Bản án số 23/2017/DS-PT ngày 03/08/2017 của TAND tỉnh Sơn La

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 23/2017/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 23/2017/DS-PT ngày 03/08/2017 của TAND tỉnh Sơn La
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Sơn La
Số hiệu: 23/2017/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/08/2017
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 23/2017/DS-PT NGÀY 03/08/2017 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Ngày 03/8/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Sơn la, xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/TLPT-DS ngày 05/7/2017, về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Do bản án số: 36/2017/DS-ST ngày 26/05/2017 của Toà án nhân dân thành phố Sơn La bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2017/QĐPT-DS ngày 10/7/2017 giữa các đương sự.

- Nguyên đơn: Ông Lò Văn T. Địa chỉ: Bản A, xã B, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Có mặt

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lò Văn Chiến - Địa chỉ: Bản A, xã B, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La (theo giấy ủy quyền ngày 14/11/2016). Có mặt

-Bị đơn: Ông Quàng Văn C. Địa chỉ: Bản A, xã B, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Có mặt

Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Lò Văn T. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lò Văn C

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn ông Lò Văn T, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lò Văn Ch trình bày:

Ngày 15/10/2016 ông T đang ăn cơm, uống rượu tại nhà cháu là ông Lò Văn S, trú tại: bản A, xã B, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Hôm đó có ông Quàng Văn C là người cùng bản ăn ở mâm bên cạnh, trong khi đang ăn, không biết lý do gì ông C nhảy vào bóp cổ ông T, dùng tay đánh vào mặt, bụng, dùng chân đá, đạp vào lưng ông T, đấm vào mồm làm rơi mất 03 cái răng giả, tìm không thấy. Sự việc xảy ra đã được mọi người can ngăn. Ông T bị choáng váng bất tỉnh không biết gì, được các con cháu đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Quân Y 6. Khi chụp chiếu siêu âm bác sĩ kết luận một quả thận bị vỡ phải mổ, tại bệnh viện Quân Y 6 không có máu truyền nên yêu cầu gia đình chuyển lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La điều trị. Thời gian điều trị 4 ngày (từ ngày 16-19/10/2016) thì được xuất viện. Vì vậy, ông T đề nghị ông C phải bồi thường do sức khỏe bị xâm phạm. Sự việc công an xã B, tổ bản chính quyền địa phương đã hòa giải nhưng hai bên không thỏa thuận được mức bồi thường.

Đề nghị ông Quàng Văn C bồi thường các khoản chi phí sau:

- Chi phí 03 chiếc răng giả tại Phòng khám Răng - Hàm - Mặt  Trung Hậu là 10.000.000,đ (mười triệu đồng);

- Chi phí cấp cứu ban đầu tại Bệnh viện Quân y 6 gồm: chiếu chụp, siêu âm tiền thuốc, tiền thuê taxi tổng số tiền là: 2.900.000,đ (hai triệu chín trăm nghìn đồng);

- Điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La gồm: Tiền viện phí, tiền thuốc: 2.826.400,đ (hai triệu tám trăm hai mươi sáu nghìn bốn trăm đồng).

- Tiền công chăm sóc 2 người mỗi người 200.000,đ/ngày x 4 ngày x 2 người là 1.600.000,đ (một triệu sáu trăm nghìn đồng);

- Tiền bồi dưỡng sức khỏe: 4.000.000,đ (bốn triệu đồng);

Tổng số tiền đề nghị bồi thường là 21.326.400,đ (hai mươi mốt triệu ba trăm hai mươi sáu nghìn bốn trăm đồng).

Tại bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn ông Quàng Văn C trình bày:

Ngày 15/10/2016 ông C được cháu Lò Văn S – Trú tại: Bản A, xã B, thành phố Sơn La mời ăn cơm uống rượu. Ông C với ông T ngồi ăn cơm cách nhau một mâm, lúc đang ăn không biết lý do gì ông T chửi ông C và ông C đã xông vào túm tóc, tát. Ông C tức quá và do có uống rượu nên có được đánh ông T. Sau đó ông T được gia đình đưa đi bệnh viện, gia đình ông C có đến thăm hỏi nhưng phía gia đình ông Thái đòi bồi thường quá cao. Sự việc giữa ông C và ông T đã được Công an xã B và chính quyền địa phương hòa giải ông C nhất trí bồi thường cho ông T 10.000.000,đ nhưng ông T không nhất trí. Do vậy, ông Quàng Văn C nhất trí bồi thường cho ông Thái các khoản chi phí hợp lý có biên lai, hóa đơn, chứng từ.

Tại bản án số: 36/2017/DSST ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, đã xét xử và quyết định áp dụng Điều 604, Điều 605, Điều 606, Điều 607 và Điều 609 Bộ luật dân sự năm 2005; khoản 5 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 6 Điều 11 khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí và lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lò Văn T.

Buộc ông Quàng Văn C phải bồi thường cho ông Lò Văn T số tiền 11.039.000, đ (mười một triệu không trăm ba mươi chín nghìn đồng).

Trong đó: Chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc tại Bệnh viện Quân Y 6 và Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La: 1.039.000,đ (một triệu không trăm ba mươi chín nghìn đồng); Chi phí làm răng giả: 5.000.000,đ (năm triệu đồng); Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc: 600.000,đ (sáu trăm nghìn đồng); Chi phí tàu xe, đi lại: 400.000,đ (bốn trăm nghìn đồng); Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm: 4.000.000,đ (bốn triệu đồng).

2. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường số tiền còn lại là 10.287.000,đ (mười triệu hai trăm tám mươi bảy nghìn đồng) của ông Lò Văn Thái.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/06/2017 nguyên đơn ông Lò Văn T, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Lò Văn C có đơn kháng cáo không nhất trí với toàn bộ bản án sơ thẩm.

* Ý kiến tranh luận của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: ông Ch; Khi nhập viện tại Bệnh viện Quân Y 6, ngoài tiền thuốc men theo hóa đơn, chúng tôi còn đi chụp chiếu, siêu âm, mua thuốc ở ngoài không có hóa đơn và tiền thuê taxi, với tổng số tiền là 2.900.000đ. Và việc ông C đánh ông T lầm ông T mất 03 cái răng giả, phải đi làm lại mất (có hóa đơn) là 10.000.000,đ. Tòa án sơ thẩm chỉ chấp nhận 5.000.000,đ là không đảm bảo quyền lợi cho chúng tôi, chúng tôi đề nghị HĐXX xem xét buộc ông C bồi thường chi phí làm răng giả thêm 5.000.000,đ và tiền mua thuốc, chụp chiếu, siêu âm, thuê taxi là 2.900.000đ.

* Ý kiến tranh luận của nguyên đơn Lò Văn T:

Tôi nhất trí với ý kiến và đề nghị của Lò Văn Ch.

* Ý kiến tranh luận của bị đơn: không nhất trí với ý kiến của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát:

- Về tố tụng: Trong quá trình uống rượu, ông C và ông T có xích mích, và ông C có đánh ông T dẫn đến ông T phải nhập viện. Ông T có đơn yêu cầu ông C bồi thường thiệt hại, Tòa sơ thẩm xác định vụ án đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là đúng pháp luật. Trong quá trình thực hiện tố tụng của Tòa phúc thẩm đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

- Về quan điểm vụ án: Việc ông C đánh ông T khiến ông T mất 3 chiếc răng giả và phải đi làm lại 3 chiếc răng giả mất 10.000.000đ (có hóa đơn). Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm chỉ buộc ông C bồi thường 5.000.000,đ không có căn cứ, không đảm bảo quyền lợi cho ông T, mà cần buộc phải bồi thường toàn bộ chi phí thực tế làm răng giả của ông T là 10.000.000đ. Đối với công người chăm sóc, nhận thấy ông T chỉ chấn thương phần mền, không cần thiết phải có hai người chăm sóc, mà chỉ cần một người chăm sóc là hợp lý, do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông T. Còn số tiền chụp chiếu, siêu âm, mua thuốc bên ngoài không có hóa đơn, không có cơ sở xem xét, do đó không có căn cứ chấp nhận. Từ đó, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận một phần kháng cáo của ông T về yêu cầu buộc ông C bồi thường tiền làm răng là 10.000.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Lò Văn T, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lò Văn Ch thấy rằng:

[2] Về chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi thường phục hồi sức khỏe về chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại: Cấp sơ thẩm đã tiến hành xác minh tại Bệnh viện Quân y 6 và Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La tổng chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc của ông T là 1.039.000,đ (một triệu không trăm ba mươi chín nghìn đồng). Ngoài ra, ông T không xuất trình được thêm các căn cứ chứng minh khác nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của ông T đòi cầu bồi thường số tiền thuốc mua ngoài, không xuất trình được hóa đơn là: 2.900.000,đ (một triệu một trăm nghìn đồng).

[3] Về chi phí lắp răng giả: Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông C phải có trách nhiệm bồi thường một phần tiền chi phí làm răng giả cho ông T số tiền là 5.000.000,đ (năm triệu đồng) do 03 chiếc răng giả của ông T bị rơi mất với lý do thời gian lắp răng đã lâu, giá trị sử dụng như ban đầu không còn là không hợp lý bởi lẽ nguyên nhân dẫn đến việc ông T lắp lại răng giả do xô xát với ông C làm rơi mất 03 chiếc răng giả. Tại biên bản xác minh ngày 8/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La tại phòng khám nha khoa Trung Hậu thì tổng chi phí điều trị của ông T là 10.000.000đ, ông T đã được thực hiện mài chỉnh lấy mẫu hai răng bên cạnh và lắp 03 răng cửa ở giữa tổng cộng 5 răng. Xét thấy việc điều trị của ông T là hợp lý để khôi phục lại tình trạng ban đầu nên cần buộc ông C phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ tiền chi phí làm răng giả cho ông T số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

[4] Về chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm: Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông C phải bồi thường phần chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị tổng cộng 1.000.000đ dựa trên tình hình thực tế của địa phương; khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm 4.000.000đ, căn cứ theo mục II.1.1.5 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, ngày 08/7/2006 Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

Từ sự phân tích trên, chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Lò Văn T, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Lò Văn Ch, sửa bản án sơ thẩm

[5] Về án phí: Ông Quàng Văn C phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với phần yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận. Ông Lò Văn T không phải chiu tiền án phí dân sự sơ thẩm và tiền án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của ông Lò Văn T, Lò Văn Ch; sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 36/2017/DS- ST ngày 26/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La như sau:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lò Văn T.

Buộc ông Quàng Văn C phải bồi thường cho ông Lò Văn T số tiền 16.039.000,đ (mười sáu triệu không trăm ba mươi chín nghìn đồng).

Trong đó: Chi phí khám chữa bệnh, tiền thuốc tại Bệnh viện Quân Y 6 và Bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La: 1.039.000,đ (một triệu không trăm ba mươi chín nghìn đồng); Chi phí làm răng giả: 10.000.000,đ (mười triệu đồng); Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc: 600.000,đ (sáu trăm nghìn đồng); Chi phí tàu xe, đi lại: 400.000,đ (bốn trăm nghìn đồng); Tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm phạm: 4.000.000,đ (bốn triệu đồng).

2. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường số tiền còn lại là 5.287.400,đ (năm triệu hai trăm tám mươi bảy nghìn bốn trăm đồng) của ông Lò Văn T.

3. Về án phí: Ông Quàng Văn C phải chịu 802.000,đ (tám trăm linh hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Ông Lò Văn T không phải chịu án dân sự sơ thẩm và án phí dân sự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Bản dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 03/8/2017).

Tải về
Bản án số 23/2017/DS-PT Bản án số 23/2017/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất