Bản án số 28/2024/DS-ST ngày 23/09/2024 của TAND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 28/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 28/2024/DS-ST ngày 23/09/2024 của TAND huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Quan hệ pháp luật: Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Sơn Động (TAND tỉnh Bắc Giang)
Số hiệu: 28/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Gia đình ông M, bà N có 01 lô đất lâm nghiệp, diện tích 2ha thuộc lô 35, khoảnh 3, thôn C, xã C, huyện S đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2014, gia đình ông M đã cho Công ty C thuê đất để làm nhà xưởng chế biến lâm sản, thời hạn thuê từ tháng 6 năm 2014 đến ngày 03 tháng 6 năm 2026, hai bên có lập hợp đồng ký kết với nhau, giá thuê do hai bên thỏa thuận. Tuy nhiên, đến năm 2021, phía Công ty C không làm ăn nữa nên đến ngày 06/02/2023 hai bên cùng nhau thỏa thuận ký kết thanh lý hợp đồng và có xác nhận của xã C. Bên Công ty 1945 đã trả lại toàn bộ diện tích đất đã thuê cho gia đình ông M và thanh lý tài sản không có vướng mắc gì. Quá trình thuê đất kinh doanh đến ngày 28/4/2019 Công ty C và Công ty Q có ký kết hợp đồng thuê lại mặt bằng và nhà xưởng, thời gian thuê từ ngày 28/4/2019 đến ngày 03/6/2026, giá thuê và thời hạn thuê theo thoả thuận; quá trình hai bên ký kết hợp đồng gia đình ông M không biết. Sau khi ký kết hợp đồng và bàn giao đất, nhà xưởng Công ty Q đã tiếp tục thực hiện chế biến lâm sản. Do công ty Q không tiếp tục nộp tiền thuê đất từ tháng 5/2021 nên Công ty C đã dừng cho thuê đất, nhà Xưởng với Công ty Q. Gia đình ông M, bà N đã nhiều lần yêu cầu Công ty Q phải tháo dỡ, di dời toàn bộ nhà xưởng và tài sản trên đất để trả lại đất cho gia đình ông M, bà N quản lý, sử dụng nhưng Công ty Q không thực hiện. Nguyên đơn Công ty Q cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẮC GIANG
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án: 28 /2024/DS - ST
Ngày 20/ 9 / 2024
V/v “Tranh chấp bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN ĐỘNG – TỈNH BẮC GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên t: Ông Trần Văn Toàn;
Các Hội thẩm nhân dân : 1. Ông Nguyễn Ngọc Ngát;
2. Bà Hoàng Thị Chung;
- Thư ký ghi biên bản phiên toà: Bà Hoàng Thị Trang Thư ký Toà án nhân dân
huyện Sơn Động.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Động tham gia phiên toà: Ông
Vương Văn Phong - Kiểm sát viên sơ cấp.
Trong ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh
Bắc Giang xét xử thẩm công khai vụ án thụ số 07/2024/TLST-DS, ngày 02
tháng 02 năm 2024 về việc “Tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, yêu
cầu tháo dỡ di dời tài sản trên đất”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét x số
27/2024/QĐXX- ST ngày 15 tháng 7 m 2024, Quyết định hoãn phiên tòa s
30/2024/QĐHPT- ST ngày 14 tháng 8 m 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số
38/2024/QĐHPT- ST ngày 11 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty cổ phần Q; Địa chỉ: L An Khang V, khu đô thị D,
phường L, quận H, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị
Mai T Chức danh: Nhân viên công ty; Ông Nguyễn Văn B Luật Văn phòng
Công ty L (vắng mặt);
- B đơn: Ông Nông Văn M, sinh năm 1959; bà Thị N, sinh năm 1959; Địa ch:
Thôn C, xã C, huyện S, tỉnh Bắc Giang (có mặt);
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông M, N: Luật Nguyễn
Duy T1 Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh B (có mặt);
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH một thành viên
C; Địa chỉ: Thôn C, C, huyện S, tỉnh Bắc Giang; Người đại diện theo pháp luật
ông Nguyễn Đức H Chức vụ: Giám Đốc; Địa chỉ cư trú: Thôn H, L, huyện V,
tỉnh Hưng Yên (có đơn xin vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1] Trong đơn khởi kiện, những lời khai tiếp theo có trong hồ sơ đại diện
nguyên đơn Công ty cổ phần Q trình bày:
2
Ngày 28/04/2019, Công ty TNHH MTV C (gọi tắt Công ty C) đã kết
Hợp đồng hợp tác kinh doanh với Công ty cổ phần Q (gọi tắt là Công ty Q) với nội
dung: Hai bên nhất trí cùng nhau hợp tác kinh doanh, chế biến lâm sản, dịch vụ vận
tải, hợp tác đầu thành lập nhà máy sản xuất chế biến lâm sản tại địa điểm Công
ty C đã được UBND huyện S chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng điểm thu mua,
chế thô gỗ rừng trồng theo Văn bản số 64/UBND-KT, ngày 09/07/2014, xưởng
sản xuất tại đất số 35, khoảnh C, thôn C, C, huyện S, tỉnh Bắc Giang, trong
thời hạn 12 năm (đến năm 2026).
Thực hiện thoả thuận tại Hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 28/04/2019 với
Công ty C, Công ty Q đã đầu hàng chục t đồng đxây dựng 02 nhà xưởng
diện tích 10.000m
2
, nhiều gian nhà văn phòng mua sắm các trang thiết bị, máy
móc…để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh...Theo hợp đồng này, ngoài việc
góp vốn bằng tiền mặt, Công ty TNHH Một thành viên C còn góp vốn với Công ty
Q bằng quyền thuê diện tích đất 16.000m
2
tại lô 35, khoảnh C, thôn C, xã C, huyện
S, tỉnh Bắc Giang để xây dựng nhà xưởng sản xuất chế biến gỗ rừng trồng, sản xuất
viên nén.
Ngày 28/08/2022, Công ty Q và Công ty TNHH H2 ký kết Hợp đồng liên kết
kinh doanh số 08/HPBG với nội dung hợp tác cùng sản xuất viên nén tại các nhà
xưởng nằm trên diện tích 16.000m
2
35, khoảnh 3, m C, C, huyện S, tỉnh
Bắc Giang. Trong đó, Công ty TNHH H2 cam kết lợi nhuận đã chi trả hàng tháng
cho Công ty Q là 250.000.000 đồng/tháng.
Tuy nhiên, thời gian trước khi Công ty Q gửi đơn khởi kiện, gia đình ông
Nông n M liên tục những hành vi vi phạm pháp luật, gây khó khăn, cản trở
hoạt động kinh doanh của Công ty Q các đơn vị cùng hợp tác, dụ như: Ông
Nông Văn M Vũ Thị N yêu cầu Công ty TNHH H2, hoàn trả mặt bằng tại
C, khoảnh 3, xóm C, xã C, huyện S, tỉnh Bắc Giang. Đồng thời gia đình ông M dẫn
người đem theo xe ba gác, cưa máy, dao đến chặt phá, huỷ hoại tài sản, nhà xưởng
của Công ty Q. Thậm chí, không dừng lại ở đó, vợ chồng ông M, bà N còn cho thuê
xe đổ đất chặn lối đi duy nhất vào nhà xưởng của Công ty Q.
Bởi hành vi quấy rối của ông M, N nên mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty Q bị đình trệ, không thể thực hiện, các đơn hàng đều bị chậm.
Đồng thời, Công ty TNHH H2 đã yêu cầu chấm dứt Hợp đồng liên kết kinh doanh
số 08/HPBG ngày 22/08/2022 với Công ty Q, dẫn đến việc Đơn vị Hưng P bị
thiệt hại rất lớn về kinh tế cũng như uy tín trên thương trường. Hậu quả 02 nhà
xưởng có diện tích gần 10.000m
2
của ng ty Q hàng chục, hàng trăm người lao
động với hoạt động sản xuất kinh doanh đã diễn ra đều đặn thì đến nay phải cho
người lao động nghỉ toàn bộ, thanh lý tài sản.
vậy, để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Công ty Q u cầu
Toà xem xét giải quyết: Buộc ông Nông Văn M Thị N phải bồi thường
thiệt hại cho Công ty Q số tiền 750.000.000 đồng, tương đương với 03 tháng lợi
nhuận hoạt động khi còn hợp tác với Công ty TNHH H2 (kể từ ngày 01/09/2023 đến
ngày 31/11/2023).
3
Đối với yêu cầu phản tố của Thị N yêu cầu Công ty Q di dời tài sản
trên đất như Nhà xưởng diện tích 3.646m
2
, 01 nhà cấp 04 tường gạch lợp tôn; 02
phễu trút mùn; 02 hộp đóng diện; 01 trạm biến áp điện 2000KVA-35/0,4KV
để trả
lại đất cho gia đình ông M, N quản lý, sử dụng thì Công ty Q không đồng ý;
nội dung phản tkhông liên quan đến nội dung khởi kiện của Công ty Q cũng
không bù trừ nghĩa vụ đối với yêu cầu khởi kiện nên không thể xác định là yêu cầu
phản tố được nên không chấp nhận. Ngoài ra Công ty không có yêu cầu gì khác.
[2] Trong đơn yêu cầu phản tố, những lời khai tiếp theo có trong hồ sơ và ti
phiên tòa bị đơn ông M, bà N trình bày:
Gia đình ông 01 đất lâm nghiệp, diện tích 2ha thuộc 35, khoảnh
3, thôn C, C, huyện S đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Năm 2014 Công ty 1945 nhu cầu thuê đất để làm nhà xưởng chế biến
lâm sản. Do đó, gia đình chúng ông cho thuê từ tháng 6 năm 2014 đến ngày 03
tháng 6 năm 2026 theo như hợp đồng kết. Tuy nhiên, đến năm 2021 do phía Công
ty C không làm ăn nữa nên đến ngày 06/02/2023 hai bên cùng nhau thỏa thuận
kết thanh lý hợp đồng và có xác nhận của C. Bên ng ty 1945 đã trả lại toàn b
diện tích đất đã thuê cho gia đình ông bà; tài sản trên đất của Công ty C gồm 01 nhà
xưởng, 01 nhà điều hành, 01 nbảo vệ, 01 bàn cân, 01 cổng sắt và 1 stài sản khác
để lại cho gia đình ông bà quản lý, sử dụng; gia đình ông bà đã trả thanh toán giá trị
trả bằng tiền cho ng ty C là 800.000.000đ. Gia đình ông bà đã quản lý tài sản của
Công ty C từ đó cho đến nay không vướng mắc gì. Quá trình gia đình nhận đất
và tài sản do Công ty C bàn giao ông bà không biết việc Công ty C kết hợp đồng
hợp tác với Phía Công ty Q nên gia đình không nắm được.
Ngoài tài sản của Công ty C đã bán cho gia đình ông thì trên đất của gia
đình còn 01 nhà xưởng chế biến lâm sản làm viên lén của Công ty Q diện tích
3.646m
2
, 01 nhà cấp 04 tường gạch lợp tôn, 02 phễu trút mùn, 02 hộp đóng diện, 01
trạm biến áp điện 2000KVA-35/0,4KV. Gia đình chúng ông bà đã nhiều lần yêu cầu
Công ty Q phải tháo dỡ, di dời toàn bộ nhà xưởng tài sản trên đất để trả lại đất
cho gia đình ông bà quản lý, sử dụng nhưng Công ty Q không thực hiện.
Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty Q yêu cầu gia đình ông phải bồi
thường thiệt hại cho Công ty số tiền là 750.000.000đ, ông bà không chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty H3 đưa ra. Ngoài ra ông yêu cầu ng ty Q
phải tháo dỡ, di dời toàn bộ 01 nhà xưởng diện tích 3.646m
2
, 01 nhà cấp 04 tường
gạch lợp tôn, 02 phễu trút mùn, 02 hộp đóng diện, 01 trạm biến áp điện 2000KVA-
35/0,4KV
để trả lại đất cho gia đình ông bà quản lý, sử dụng. Ngoài ra không có yêu
cầu gì khác.
Người bảo vệ cho bị đơn nhất trí với ý kiến mà ông M, bà N đưa ra.
[3] Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Đức H Chức vụ:
Giám Đốc Công ty TNHH một thành viên C trình bày như sau:
Gia đình ông M, bà N có 01 thửa đất lâm nghiệp, diện tích 02ha, lô 35, khoảnh
3, thôn C, C, huyện S đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử
4
dụng đất. Năm 2014 Công ty 1945 nhu cầu thuê đất để làm nhà xưởng chế biến
lâm sản nên Công ty C cùng gia đình ông M có ký hợp đồng thuê đất, thời hạn thuê
từ tháng 6 năm 2014 đến ngày 03 tháng 6 năm 2026. Tuy nhiên, đến năm 2021 do
làm ăn khó khăn nên phía Công ty C không kinh doanh nữa, ngày 06/02/2023 Công
ty C với gia đình ông M, bà N cùng nhau thỏa thuận ký kết thanh lý hợp đồng và có
xác nhận của xã C. Bên Công ty C trả lại toàn bộ diện tích đất đã thuê cho gia đình
ông M, bà N; tài sản trên đất của Công ty C có 01 nhà xưởng, 01 nhà điều hành, 01
nhà bảo vệ, 01 bốt điện, 01 bàn cân, 01 cổng sắt và 1 số tài sản khác để lại cho gia
đình ông M quản lý, sử dụng gia đình ông M đã trả thanh toán giá trị bằng tiền
cho Công ty là 800.000.000đ, quá trình giao đất, tài sản trên đất tiền giữa gia đình
ông M với Công ty 1945 đến nay không có vướng mắc gì. Do Công ty 1945 làm ăn
khó khăn Công ty Q nhu cầu thuê lại đất và nhà xưởng; ngày 28/4/2019 giữa
Công ty C cho Công ty Q ký kết hợp đồng với nhau, công Ty 1945 cho Công ty
Q thuê lại mặt bằng nhà xưởng (01 nhà xưởng diện tích khoảng 2.500m
2
01
nhà xưởng khoảng 300m
2
); thời gian thuê tngày 28/4/2019 đến ngày 03/6/2026,
giá cho thuê là 40.000.000đ/tháng; hình thức thuê là theo năm một, khi nào ng ty
Q nộp tiền cho thuê đất trước hàng năm tng ty C lại gia hạn cho thuê đất,
nhà xưởng. Sau khi ký kết hợp đồng và bàn giao đất, nhà xưởng cho Công ty Q thì
Công ty Q đã tiếp tc thực hiện chế biến lâm sản. Theo như hợp đồng thì Công ty Q
phải trả cho Công ty C tiền thuê 40.000.000đ/tháng, Công ty Q đã trả tiền thuê
đất, nhà xưởng hàng tháng cho Công ty 1945 đến hết tháng 4/2021. Do công ty Q
không tiếp tục nộp tiền thuê đất từ tháng 5/2021 nên Công ty C nhiều lần yêu cầu
Công ty Q nộp nhưng Công ty Q lại ra mọi lý do để chây không nộp. Do đó, Công
ty 1945 đã dừng cho thuê đất, nhà Xưởng với Công ty Q yêu cầu Công ty Q trả
lại đất, nxưởng nhưng họ không trả cố tình vẫn quản lý, sử dụng. Xuất phát
từ Công ty Q không tiếp tục nộp trả tiền thuê đất nhà xưởng, không trả lại đất,
nhà xưởng nên ngày 06/02/2023 giữa Công ty C gia đình ông M đã thanh
hợp đồng thuê đất. Khi Công ty 1945 thanh hợp đồng với gia đình ông M tCông
ty thông báo bằng miệng cho ng ty Q được biết. Sau khi thuê lại đất, nhà
Xưởng tCông ty Q mở rộng làm thêm 01 xưởng sản xuất khoảng 2.000m
2
. Nay
Công ty Q khởi kiện yêu cầu gia đình ông M, bà N phải bồi thường thiệt hại số tiền
là 750.000.000đ và yêu cầu phản tố của bà N, yêu cầu Công Ty Q di dời nhà xường
các tài sản khác trên đất ông đề nghị Tòa án giải quyết ván theo quy định của
pháp luật. Ngoài ra ông không có yêu cầu gì khác.
[4] Kết quả xem xét, thẩm định: 01 nxưởng cột sắt, lợp ngói diện tích
3.646m
2
, 01 nhà tạm cấp 04 tường gạch lợp tôn diện tích 21,2m
2
, 02 phễu trút mùn,
02 hộp đóng diện, 01 trạm biến áp điện 2000KVA-35/0,4KV
Công ty cổ phần Q
nằm trên diện tích đất 02ha, thuộc 35, khoảnh 3, thôn C, xã C, huyện S của gia
đình ông Nông Văn M, bà Vũ Thị N.
[5] Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi mở phiên toà, Thẩm phán, Thư
thực hiện đúng thủ tục tố tụng; tại phiên toà, Hội đồng xét xtiến hành đúng trình
tự, thủ tục của phiên toà sơ thẩm.
5
Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị
ssơn chấp hành đúng quy định của pháp luật quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
Vgiải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng căn cứ vào khoản 6,
14 Điều 26, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, 92 khoản 1 Điều
147 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Điều 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự năm
2015. Điều 12, 166 Luật Đất đai 2013; Khoản 1, 3, 4, 5 Điều 26 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 ca y ban Thường v Quc Hi quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Q yêu
cầu ông Nông Văn m, bà Vũ Thị N phải bồi thường số tiền là 750.000.000đ.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của Thị N; buộc Công ty cổ phần Q phải
tháo dỡ, di dời toàn bộ 01 nhà xưởng cột sắt, lợp tôn diện tích 3.646m
2
, 01 nhà tạm
cấp 04 tường gạch lợp tôn diện tích 21,2m
2
, 02 phễu trút mùn, 02 hộp đóng diện, 01
trạm biến áp điện 2000KVA-35/0,4KV
nằm trên diện tích đất 02ha, thuộc 35,
khoảnh 3, thôn C, xã C, huyện S của gia đình Vũ Thị N.
Về án phí và chi phí tố tụng: Nguyên đơn Công ty cổ phần Q phải chịu
34.300.000đ án phí dân sự sơ thẩm và 1.500.000đ tiền chi phí tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà;
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Công ty cổ phần Q khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân n
huyện Sơn Động giải quyết về bồi thường thiệt hại, ông Nông Văn M, bà Vũ Thị N
hiện đang trú tại huyện S. Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án về “bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tháo dỡ di dời tài sản trên đất” thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động theo quy định tại khoản 6, 14 Điều
26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật T tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Công ty cổ phần Q ngày 11/12/2023 văn bản số ủy quyền
Nguyễn Thị Mai T Chức danh: Nhân viên công ty; Ông Nguyễn Văn B người
đại diện tham gia tố tụng. Các đương sự ủy quyền đúng theo quy định của pháp luật
cần được chấp nhận theo Điều 138 của B luật Dân sự.
Ông Vũ Đức H1 có đơn xin xét xử vắng mặt; do đó, Hội đồng xét xử, xét xử
vắng mặt theo khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Người đại diện của
Công ty Q đơn xin hoãn phiên tòa với lý do “người bảo vệ bận tham gia ở phiên
tòa khác”, tuy nhiên Tòa án đã mở phiên tòa nhiều lần nhưng Công ty Q đều đưa ra
lý do hoãn phiên tòa với lý do trên; xét thấy lý do xin hoãn phiên tòa của Công ty Q
không thuộc trường hợp được hoãn; do đó, Hội đồng xét xử, xét xvắng mặt theo
khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu phản tố của b đơn:
6
Căn cứ vào lời khai của các bên đương sự, tài liệu chứng cứ do các đương s
cung cấp và những tài liệu, chng cứ do Tòa án thu thập được thì có sở xác định:
Gia đình ông M, N 01 đất lâm nghiệp, diện tích 2ha thuộc 35,
khoảnh 3, thôn C, C, huyện S đã được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Năm 2014, gia đình ông M đã cho Công ty C thuê đất để làm
nhà xưởng chế biến lâm sản, thời hạn thuê từ tháng 6 năm 2014 đến ngày 03 tháng
6 năm 2026, hai bên lập hợp đồng kết với nhau, giá thuê do hai n thỏa
thuận. Tuy nhiên, đến năm 2021, phía Công ty C không làm ăn nữa nên đến ngày
06/02/2023 hai bên cùng nhau thỏa thuận ký kết thanh lý hợp đồng có xác nhận
của C. Bên Công ty 1945 đã trả lại toàn bộ diện ch đất đã thuê cho gia đình ông
M và thanh lý tài sản không có vướng mắc gì.
Quá trình thuê đất kinh doanh đến ngày 28/4/2019 Công ty C và Công ty Q có
kết hợp đồng thuê lại mặt bằng và nhà xưởng, thời gian thuê từ ngày 28/4/2019
đến ngày 03/6/2026, giá thuê và thời hạn thuê theo thoả thuận; quá trình hai bên ký
kết hợp đồng gia đình ông M không biết. Sau khi ký kết hợp đồng và bàn giao đất,
nhà xưởng Công ty Q đã tiếp tục thực hiện chế biến lâm sản. Do công ty Q không
tiếp tục nộp tiền thuê đất từ tháng 5/2021 nên Công ty C đã dừng cho thuê đất, nhà
Xưởng với Công ty Q.
Gia đình ông M, N đã nhiều lần yêu cầu Công ty Q phải tháo dỡ, di dời
toàn bộ nhà xưởng tài sản trên đất để trả lại đất cho gia đình ông M, N quản
lý, sử dụng nhưng Công ty Q không thực hiện.
Nguyên đơn Công ty Q cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu khởi kiện: 01 công văn số 64/UBND-KT ngày 09/7/2014 về việc chấp thuận chủ
trương đầu tư của UBND huyện S; 01 Họp hợp tác kinh doanh và biên bản họp góp
cổ phần của CTCP Quốc tế Q với Công ty TNHH Một thành viên C; Hợp đồng liên
kết kinh doanh số 08/HPBG, biên bản thanh lý hợp đồng giữa CTCP Quốc tế Q với
Công ty TNHH H2; Giấy chứng nhận ĐKKD và Điều lệ của Công ty Q; Hợp đồng
ủy quyền và CCCD của người đại diện.
Bị đơn ông M, N cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh: 01 Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp mang tên Nông Văn M; 01 Hợp đồng thuê đất
của gia đình với Công ty C; 01 giấy thanh lý hợp đồng thuê đất; Hợp đồng chuyển
nhượng mặt bằng và nhà xưởng của Công ty C với ông Nông Văn M.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Công ty C cung cấp tài liệu, chứng
cứ để chứng minh: 01 hợp đồng cho thuê lại quyền thuê đất và nhà xưởng.
Ngoài các tài liệu trên các đương sự đã cung cấp để chứng minh ở trên thì các
bên đương sự không còn giao nộp tài liệu, chứng cứ nào khác.
Theo quy định tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự thì nghĩa vụ chứng minh:
“Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu
thập, cung cp, giao nộp cho Tòa án, tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu
đó là có căn cứ và hợp pháp”.
7
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Q: Công ty Q cho rằng ông
M, bà N có hành vi quấy rối nên mi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Q
bị đình trệ, không thể thực hiện, các đơn hàng đều bị chậm; Công ty TNHH H2 đã
chấm dứt Hợp đồng liên kết kinh doanh với Công ty Q, dẫn đến việc Đơn vị Hưng
P bị thiệt hại rất lớn về kinh tế cũng như uy tín trên thương trường. Công ty Q trình
bày như trên nhưng không đưa ra được căn cứ để chứng minh.
Giữa Công ty Q với ông M, bà N không ký kết bất kỳ hợp đồng thuê đất nào,
khi Công ty 1945 không thuê đất kinh doanh nữa thì đã thanh hợp đồng với gia
đình ông M, quá trình thanh Công ty C đã thông báo cho Công ty Q được biết.
Tại Điều 3 phần II Hợp đồng thuê đất giữa Công ty C với gia đình ông M đã thể hiện
bên Công ty C trong quá trình thuê đất không được cho thuê lại, việc Công ty Q
kết hợp đồng với Công ty C thì cũng không thông báo hay ý kiến cho gia
đình ông M.
Từ phân tích, đánh giá nêu trên thì Công ty Q yêu cầu ông M, N phải bi
thường số tiền thiệt hại 750.000.000đ là không có căn cứ, không có cơ sở chấp nhận
theo quy định của pháp luật; ý kiến của ông M, bà N đưa ra là có căn cứ chấp nhận
theo Điều 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự.
Xét yêu cầu phản tố của bị đơn bà N đối với Công ty Q về việc yêu cầu tháo
dỡ di dời tài sản trên đất: Ông M, N cho rằng không cho Công ty Q thuê đất,
không biết việc Công ty C ký kết hợp đồng hợp tác với Phía Công ty Q. Công ty Q
tuy làm nhà xưởng trên đất của gia đình ông M, bà N nhưng không có ký kết bất kỳ
hợp đồng nào giữa hai bên, việc ký kết hợp đồng giữa Công Ty C với gia đình ông
M, bà N không liên quan đến Công ty Q. Do đó Công ty Q đưa ra ý kiến không
tháo dỡ di dời tài sản trên đất theo yêu cầu ông M, N không căn cứ; N
đưa ra yêu cầu phản tố có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 12, 166 Luật
Đất đai năm 2013.
Do đó, chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Vũ Thị N; buộc Công ty cổ phần Q
phải tháo dỡ di dời toàn bộ 01 nhà xưởng cột sắt, lợp mái tôn diện tích 3.646m
2
, 01
nhà tạm cấp 04 tường gạch lợp tôn diện tích 21,2m
2
, 02 phễu trút mùn, 02 hộp đóng
diện, 01 trạm biến áp điện 2000KVA-35/0,4KV
nằm trên diện tích đất 02ha, thuộc
lô 35, khoảnh 3, thôn C, xã C, huyện S của gia đình bà Vũ Thị N.
[4] Đối với Hợp đồng hợp tác ngày 28/4/2019 giữa Công ty Q với Công ty C
hai bên không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử
không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án này; nếu sau này hai bên có tranh chấp
và yêu cầu Tòa án giải quyết sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:
Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn Công ty Q không được chấp nhận nên
Công ty Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu không được chấp nhận.
Công ty Q phải chịu 300.000đ án pdân sự thẩm đối với yeu cầu phản tố của
ông M, bà N được chấp nhận.
8
Về chi phí tố tụng: Tiền chi phí xem xét thẩm định hết 1.500.000đ, stiền này
bà N đã ứng nộp. Do yêu cầu phản tố của ông M, bà N được chấp nhận nên Công ty
Q phải chịu 1.500.000đ, số tiền Công ty Q nộp trả lại cho bà N.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 584, 585 và 589 của Bộ luật Dân sự 2015; Khoản 6, 14 Điều
26, Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 91, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều
266, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 12,
166 Luật Đất đai năm 2013; Khoản 1, 3, 4, 5 Điều 26 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 ca y ban Thường v Quc Hi quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dng án phí và lệ phí Tòa án.
[1] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần Q
yêu cầu ông Nông Văn M, Thị N phải bồi thường số tiền 750.000.000đ (B1
trăm năm mươi triệu đồng chẵn).
[2] Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Vũ Thị N; buộc Công ty cổ phần
Q phải tháo dỡ di dời toàn bộ 01 nhà xưởng cột sắt lợp mái tôn diện tích 3.646m
2
,
01 nhà tạm cấp 04 tường gạch lợp tôn diện tích 21,2m
2
, 02 phễu trút mùn, 02 hộp
đóng diện, 01 trạm biến áp điện 2000KVA-35/0,4KV
nằm trên diện tích đất 02ha,
thuộc 35, khoảnh 3, thôn C, C, huyện S, tỉnh Bắc Giang của gia đình ông ng
Văn M, bà Vũ Thị N.
[3] Về án phí và chi phí tố tụng:
Về án phí: Nguyên đơn Công ty cổ phần Q phải chịu 34.300.000đ án phí dân
sự thẩm, được khấu trừ vào số tiền 17.000.000đ nộp tạm ứng án phí dân s
thẩm theo biên lai số 0008558 ngày 02/02/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Sơn Đng, sau khi khấu trừ Công ty cổ phần Q phải chịu 17.300.000đ án phí dân sự
sơ thẩm.
Về chi phí tố tụng: Công ty cổ phần Q phải chịu 1.500.000đ tiền chi phí tố
tụng, số tiền chi phí t tụng Công ty cổ phần Q nộp trả lại cho bà Vũ Thị N.
[4] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành hoặc b cưỡng
chế thi hành án theo quy đnh tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án
dân sự. Thời hiệu được thực hiện theo quy đnh tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bắc Giang;
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND huyện Sơn Động;
- Chi cục THADS huyện Sơn Động;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu .
Trần Văn Toàn
Tải về
Bản án số 28/2024/DS-ST Bản án số 28/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 28/2024/DS-ST Bản án số 28/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất