Bản án số 12/2024/DS-PT ngày 25/09/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 12/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 12/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 12/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 12/2024/DS-PT ngày 25/09/2024 của TAND tỉnh Điện Biên về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Điện Biên |
Số hiệu: | 12/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐIỆN BIÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 12/2024/DS-PT
Ngày: 25-9-2024
V/v Tranh chấp về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phương.
Các Thẩm phán: Bà Hoàng Thị Hòa.
Bà Vũ Thị Thanh Thủy.
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thị Hạnh - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Điện
Biên.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên tòa:
Ông Đỗ Thành Đạt - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2024/TLPT-DS ngày 07 tháng 8
năm 2024 về “Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 17/2021/QĐ-PT ngày
26 tháng 8 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm số 34/2024/QĐ-PT,
ngày 13/9/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Tổng Công ty cổ phần B (B1), địa chỉ trụ sở Tầng A, tòa
nhà S đường C, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hoài A, chức vụ: Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Quốc V, chức vụ: Phó Tổng
Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Quốc V: Ông Nguyễn
Văn T, chức vụ: Phó Trưởng phòng Ban giám định bồi thường B1 (có mặt tại
phiên toà); ông Phạm Quốc H, chức vụ: Trưởng phòng giám định bồi thường
Công ty B2 (có mặt tại phiên toà); ông Ngô Đức T1, chức vụ: Phó Trưởng
phòng kinh doanh Công ty B2 (có mặt tại phiên toà); bà Lê Xuân Q, chức vụ:
Trưởng phòng Ban quản lý rủi ro B1 (vắng mặt tại phiên toà); bà Vũ Thị Hồng
N, cán bộ Ban Q2 (vắng mặt tại phiên toà).
2
2. Bị đơn:
2.1. Ông Nguyễn Đình T2, địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện
Biên.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Đình T2: Bà Lê Thị D,
địa chỉ: Số nhà C, tổ dân phố F, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (Có mặt
tại phiên toà).
2.2. Ông Phạm Thanh T3, địa chỉ: Số B, tổ A, Đ, phường T, quận Đ,
thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Thanh T3: Ông Phạm
Ngọc L, địa chỉ: Số C, T, quận Đ, thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên toà).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Công ty TNHH T5, địa chỉ: Số nhà C, tổ dân phố H, phường T, thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Người đại diện theo pháp luật: ông Bùi Đức G, chức vụ: Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Công ty B2; địa chỉ trụ sở: Tầng D, Tòa nhà
C, số A C, thành phố S, tỉnh Sơn La.
Người đại diện theo pháp luật của Công ty B2: Bà Nguyễn Thanh H1, chức
vụ: Giám đốc (Có mặt tại phiên toà).
3.2. Tổng Công ty Cổ phần B3 (PTI), địa chỉ trụ sở: địa chỉ trụ sở: Số I,
Phố T, phường D, quận C, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật: Bà
Hoàng Thị Y, Giám đốc.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Hoàng Thị Y:
- Ông Hồ Đình Q1 – Chuyên viên pháp chế của Tổng Công ty Cổ phần B3
(Có mặt tại phiên toà).
- Ông Đỗ Quang V1 – Nhân viên kinh doanh của Tổng Công ty Cổ phần
B3 (Vắng mặt tại phiên toà).
3.3. Công ty B4, địa chỉ trụ sở: 174, T, T, Đ, thành phố Hà Nội. Người đại
diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Hương G1, chức vụ: Giám đốc đơn vị kinh
doanh số 9 (Vắng mặt tại phiên toà).
3.4. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1985. Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T,
thành phố T, tỉnh Thái Bình. Nơi ở hiện nay: Số nhà H, tổ dân phố I, phường N,
thành phố Đ, tỉnh Điện Biên (Vắng mặt tại phiên toà).
4. Người kháng cáo: Bị đơn ông Phạm Thanh T3.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các văn bản trình bày ý kiến của nguyên đơn
trong quá trình giải quyết vụ án, quá trình tranh tụng tại phiên tòa, người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
3
Ngày 03/8/2022 xảy ra vụ tai nạn giao thông giữa xe ô tô nhãn hiệu
HUYNDAI BKS 29H - 315.16 (sau đây viết tắt là xe BKS 29H - 315.16) do lái
xe Nguyễn Đình T2 điều khiển đang đi trên đường chính và xe ô tô nhãn hiệu
LEXUS RX350 BKS 27A - 019.46 (sau đây viết tắt là xe BKS 27A - 019.46) do
Nguyễn Văn Đ lái xe của Công ty TNHH T5 (sau đây viết tắt là Công ty T5)
điều khiển đang đi trên đường nhánh. Hậu quả xe BKS 29H - 315.16 bị thiệt hại
9.322.500 đồng, còn xe BKS 27A - 019.46 bị thiệt hại 927.697.480 đồng chưa
bao gồm thuế VAT. Vụ việc đã được giải quyết tại Cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Tại thông báo số 63/TB-ĐTTH ngày
29/9/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã xác định: Nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng trên là do ông
Nguyễn Văn Đ điều khiển xe BKS 27A - 019.46...đi trên đường rải nhựa nội thị
(đường nhánh), khi đi đến ngã tư giao nhau thuộc địa phận giáp ranh giữa bản
Phiêng Bua, phường N và Tổ dân phố A, phường H, thành phố Đ đã không chú
ý quan sát, giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn, không nhường
đường cho xe BKS 29H - 315.16.
Ngày 18/4/2022 giữa Công ty T5 và Công ty B2 có ký Hợp đồng bảo hiểm
xe ô tô số 26221379/HĐ-XCG đối với xe BKS 27A - 019.46. Đến thời điểm xảy
ra sự kiện bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực pháp luật và đang được các
bên thực hiện. Sau tai nạn, Công ty T5 đã thuê cứu hộ kéo xe về để sửa chữa.
Theo hóa đơn của đơn vị sửa chữa và đơn vị cứu hộ thì số tiền thiệt hại là
927.697.480 đồng. Số tiền này BIC đã thanh toán cho Công ty T5. Theo quy
định của H3 thì BIC có quyền yêu cầu bên thứ ba hoàn trả số tiền đã thanh toán
cho Công ty số 6 theo lỗi là 20% tương đương với số tiền 185.539.496 đồng.
Công ty T5 đã ủy quyền cho Công ty B2 yêu cầu bên gây thiệt hại bồi
thường thiệt hại theo Hợp đồng ủy quyền ngày 16/8/2022.
Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án: Buộc ông Nguyễn Đình T2 (là lái
xe ô tô 29H-315.16 gây tai nạn) và ông Phạm Thanh T3 (chủ xe ô tô 29H-
315.16) bồi thường phần thiệt hại của xe ô tô BKS 27A-019.46 theo lỗi đã gây
ra với số tiền là 185.539.496 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Đình T2 trình bày:
Ông T2 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì nguyên nhân vụ
tai nạn hoàn toàn do lỗi của lái xe Nguyễn Văn Đ. Quá trình vận hành xe ô tô
29H-315.16 ông T2 đã tuân thủ đúng quy định, quy tắc lái xe, việc va chạm và
gây ra các thiệt hại không do lỗi của ông T2. Ông T2 có yêu cầu phản tố đối với
Công ty T5: Buộc Công ty số 6 có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khoản thu
nhập bị mất với tổng số tiền là 41.826.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T2
đã rút yêu cầu phản tố nên Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ yêu cầu phản tố này
của ông T2.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T2 là bà Lê Thị D trình bày: Giữa
ông T2 và ông T3 không có biên bản bàn giao xe. Ông T2 là lái xe của Công ty
cổ phần C. Tuy nhiên, trước thời điểm xảy ra vụ tai nạn giữa ông T2 và Công ty
không giao kết hợp đồng bằng văn bản. Sau khi xảy ra vụ tai nạn ngày
4
03/8/2022 hai bên mới soạn thảo và ký hợp đồng lao động. Do đó, ông T2 không
có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại. Ông T2 không có trách nhiệm liên đới bồi
thường trách nhiệm dân sự theo yêu cầu của nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Phạm Thanh T3 trình bày:
Ông T3 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì nguyên nhân vụ
tai nạn hoàn toàn do lỗi của lái xe Nguyễn Văn Đ nên ông T3 không có nghĩa vụ
phải bồi thường.
Người đại diện theo ủy quyền của ông T3 là ông Phạm Ngọc L trình bày:
Do ông T3 biết được việc khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ của người khởi
kiện muộn, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải và do tại tỉnh Hòa
Bình có thời gian xảy ra lũ lụt nên một số tài liệu của Công ty bị hư hỏng, do đó
không có đầy đủ tài liệu chứng cứ để cung cấp cho Tòa. Xe ô tô 29H-315.16 là
tài sản thuộc sở hữu của cá nhân ông T3. Ông T3 cho Công ty cổ phần C thuê,
có hợp đồng thuê nhưng hiện không cung cấp được tài liệu chứng cứ. Phía ông
T3 giữ nguyên ý kiến đề nghị đưa Công ty B4 vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm d khoản 1
Điều 40, khoản 1 Điều 147, điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 3 Điều 218, điểm b
khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 271, khoản 1
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào Điều 365, Điều 584, khoản 2 và 3
Điều 601 Bộ luật Dân sự; điểm e khoản 1 Điều 20, 54 Luật Kinh doanh bảo
hiểm; Căn cứ vào khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Tổng công ty cổ phần B.
Buộc ông Phạm Thanh T3 phải bồi thường cho Tổng công ty cổ phần B số
tiền 101.940.020 (Một trăm linh một triệu, chín trăm bốn mươi nghìn, không
trăm hai mươi) đồng.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Tổng công ty cổ phần
B đối với số tiền 83.599.476 (T4 mươi ba triệu, năm trăm chín mươi chín nghìn,
bốn trăm bảy mươi sáu) đồng.
3. Đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Đình T2 về việc: Buộc Công
ty TNHH T5 phải bồi thường cho ông Nguyễn Đình T2 số tiền 41.826.000 (Bốn
mươi mốt triệu, tám trăm hai mươi sáu nghìn) đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng
cáo bản án của các đương sự theo quy định của pháp luật.
* Ngày 19 tháng 07 năm 2024, bị đơn ông Phạm Thanh T3 có đơn kháng
cáo bản án dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, ông T3 yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Điện
5
Biên hủy bản án dân sự sơ thẩm nêu trên để xét xử lại với sự tham gia của tất cả
các bên liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bị đơn.
* Ngày 20/9/2024 Toà án nhận được Công văn số 3229/PTI-PC, ngày
16/9/2024 của Tổng công ty cổ phần B3 (P), về việc giải quyết vụ án theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 17/2024/QĐ-PT đề ngày 26/8/2024.
Trích nội dung công văn:
- Trong quá trình giải quyết sơ thẩm, bị đơn là ông Phạm Thanh T3 – chủ
xe 29H-315.16 tham gia bảo hiểm tại PTI đã có văn bản đề nghị đưa PTI vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gửi Tòa
án ngày 28/3/2024 nhưng không được Toà án cấp sơ thẩm chấp thuận. Vì vậy
chúng tôi chưa được có ý kiến liên quan đến quyền lơi, nghĩa vụ của chúng tôi
trong vụ án.
- PTI yêu cầu Toà án buộc chủ xe 27A-019.46 là Công ty TNHH T5 bồi
hoàn lại cho PTI số tiền PTI đã bồi thường cho chủ xe 29H-315.16 với tổng số
tiền là 59.443.581 VNĐ x 80% = 47.554.865 VNĐ (tương ứng 80% của giá trị
thiệt hại mà P đã bồi thường).
- Theo hồ sơ vụ án mà P đã sao chụp được tại Toà án thì xe ô tô BKS 27A-
019.46 có tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự bắt buộc tại Tổng công ty B5
theo giấy chứng nhận bảo hiểm số 0001079795 cấp ngày 31/5/2022 có thời hạn
từ 11h00 ngày 31/5/2022 đến 11h00 ngày 31/5/2023. Vì vậy đề nghị Toà án bổ
sung triệu tập Tổng công ty B5 tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
và nghĩa vụ liên quan.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Phạm Thanh T3 là ông
Phạm Ngọc L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, người đại diện theo ủy quyền
của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn.
- Các bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
* Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên về việc
tuân theo pháp luật và việc giải quyết vụ án:
- Về trình tự thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến nay, Thẩm phán được phân
công đã thực hiện việc Thông báo cho các đương sự, Viện kiểm sát theo đúng
quy định.
- Việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
ký và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng và đầy đủ theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự.
- Về trình tự, thủ tục tố tụng của Tòa án cấp sơ thẩm: Tòa án cấp sơ thẩm
không đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Đ, Tổng
Công ty Cổ phần B3 và Công ty B4 vào tham gia tố tụng đã làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, vi phạm tại Điều 73 Bộ luật Tố
tụng dân sự.
6
- Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích quá trình giải quyết vụ án của cấp
sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đề nghị Hội đồng xét
xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phạm Thanh T3 đối với Bản
án số 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh
Điện Biên.
Căn cứ khoản 3 Điều 308 và khoản 1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự: Đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên hủy Bản án
dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Đ, tỉnh Điện Biên, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đ,
tỉnh Điện Biên giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết
quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của
pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[1] Về tố tụng:
Về quan hệ pháp luật: Căn cứ vào đơn khởi kiện, các tài liệu và chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án: Xác định tranh chấp giữa Tổng Công ty cổ phần B (B1),
địa chỉ trụ sở Tầng A, tòa nhà S đường C, phường D, quận C, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Hoài A, chức vụ: Tổng Giám đốc với
bị đơn ông Nguyễn Đình T2, địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên và
Ông Phạm Thanh T3, địa chỉ: Số B, tổ A, Đ, phường T, quận Đ, thành phố Hà
Nội là tranh chấp về dân sự, quan hệ pháp luật là tranh chấp về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng theo khoản 6 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về thẩm quyền: Bị đơn ông Nguyễn Đình T2, địa chỉ: Thôn A, xã N, huyện
Đ, tỉnh Điện Biên và ông Phạm Thanh T3, địa chỉ: Số B, tổ A, Đ, phường T,
quận Đ, thành phố Hà Nội, nơi xảy ra việc thiệt hại tại khu vực ngã tư giao nhau
giữa đường rải nhựa nội thị và đường G thuộc địa phận giáp ranh giữa bản P,
phường N, thành phố Đ và Tổ dân phố A, phường H, thành phố Đ. Căn cứ điểm
a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm d khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố
tụng dân sự, Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên thụ lý, giải quyết, xét
xử vụ án là có căn cứ.
[2] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo của bị đơn ông Phạm Thanh T3:
Ngày 19 tháng 07 năm 2024, Tòa án nhân dân thành phố Đ nhận được đơn
kháng cáo (gửi qua đường bưu điện ngày 17/7/2024) của bị đơn ông Phạm
Thanh T3, kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Việc kháng cáo được thực
hiện trong thời hạn luật định, nội dung kháng cáo và quyền kháng cáo phù hợp
với quy định của pháp luật, ông Phạm Thanh T3 đã nộp tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm, như vậy việc kháng cáo của ông Phạm Thanh T3 là hợp lệ, đúng
theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 và 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét đơn kháng cáo của bị đơn
7
Phạm Thanh T3 theo trình tự phúc thẩm.
[3] Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa phúc thẩm: Hội đồng xét
xử căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng
mặt những người đại diện theo ủy quyền của ông Huỳnh Quốc V là ông Ngô
Đức T1, bà Lê Xuân Q, bà Vũ Thị Hồng N và những người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là bà Nguyễn Hương G1 – người đại diện theo pháp luật của Công
ty B4 và ông Nguyễn Văn Đ, do đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vắng mặt tại phiên tòa.
[4] Về nội dung:
[4.1] Đối với yêu cầu khởi kiện ngày 23/8/2023 của Tổng Công ty Cổ
phần B (B1) yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Đình T2 (là lái xe ô tô 29H-315.16 gây
tai nạn) và ông Phạm Thanh T3 (chủ xe ô tô 29H-315.16) bồi thường phần thiệt
hại của xe ô tô BKS 27A-019.46 theo lỗi đã gây ra với số tiền là 185.539.496
đồng.
Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, theo các tài liệu chứng cứ trong hồ
sơ vụ án thể hiện: “Khoảng 19 giờ 10 phút ngày 03/8/2022 tại khu vực ngã tư
giao nhau giữa đường rải nhựa nội thị và đường G thuộc địa phận giáp ranh giữa
bản P, phường N, thành phố Đ và Tổ dân phố A, phường H, thành phố Đ xảy ra
vụ tai nạn giao thông giữa xe ô tô BKS 29H - 315.16 do lái xe Nguyễn Đình T2
điều khiển đang đi trên đường chính và xe ô tô BKS 27A - 019.46 do lái xe
Nguyễn Văn Đ điều khiển đang đi trên đường nhánh. Hậu quả hai xe ô tô bị hư
hỏng nặng. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng
trên là do Nguyễn Văn Đ điều khiển xe ô tô BKS 27A - 019.46 đi trên đường rải
nhựa nội thị (đường nhánh), khi đi đến ngã tư giao nhau thuộc địa phận giáp
ranh giữa bản Phiêng Bua, phường N và Tổ dân phố A, phường H, thành phố Đ
đã không chú ý quan sát, giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn, không
nhường đường cho xe ô tô BKS 29H - 315.16 đang đi trên đường chính”.
Theo Biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng ngày 10/5/2023; Hợp
đồng sửa chữa số 22008725LTL/HĐSC ngày 12/10/2022; Hóa đơn giá trị gia
tăng ngày 22/6/2023; Hóa đơn bán hàng ngày 22/6/2023 thì tổng số tiền chi phí
sửa chữa và cứu hộ là 927.697.480 đồng (số tiền này chưa bao gồm thuế VAT);
số tiền bồi thường thiệt hại này Công ty B2 và BIC đã thanh toán cho Công ty
T5. Theo Bản kết luận định giá tài sản số 33/QĐ ngày 22/8/2022 của Hội đồng
định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì thiệt hại của xe ô tô BKS 27A-019.46 là
516.700.100 đồng. Theo quy định của H3 thì BIC có quyền yêu cầu bên thứ ba
hoàn trả số tiền đã thanh toán cho Công ty T5 theo lỗi là 20% (Tham chiếu theo
Bảng phân lỗi các tình huống tai nạn, ban hành kèm theo Công văn số
93/HHBH/2021 ngày 02/7/2021 của H3). Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn
ông T2 và ông T3 phải bồi thường thiệt hại theo lỗi đã gây ra với số tiền
185.539.496 (927.697.480 đồng x 20% = 185.539.496 đồng).
Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 33/QD ngày
22/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự làm căn cứ tính
mức độ thiệt hại của xe ô tô BKS 27A - 019.46 là đúng quy định. Tuy nhiên, sau
8
khi xét xử bị đơn là ông Phạm Thanh T3 không nhất trí với trình tự, thủ tục cũng
như bản án dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên. Ông T3 kháng cáo và yêu cầu huỷ bản án dân
sự nêu trên.
[4.2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Phạm Thanh T3 về việc đưa
ông Đ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan:
Hội đồng xét xử thấy rằng, ông Nguyễn Văn Đ là lái xe của Công ty TNHH
T5, trong quá trình vận hành xe ô tô BKS 27A – 019.46 vào ngày 03/8/2022, khi
đang đi trên đường dải nhựa nội thị đến ngã tư giao nhau thuộc địa phận giáp
ranh giữa bản P, phường N và Tổ dân phố A, phường H, thành phố Đ đã không
chú ý quan sát, giảm tốc độ để có thể dừng lại một cách an toàn, không nhường
đường cho xe ô tô BKS 29H - 315.16 đang đi trên đường chính, dẫn đến va
chạm, gây ra tai nạn nghiêm trọng cho cả hai xe. Hành vi của Nguyễn Văn Đ đã
vi phạm khoản 3 Điều 24 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 “...3. Tại nơi
đường giao nhau giữa đường không ưu tiên và đường ưu tiên hoặc giữa đường
nhánh và đường chính thì xe đi từ đường không ưu tiên hoặc đường nhánh phải
nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên hoặc đường chính từ bất kỳ hướng
nào tới”. Nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn nghiêm trọng trên là do lỗi của
ông Nguyễn Văn Đ. Theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 601 Bộ luật Dân sự năm
2015, Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra cả khi
không có lỗi, thì Công ty T5 và ông Nguyễn Văn Đ cùng phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại đối với tổn thất xe 29H – 315.16 theo quy định tại Phụ lục
03/0316/CV-GĐBT bảng tham khảo tỷ lệ phân lỗi các tình huống tai nạn kèm
theo Bảng tham khảo tỷ lệ phân lỗi các tình huống tai nạn số 93/HHBH-2021
ngày 02/7/2021 của H3 (20% lỗi).
Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông Nguyễn Văn Đ (lái xe của
Công ty số 6 là người đã gây ra tai nạn) vào tham gia tố tụng với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ trách nhiệm, xác định phần lỗi
trong vụ việc tai nạn giao thông xảy ra ngày 03/8/2022 giữa hai ô tô nói trên;
chưa tiến hành thu thập đầy đủ chứng cứ về việc ông Nguyễn Văn Đ là lái xe
của Công ty T5, hợp đồng lao động ký giữa ông Nguyễn Văn Đ và Công ty T5,
trong hồ sơ chưa có ý kiến trình bày của Công ty T5, mà chỉ căn cứ vào tài liệu
do nguyên đơn cung cấp để từ đó buộc bị đơn ông Phạm Thanh T3 phải trả cho
nguyên đơn số tiền 101.940.020 đồng là chưa thu thập, xem xét, đánh giá toàn
diện chứng cứ.
[4.3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn Phạm Thanh T3 về việc đưa
Tổng Công ty Cổ phần B3 và Công ty B4 vào tham gia tố tụng với tư cách
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, ngày 08/07/2020 ông Phạm Thanh
T3 có lập Hợp đồng cho Công ty Cổ phần C thuê xe ô tô BKS 29H1-315.16,
9
thời hạn thuê xe là 60 tháng kể từ ngày Hợp đồng được ký kết (tài liệu, chứng cứ
này ông Phạm Thanh T3 đã cung cấp cho Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên vào
ngày 12/8/2024 (bản công chứng; tuy nhiên trong hồ sơ vụ án tại giai đoạn sơ
thẩm ông T3 cũng đã cung cấp bản phô tô vào ngày 19/7/2024). Sau đó Công ty
Cổ phần C có giao xe cho ông Nguyễn Đình T2 làm lái xe ô tô BKS 29H1-
315.16.
Trước khi xảy ra tai nạn, ông Phạm Thanh T3 (chủ xe) có giao kết với
Công ty B4 hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới số 016OTTN220218560/HD/016-
/XO/2022 ngày 29/6/2022 để bảo hiểm thiệt hại vật chất xe ô tô 29H-315.16 và
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự số 21BB210631633 ngày 20/10/2021. Tại Điều 6
Hiệu lực hợp đồng và thời hạn bảo hiểm thì Hiệu lực hợp đồng bảo hiểm và
Thời hạn bảo hiểm vật chất xe bắt đầu từ 00:00 phút ngày 01/07/2022 đến 00:00
phút ngày 01/07/2023. Như vậy trách nhiệm bồi thường của Công ty B4 - Tổng
Công ty Cổ phần B3 phát sinh theo Giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân
sự số 21BB210631633 ngày 29/6/2022, PTI cũng nêu rõ trong Công văn số số
146/PTI-BHXCG ngày 14/5/2024 của Tổng Công ty cổ phần B3 “Trong phạm
vi giới hạn trách nhiệm bảo hiểm dân sự bắt buộc của chủ xe cơ giới theo Giấy
chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự số 21BB210631633, PTI sẽ xem xét
mức trách nhiệm phát sinh của PTI tương ứng với mức độ lỗi của Chủ xe 29H-
315.16 phù hợp với hồ sơ công an”.
Tại Công văn số 146/PTI-BHXCG ngày 14/5/2024 của Tổng Công ty cổ
phần B3 có nêu “PTI sẽ cử cán bộ phối hợp với Quý khách hàng sau khi nhận
được Thông báo triệu tập hợp lệ của Tòa án nhân dân đang giải quyết vụ việc.
Tại thời điểm này, P đã nắm được thông tin vụ việc tuy nhiên chưa thể tham gia
tố tụng vì PTI chưa được Tòa án triệu tập nên chưa có tư cách gì trong vụ án.
Trong quá trình làm việc với Tòa án, quý khách hàng có thể đề nghị Tòa án
triệu tập PTI tham gia vụ việc với tư cách là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan…”. Như vậy, để xác định trách nhiệm phát sinh bồi thường của PTI thì
phải xác định được mức độ lỗi của ông Phạm Thanh T3 (chủ xe ô tô 29H-
315.16) và ông Nguyễn Văn Đ (lái xe ô tô 27H-019.46), từ đó mới có thể yêu
cầu các bên bồi thường số tiền thiệt hại tương ứng với lỗi của các bên cho
nguyên đơn, đồng thời mới có thể giải quyết triệt để vụ án.
Tại giai đoạn sơ thẩm, ông Phạm Thanh T3 cũng đã có đơn đề nghị bổ sung
người tham gia tố tụng là Công ty B4 và Tổng Công ty Cổ phần B3 vào tham
gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tuy nhiên Tòa án cấp
sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của ông T3 do yêu cầu này có sau thời
điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh,
thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo đề nghị của ông Phạm Thanh T3 và theo
yêu cầu của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ; không đưa Công ty B4, Tổng
Công ty Cổ phần B3 vào tham gia tố tụng là ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, đã vi phạm quy định tại Điều 72, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[5] Đối với đề nghị của Tổng công ty cổ phần B3 (PTI) theo nội dung Công
10
văn số 3229/PTI-PC ngày 16/9/2024, Hội đồng xét xử thấy có nội dung yêu cầu
Tòa án buộc chủ xe 27A-019.46 là Công ty TNHH T5 bồi hoàn lại cho PTI số
tiền PTI đã bồi thường cho chủ xe 29H-315.16 với tổng số tiền là 59.443.581
VNĐ x 80% = 47.554.865 VNĐ (tương ứng 80% của giá trị thiệt hại mà P đã
bồi thường). Đây là yêu cầu độc lập của PTI có sau thời điểm mở phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải (TAND thành
phố Đ đã giải quyết, xét xử sơ thẩm). Thủ tục yêu cầu độc lập được thực hiện
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn.
Do vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét yêu cầu này của P. PTI có
quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm
đã không đưa đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vào tham gia tố
tụng; chưa thu thập các tài liệu chứng cứ và chứng minh một cách toàn diện; giai
đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm ông Phạm Thanh T3 mới cung cấp Hợp đồng
cho Công ty Cổ phần C thuê xe ô tô BKS 29H1-315.16 (tuy nhiên qua xem xét
nội dung hợp đồng, nhận thấy: Hợp đồng thuê xe được lập vào ngày 08/7/2020
giữa ông Phạm Thanh T3 bên cho thuê và bên thuê là Công ty Cổ phần C đại
diện ông Trần Kiều H2, mục căn cước công dân ghi trong hợp đồng thể hiện
ngày cấp không trùng khớp với ngày giao kết hợp đồng: CCCD của ông T3 cấp
ngày 06/8/2023; CCCD của ông H2 cấp ngày 21/04/2021, nên chưa đủ căn cứ
xác định tính hợp pháp của hợp đồng này), đồng thời Tổng công ty cổ phần B3
gửi Công văn số 3229/PTI-PC ngày 16/9/2024 có nội dung yêu cầu Tòa án buộc
chủ xe 27A-019.46 là Công ty TNHH T5 bồi hoàn lại cho PTI số tiền PTI đã bồi
thường cho chủ xe 29H-315.16 với tổng số tiền là 59.443.581 VNĐ x 80% =
47.554.865 VNĐ (tương ứng 80% của giá trị thiệt hại mà P đã bồi thường), đây
là yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, do đó trình tự thủ
tục phải được thực hiện theo quy định tại Điều 201, Điều 202 Bộ luật tố tụng
dân sự. Để vụ án được giải quyết triệt để, đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Thanh T3 và quan điểm
của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tại phiên tòa. Căn cứ theo
quy định tại khoản 3 Điều 308, khoản 1 Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự,
hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS-ST ngày 03/07/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân
thành phố Đ, tỉnh Điện Biên tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục
chung.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng: Do bản án sơ thẩm bị
hủy, hồ sơ vụ án được chuyển cho Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên
giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm nên nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm sẽ
được xác định lại khi giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
[7] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 148
Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 3 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
11
Người kháng cáo ông Phạm Thanh T3 không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 308; khoản 1 Điều 310, khoản 3 Điều 148 Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ khoản 3 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 10/2024/DS-ST ngày 03/7/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên
giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí phúc thẩm: Ông Phạm Thanh T3 không phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm. Hoàn trả lại ông T3 số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001017
ngày 05/8/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Nghĩa vụ chịu án phí của các đương sự trong vụ án được xác định lại khi vụ
án được giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
25/9/2024).
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên;
- VKSND TP. Đ, tỉnh Điện Biên;
- TAND TP. Đ, tỉnh Điện Biên;
- Chi cục THADS TP. Đ, tỉnh Điện Biên;
- Các đương sự;
- Lưu HSVA, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Phương
Tải về
Bản án số 12/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 12/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm