Bản án số 464/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Long An về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 464/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 464/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 464/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 464/2024/DS-PT ngày 18/11/2024 của TAND tỉnh Long An về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Long An |
Số hiệu: | 464/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Phạm Văn P “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” ông Trần Quang T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
Bản án số: 464/2024/DS-PT
Ngày: 18-11-2024
V/v “Tranh chấp bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Thu
Bà Lê Thị Bích Tuyền
Bà Nguyễn Thị Mỹ Hạnh
- Thư ký phiên toà: Ông Trương Khánh Nam – Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Long An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Ông
Huỳnh Phạm Khánh - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 374/2024/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm
2024 về “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 19 tháng 6 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Tân An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 395/2024/QĐ-PT ngày
11 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phạm Văn P, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Số 25/101B, Phường 12, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn:
1. Ông Trần Quang T, sinh năm 1971;
Địa chỉ: C4-18-08 lô C, khu căn hộ T, Phường 11, Quận Y, Thành phố Hồ
Chí Minh.
2. Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1980;
ĐKTT: Căn hộ B19-20 Chung cư D, Phường 16, Quận X, Thành phố Hồ
Chí Minh.
Địa chỉ liên lạc: số 909 Ấp 8, xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng Hồ Thị
Hồng L;
Địa chỉ: Số 28L, Phường 2, thành phố T, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Ông Phạm Văn P - Nguyên đơn.
(Ông P có mặt; các đương sự còn lại vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông
Phạm Văn P trình bày:
Ngày 28-12-2020, ông P tập sự công chứng viên tại Văn phòng công chứng
Hồ Thị Hồng L, theo thông báo tập sự hành nghề công chứng số 4283/STP-
TTBT của Sở Tư pháp tỉnh Long An, người hướng dẫn tập sự là công chứng viên
Trần Quang T, trưởng Văn phòng công chứng Hồ Thị Hồng L. Ông Nguyễn Văn
N làm việc tại Văn phòng công chứng. Ngày 13-5-2021, ông N hỏi ông P về sự
khác nhau giữa hợp đồng ủy quyền và giấy ủy quyền, ông N không đồng ý với ý
kiến ông P nên cả hai lớn tiếng. Ngày hôm sau, ông T gọi ông N, ông P và bà L
đến phòng làm việc của trưởng văn phòng để hỏi nội dung sự việc. Ông T không
đồng ý với ý kiến của ông, ông N dùng tay đập bàn và chỉ tay vào mặt dùng lời
xúc phạm ông P. Ông T nắm cổ áo lôi kéo ông P ra khỏi Văn phòng công chứng,
đuổi không cho ông P vào tập sự. Sau đó ông P không đến Văn phòng tập sự mà
gửi đơn phản ánh lên Sở Tư pháp tỉnh Long An và Hội chứng viên tỉnh Long An
để giải quyết sự việc ông N hướng dẫn tập sự sai, ông T và ông N vi phạm đạo
đức hành nghề công chứng, xúc phạm ông P. Do tình hình dịch Covid nên ngày
09-5-2022 ông P có đơn thay đổi nơi tập sự hành nghề công chứng gửi Sở Tư
pháp tỉnh Long An và gửi Văn phòng công chứng Hồ Thị Hồng L. Ông T đã kéo
dài việc xác nhận kết quả tập sự công chứng viên của ông P (hơn 02 tháng), nên
Sở Tư pháp TP. Hồ Chí Minh yêu cầu ông P phải bắt đầu lại việc tập sự công
chứng viên tại chỗ mới. Ngày 01-7-2022 thì ông T xác nhận kết quả thôi tập sự
công chứng viên của ông P tại Văn phòng công chứng Hồ Thị Hồng L là 07
tháng. Nay ông P khởi kiện yêu cầu ông T phải bồi thường thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín của ông P đã bị ông T xâm phạm, với mức bồi thường 10
tháng lương, số tiền là 46.800.000 đồng (10 tháng x 4.680.000 đồng). Buộc ông
T phải trả chi phí ông P tập sự tại Văn phòng công chứng Hồ Thị Hồng L là
200.000.000 đồng (10 tháng x 20.000.000 đồng). Buộc ông T phải bồi thường
các khoản thiệt hại do ông đã mất công sức, thuê xe, phải nghỉ làm để đi nộp đơn
tố cáo và đơn khởi kiện ông T tại cơ quan chức năng với số tiền tạm tính là
15.000.000 đồng. Ông T công khai xin lỗi tại nơi ông cư trú. Đối với ông Nguyễn
Văn N, yêu cầu ông N bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị ông
N xâm phạm với mức bồi thường 93.600.000 đồng (10 tháng x 2 x 4.680.000
đồng).
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, ông P thay đổi yêu
cầu khởi kiện đối với ông T là yêu cầu ông T phải bồi thường thiệt hại do danh
dự, nhân phẩm, uy tín của ông P đã bị ông T xâm phạm, với mức bồi thường 10
3
tháng lương cơ sở, số tiền là 18.000.000 đồng. Yêu cầu ông T trả chi phí tập sự là
07 tháng với số tiền 140.000.000. Ông T công khai xin lỗi tại nơi ông P cư trú.
Đối với ông N là yêu cầu ông N phải bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín của ông P đã bị ông N xâm phạm, với mức bồi thường 10 tháng
lương cơ sở, số tiền là 18.000.000đồng. Ông N công khai xin lỗi tại nơi ông P cư
trú. Ông P đã rút lại yêu cầu buộc ông T phải bồi thường các khoản chi phí đi lại
thuê xe, số tiền là 15.000.000 đồng.
Bị đơn ông Trần Quang T trình bày:
Ông thừa nhận ông P có đến tập sự công chứng viên tại Văn phòng công
chứng Hồ Thị Hồng L, lúc này ông là công chứng viên trưởng văn phòng và là
người hướng dẫn tập sự ông P, bà Hồ Thị Hồng L là công chứng viên nên phụ
trách việc công chứng tại văn phòng. Trong suốt thời gian tập sự thì ông có thấy
ông P đến văn phòng một vài lần, nhưng ngồi ở dãy ghế khách hàng. Vào tháng
5/2021, ông N và ông P có trao đổi về nghiệp vụ công chứng tại văn phòng, ông
không trực tiếp chứng kiến. Ngày hôm sau ông T mời mọi người lên phòng làm
việc, thấy ông P tranh luận có thái độ khiêu khích, nên ông yêu cầu ông P ra khỏi
văn phòng vì đang trong giờ làm việc, không được nói chuyện lớn tiếng. Ông xác
định ông và ông N không có hành vi la, chửi mắng, xúc phạm ông P, ông N
không có chỉ tay vào mặt ông P, không có ai nắm cổ áo ông P lôi kéo ông P ra
khỏi văn phòng công chứng. Ông không có đuổi, ngăn cản việc ông P đến tập sự.
Tại phòng làm việc riêng của ông không có camera hoặc thiết bị ghi âm nào
khác. Ngày 09-5-2022, ông P có đơn thay đổi nơi tập sự. Ông P có gửi báo cáo
kết quả tập sự để ông xác nhận, nhưng lần đầu gửi báo cáo ghi sai tên người tập
sự, sai chính tả, nên ông gọi điện thoại kêu ông P sửa lại. Việc ông xác nhận kết
quả tập sự của ông P là đúng theo quy định. Ông không đồng ý với toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của ông P.
Bị đơn ông Nguyễn Văn N vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An và Tòa án nhân dân quận
Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện việc tống đạt hợp lệ trực tiếp các
văn bản tố tụng nhưng ông N không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu
khởi kiện của ông P.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Văn phòng công chứng Hồ Thị Hồng L do bà Hồ Thị Hồng L trưởng văn
phòng công chứng vắng mặt nhưng có văn bản thể hiện ý kiến:
Bà thừa nhận ông P có đến Văn phòng của bà để tập sự công chứng viên,
thời điểm này ông Trần Văn T là trưởng văn phòng công chứng, còn bà là công
chứng viên. Bà có giới thiệu với ông P các anh em làm việc tại Văn phòng công
chứng, ông Nguyễn Văn N là chuyên viên. Ngày 13-5-2021 ông N có hỏi ông P
về nghiệp vụ công chứng liên quan đến giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền.
Ông N không đồng ý với ý kiến của ông P nên dẫn trích điều luật nhưng ông P
không thống nhất với quan điểm của ông N nên bỏ về. Ngày sau ông T gọi tất cả
đến phòng làm việc riêng của ông T trên lầu để nghe các bên tường thuật lại. Bà
4
xác định sự việc giữa ông N với ông P và việc ông T mời các bên vào phòng làm
việc chỉ là các bên trao đổi nghiệp vụ công chứng, mang tính chất trao đổi chuyên
môn nội bộ tại nơi làm việc, không có sự việc ông N và ông T xúc phạm, chửi
mắng gây mất uy tín nhân phẩm của ông P. Sự việc này xảy ra tại phòng làm việc
riêng của trưởng văn phòng nên không có gắn camera và người không có phận sự
không được tự ý vào, không có việc ông P cho rằng ông T nắm cổ áo lôi kéo đuổi
ông P ra khỏi văn phòng công chứng không cho ông đến tập sự dưới sự chứng
kiến của các khách hàng. Bà trực tiếp chứng kiến nên có khuyên can ông P bỏ
qua đừng tranh cãi, do đến giờ nghỉ trưa mà ông P tiếp tục lớn tiếng nên ông N có
đập bàn nói “anh có thôi không”. Bà xác định ông T xác nhận kết quả tập sự của
ông P tại lúc đầu là không hoàn thành, là đúng vì giờ giấc đến tập sự của ông P
không đều, mỗi tháng đến tập sự có 01 lần. Do ông P gửi đơn phản ánh, đơn
khiếu nại đến Sở Tư pháp tỉnh Long An nên bên Sở Tư pháp vận động các bên bỏ
qua để xác nhận kết quả tập sự tốt cho ông P. Bà không đồng ý với yêu cầu khởi
kiện của ông P.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 19 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tân An quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 40; Điều 147; Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 584; Điều 585, Điều 586, Điều 592 và Khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, T2,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn P về việc
yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xúc phạm, danh dự, nhân phẩm
đối với ông Trần Quang T và ông Nguyễn Văn N.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn P về việc yêu cầu
ông Trần Quang T thanh toán chi phí tập sự là 140.000.000đồng.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu buộc ông Trần Quang T phải bồi thường các
khoản thiệt hại cho ông Phạm Văn P bị mất do nộp đơn tố cáo và đơn khởi kiện
tại cơ quan chức năng với số tiền là 15.000.000 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 24-6-2024, nguyên đơn ông Phạm Văn P kháng cáo yêu cầu xét xử
phúc thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải
quyết vụ án.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm:
5
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng và các đương
sự tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Đơn kháng cáo của
ông P trong thời hạn luật quy định và hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét theo trình tự
phúc thẩm.
Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Ngày 28-12-2020 ông P tập sự tại Văn
phòng công chứng Hồ Thị Hồng L. Ông P cho rằng ông N và ông T có hành vi
xúc phạm đến danh dự, uy tín của ông, nên ông yêu cầu ông N và ông T bồi
thường thiệt hại nhưng không có chứng cứ chứng minh. Các biên bản xác minh
các nhân viên của phòng công chứng đều thể hiện ông N và ông T không có hành
vi xúc phạm đến danh dự, uy tín của ông P. Ông P còn yêu cầu ông T trả chi phí
tập sự là 07 tháng với số tiền 140.000.000 đồng nhưng không có chứng cứ chứng
minh. Theo Công văn số 26/CV.BCH ngày 28-6-2022, Quyết định số 24/QĐ-
BCH ngày 30-06-2022 của Hội công chứng viên tỉnh Long An đã xác định hành
vi của ông T không có vi phạm đạo đức hành nghề công chứng. Việc chậm xác
nhận kết quả tập sự cho ông P là do nguyên nhân khách quan. Do đó, đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Phạm Văn P đúng theo quy định tại
các điều 272, 273 và 276 Bộ luật Tố tụng Dân sự nên được xem xét theo trình tự
phúc thẩm. Ông P kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo hướng chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[2] Bị đơn ông Trần Quang T, ông Nguyễn Văn N và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Hồ Thị Hồng L có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 296
Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[3] Nguyên đơn ông Phạm Văn P khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng với ông Trần Quang T và Nguyễn Văn N, sự việc xảy ra tại Văn
phòng công chứng Hồ Thị Hồng L có địa chỉ tại thành phố Tân An. Tòa án nhân
dân thành phố Tân An thụ lý giải quyết theo trình tự sơ thẩm là đúng thẩm quyền
theo quy định tại khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm d khoản 1 Điều
40 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[4] Thấy rằng, ngày 28-12-2020, ông P tập sự công chứng viên tại Văn
phòng công chứng Hồ Thị Hồng L, theo thông báo tập sự hành nghề công chứng
số 4283/STP-TTBT của Sở Tư pháp tỉnh Long An, người hướng dẫn tập sự là
công chứng viên Trần Quang T.
[5] Ông P cho rằng ngày 13-5-2021 ông Nguyễn Văn N hỏi ông P về việc
công chứng liên quan đến giấy ủy quyền và hợp đồng ủy quyền. Ông N không
đồng ý với ý kiến của ông P nên hai bên lớn tiếng. Ngày hôm sau, các bên đến
phòng làm việc của ông T thì ông N có hành vi đập bàn, dùng lời lẽ xúc phạm
ông P, ông T viết giấy ngừng tập sự, buộc ông P ký tên, ông P không ký thì ông T
nắm cổ áo kéo ông P ra ngoài không cho ông P tập sự. Do đó, ông N và ông T đã
xúc phạm danh, dự nhân phẩm của ông P.
6
[6] Ông N và ông T không thừa nhận lời trình bày của ông P. Tại phiên tòa,
ông P xác định sự việc xảy ra ông P không cung cấp được chứng cứ như ghi âm,
ghi hình hoặc người làm chứng để chứng minh ông N, ông T có lời lẽ, hành vi
xúc phạm danh, dự nhân phẩm, uy tín của ông P. Mặt khác, tại Công văn số
26/CV.BCH ngày 28-6-2022, Quyết định số 24/QĐ-BCH ngày 30-06-2022 của
Hội công chứng viên tỉnh Long An đã xác định hành vi của ông T không có vi
phạm đạo đức hành nghề công chứng, ông N không phải là công chứng viên. Ông
N, ông T chưa bị cơ quan chức năng nào lập biên bản làm việc về việc đã dùng
lời lẽ hoặc có hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm của ông P.
[7] Đối với khởi kiện của ông P yêu cầu ông T trả chi phí ông P tập sự tại
Văn phòng công chứng Hồ Thị Hồng L là 07 tháng với số tiền 140.000.000 đồng.
Ông Phạm Văn P được tập sự công chứng viên tại Văn phòng công chứng Hồ Thị
Hồng L là do Sở Tư pháp tỉnh Long An ghi tên vào danh sách tập sự hành nghề
công chứng dựa trên nguyện vọng của ông P. Thời gian tập sự công chứng viên là
theo quy định Luật công chứng. Ông P cho rằng ông T xác nhận kết quả tập sự
trễ nên ông P không chuyển kết quả tập sự công chứng đến Sở Tư pháp Thành
phố Hồ Chí Minh mà phải đăng ký tập sự công chứng viên lại từ đầu. Theo quy
định khoản 5 Điều 11 Luật công chứng khi ông P có đơn thay đổi nơi tập sự thì
ông P gửi báo cáo tập sự để công chứng viên Trần Quang T xác nhận, sau đó Sở
Tư pháp tỉnh Long An có xác nhận đồng ý cho ông P thay đổi nơi tập sự hành
nghề công chứng theo đề nghị của ông P.
[8] Tại thời điểm này, dịch Covid bùng phát do đó việc ông P gửi văn bản
để xác nhận kết quả tập sự kéo dài là do nhiều nguyên nhân khách quan chứ
không do lỗi của ông T. Trong thời gian chờ ông T xác nhận kết quả tập sự thì
trước đó ông P đã làm đơn tố cáo ông T nên hai bên xảy ra tranh cãi về việc xác
nhận kết quả tập sự. Theo quy định của Luật công chứng năm 2018 không có quy
định người tập sự được hưởng lương. Tại phiên tòa ông P thừa nhận khi tập sự tại
văn phòng công chứng thì ông không có đi làm tại nơi nào khác. Ông P không
chứng minh được việc ông P đã bị mất thu nhập thực tế bao nhiêu trong 07 tháng
tập sự tại văn phòng công chứng. Ông P chỉ cung cấp thu nhập của ông trước khi
tập sự. Vì vậy yêu cầu khởi kiện này của ông P không có căn cứ chấp nhận.
[9] Xét thấy, việc ông P yêu cầu: giám định đoạn ghi âm ông T điện thoại
cho ông gây áp lực yêu cầu ông rút toàn bộ đơn tố cáo; trưng cầu giám định tin
nhắn giữa ông và ông T, giữa ông và bà L; trưng cầu giám định chữ ký của công
chứng viên và con dấu Văn phòng Công Chứng Hồ Thị Hồng L trên giấy xác
nhận kết quả tập sự hành nghề công chứng là không cần thiết; việc yêu cầu đối
chất giữa các đương sự là không thực hiện được vì các đương sự như ông T, ông
N và bà L đều có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng
nên không thể tiến hành đối chất và xác định tiếng nói của đương sự.
[10] Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của ông Phạm Văn P về việc yêu cầu ông T phải bồi thường thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm bị xâm phạm với số tiền là 18.000.000 đồng; yêu cầu ông T trả chi
phí tập sự là 07 tháng với số tiền 140.000.000 đồng; ông T công khai xin lỗi tại
7
nơi ông P cư trú; yêu cầu ông N phải bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm với số tiền 18.000.000 đồng; ông N công khai xin lỗi
tại nơi ông P cư trú là có căn cứ.
[11] Ông P kháng cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm theo hướng chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của ông là không có căn cứ chấp nhận, cần giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
[12] Tuy nhiên, bản án sơ thẩm quyết định không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông Phạm Văn P về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do
xúc phạm, danh dự, nhân phẩm đối với ông Trần Quang T và ông Nguyễn Văn N
là chưa cụ thể hóa yêu cầu khởi kiện của đương sự nên cần bổ sung cho đầy đủ.
[13] Phát biểu của Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông
P là có căn cứ.
[14] Về án phí dân sự phúc thẩm:
Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên ông P phải chịu 300.000 đồng án phí dân
sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn P;
Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 61/2024/DS-ST ngày 19 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tân An;
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 40; Điều 147; Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Áp dụng Điều 584; Điều 585, Điều 586, Điều 592 và khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-
12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, T2,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn P đối với
các yêu cầu sau: yêu cầu ông T phải bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm
bị xâm phạm với số tiền là 18.000.000 đồng; yêu cầu ông T trả chi phí tập sự là
07 tháng với số tiền 140.000.000 đồng; ông T công khai xin lỗi tại nơi ông P cư
trú; yêu cầu ông N phải bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị
xâm phạm với số tiền 18.000.000 đồng; ông N công khai xin lỗi tại nơi ông P cư
trú.
Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu buộc ông Trần Quang T phải bồi thường các
khoản thiệt hại cho ông Phạm Văn P bị mất do nộp đơn tố cáo và đơn khởi kiện
tại cơ quan chức năng với số tiền là 15.000.000 đồng.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
8
Ông Phạm Văn P phải chịu án phí 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng), nhưng
được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí đã đóng 5.375.000 đồng theo biên lai thu số
0002155 ngày 03-3-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tân An, tỉnh
Long An. Ông Phạm Văn P còn phải chịu 1.625.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về án phí dân sự phúc thẩm:
Ông Phạm Văn P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Khấu
trừ số tiền 300.000 đồng tạm án phí phúc thẩm theo biên lai số 0000566 ngày 11-
7-2024 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Tân An để thi hành án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi
hành án Dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án
Dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Tp Hồ Chí Minh;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND thành phố Tân An;
- Chi cục THADS thành phố Tân An;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Thu
9
Tải về
Bản án số 464/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 464/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm