thị N phải chịu án phí không giá
ngạch 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) và án phí có giá ngạch 3.750.000đ
(ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng); tổng cộng 4.050.000đ (bốn triệu
không trăm năm ơi nghìn đồng). Tuy nhiên, do N người cao tuổi,
đơn xin miễn án phí nên không phải chịu án phí.
6. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị N được miễn toàn bộ án phí.
7. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi nh
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật thi hành án
dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND thị xã Vĩnh Châu;
- Chi cục THADS thị xã Vĩnh Châu;
- Lưu: HSVA - VP.
Hồ Văn Phụng
21
22
Tải về
Bản án số 23/2025/DS-PT Bản án số 23/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 23/2025/DS-PT Bản án số 23/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất