Bản án số 352/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 352/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 352/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 352/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 352/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Long Xuyên (TAND tỉnh An Giang) |
Số hiệu: | 352/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Buộc ông Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T liên đới nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D số tiền 2.400.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm triệu) đồng. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D về việc không yêu cầu ông T và bà T trả 115.200.000đ (Một trăm mười lăm triệu hai trăm nghìn) đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THÀNH PHỐ LONG XUYÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 352/2024/DS-ST
Ngày 26 tháng 9 năm 2024
V/v “Tranh chấp đòi tài sản-tiền”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hoa
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Võ Thanh Tân - Bà Lê Thị Thanh Vân
Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Tấn Kiệt - Thư ký Tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang tham gia
phiên tòa: Ông Lê Hoàng Nhựt - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 209/2024/TLST-DS, ngày 09 tháng
4 năm 2024 về “Tranh chấp đòi tài sản-tiền” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
622/2024/QĐXX-ST, ngày 14 tháng 8 năm 2024; quyết định hoãn phiên tòa số:
607/2024/QĐST-DS, ngày 05 tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: 1.1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1970. Có mặt.
1.2. Bà Trịnh Thị D, sinh năm 1971. Có mặt.
Cùng nơi cư trú: phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
2. Bị đơn: 2.1. Ông Lăng Anh T, sinh năm 1984. Vắng mặt.
2. 2. Bà Triệu Ngọc T1, sinh năm 1989. Vắng mặt.
Cùng nơi cư trú: phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Phan Trung H1, sinh năm 1983. Nơi cư trú: phường M, thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang. Có mặt.
3.2. Ngân hàng Thương mại cổ phần V (V1). Địa chỉ trụ sở chính: phường L, Quận Đ,
Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.
3.3. Ông Nguyễn Trí T2, sinh năm 1995. Địa chỉ: phường M, thành phố L, tỉnh An
Giang. Chỗ ở hiện nay: phường Đ, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Vắng mặt.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng các lời khai trong quá trình giải quyết nguyên
đơn ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D trình bày:
Ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lăng Anh
T và bà Triệu Ngọc T1 có nghĩa vụ liên đới trả ông H, bà D 2.400.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm
triệu) đồng và tiền lãi tạm tính từ ngày 29/12/2023 đến ngày khởi kiện 20/3/2024 là
115.200.000 đồng. Tổng vốn và lãi ông H, bà D yêu cầu ông T và bà T1 liên đới trả là
2.515.200.000đ (Hai tỷ năm trăm mười lăm triệu hai trăm nghìn) đồng. Đồng thời yêu cầu
tính lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo quy định pháp luật.
Lý do yêu cầu: Ngày 11/7/2023 ông H, bà D thỏa thuận chuyển nhượng cho vợ chồng
ông Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T1 01 căn nhà gắn liền đất tọa lạc tại phường M, thành
phố Long Xuyên với giá 5.500.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận hai bên xác lập Hợp đồng
đặt cọc ngày 11/7/2023. Theo đó, bà T1 đặt cọc cho ông bà 200.000.000 đồng; đến ngày
14/7/2023 ông T, bà T1 đưa thêm cho ông bà 1.800.000.000 đồng và hai bên làm biên nhận
tổng số tiền ông bà đã nhận của vợ chồng ông T, bà T1 2.000.000.000 đồng; ngày 06/11/2023
ông T, bà T1 đưa thêm cho ông bà 1.100.000.000 đồng. Tổng số tiền chuyển nhượng vợ
chồng ông bà đã nhận của ông T và bà T1 là 3.100.000.000đ (Ba tỷ một trăm triệu) đồng.
Đến ngày 06/11/2023 ông bà cùng với ông T và bà T1 ký tờ thỏa thuận viết tay có bên làm
chứng Huỳnh Thị T3 với nội dung “Bên B có mua của bên A 1 tài sản nhà và đất đường B,
phường M, TPLX số tiền là 5.500.000.000 đồng. Bên B đã trả cho anh H và chị D số tiền là
3.100.000.000đ (Ba tỷ một trăm triệu đồng) số tiền còn nợ lại 2.400.000.000đ (Hai tỷ bốn
trăm triệu đồng). Vợ chồng chúng tôi (T + T1) xin hẹn với anh H và chị D đến hết ngày
29/12/2023 dương lịch chúng tôi sẽ hoàn trả hết số tiền còn lại là 2.400.000.000đ cho anh
chị, có bên thứ 3 làm chứng là chị Huỳnh Thị T3. Nếu sai lời hứa chúng tôi xin chịu trách
nhiệm trước pháp luật. Long Xuyên ngày 6/11/2023”. Tuy nhiên đến kỳ hẹn ông T và bà T1
không thực hiện theo thỏa thuận, ông bà nhiều lần yêu cầu, nhắc nhở nhưng ông T và bà T1
vẫn không thực hiện.
Tại phiên tòa ông H, bà D rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc không yêu cầu ông
T, bà T1 trả 115.200.000 đồng tiền lãi của khoản tiền chậm trả 2.400.000.000đ.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của ông bà đối với ông T và bà T1 là tờ
thỏa thuận ngày 06/11/2023 và Vi bằng do Văn phòng Thừa phát lại lập số: 10/VB-TPL,
ngày 12 tháng 3 năm 2024.
Theo đơn khởi kiện ông bà xác định ông Phan Trung H1 là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là muốn chứng minh việc chuyển nhượng nhà đất trên giữa ông bà với ông T và
bà T1 đã hoàn tất. Lý do ông bà chuyển nhượng nhà đất cho ông T, bà T1 nhưng trên hợp
3
đồng chuyển nhượng ghi tên ông T2 (bên nhận chuyển nhượng) là theo yêu cầu của ông T, bà
T1. Vì ông T và bà T1 cho rằng do bị nợ xấu nên nhờ ông T2 đứng tên để vay Ngân hàng.
Sau đó, ông T2 chuyển nhượng lại cho ông Phan Trung H1 cũng là do ông T, bà T1 nhờ ông
H1 đứng tên dùm để vay Ngân hàng dùm ông T, bà T1. Việc ông Nguyễn Trí T2 chuyển
nhượng cho ông Phan Trung H1 được Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh Long Xuyên xác
nhận theo hồ sơ số 5996/23 ngày 10/8/2023.
Ông H, bà D xác định không tranh chấp tài sản chuyển nhượng, hợp đồng chuyển
nhượng giữa ông bà với ông T2; ông H1; ông T, bà T1 và cũng không tranh chấp, không có ý
kiến việc ông H1 thế chấp tài sản mà ông H1 đứng tên dùm ông T, bà T1 để vay tiền Ngân
hàng Thương mại cổ phần V (sau đây gọi là Ngân hàng). Ông bà xác định số tiền ông bà kiện
ông T và bà T1 không liên quan đến ông H1 và không liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
người nào khác trong vụ án này.
* Quá trình tố tụng ông Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T1 là bị đơn; ông Nguyễn Trí T2
và Ngân hàng Thương mại cổ phần V là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt
không cung cấp tài liệu, chứng cứ; không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D .
* Quá trình tố tụng và tại phiên tòa ông Phan Trung H1 là người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan ông trình bày:
Do yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D đối với ông Lăng Anh
T và bà Triệu Ngọc T1 không liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của ông nên ông không có ý
kiến.
Về việc ông đứng tên dùm ông Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T1 theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất để vay tiền tại Ngân
hàng dùm ông T, bà T1 thì không liên quan trong vụ án này. Nếu Ngân hàng có tranh chấp
hoặc phát sinh tranh chấp giữa ông với ông T, bà T1 sẽ giải quyết vụ kiện khác theo quy
định pháp luật.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Long Xuyên phát biểu ý kiến về v iệc tuân theo
pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của đương sự như sau:
Thẩm phán thụ lý giải quyết đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Xác định
đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Thủ tục
tống đạt, niêm yết thực hiện đúng quy định tại Điều 171, 175, 177, 179 Bộ luật tố tụng dân
sự. Hội đồng xét xử, Thư ký tuân thủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông H, bà D thực
hiện quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự; ông H1 thực hiện
quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 73 Bộ luật tố tụng dân sự; ông T, bà T1, ông T2, Ngân
hàng chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ quy định Điều 70, 72, 73 Bộ luật tố tụng dân
sự.
4
* Ý kiến về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 164, 166 Bộ luật
Dân sự năm 2015; Điều 188 Luật Đất đai năm 2013.
- Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H, bà Trịnh Thị D đối với
yêu cầu tính tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H, bà Trịnh Thị D.
Buộc ông Lăng Anh T, bà Triệu Ngọc T1 trả số tiền 2.400.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết
quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Ông H và bà D khởi kiện ông T và bà T1 về tranh chấp giao dịch dân sự. Ông T
và bà T1 có đăng ký thường trú tại phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang theo
Phiếu yêu cầu xác minh tại Công an phường M, thành phố Long Xuyên ngày 12/4/2024, nên
Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại
khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Phiên tòa hôm nay mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng ông T và
bà T1 là bị đơn; ông T2 và Ngân hàng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt
không có lý do. Đương sự có mặt không yêu cầu hoãn phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2
Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị
đơn, người liên quan theo thủ tục chung.
[2]. Về nội dung tranh chấp:
[2.1]. Ông H và bà D khởi kiện yêu cầu ông T và bà T1 liên đới nghĩa vụ trả
2.400.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm triệu) đồng. Rút yêu cầu trả tiền lãi 115.200.000 đồng.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là tờ thỏa thuận của ông
T và bà T1 ngày 06/11/2023 và Vi Bằng do Văn phòng Thừa phát lại lập số: 10/VB-TPL,
ngày 12 tháng 3 năm 2024.
[2.2]. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù được niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ
nhưng ông T, bà T1, ông T2, Ngân hàng vắng mặt không có lý do, không tham gia phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không có văn
bản trình bày ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của ông
H, bà D để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình là các đương sự đã từ bỏ quyền,
nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, 72, 73 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2.3]. Xét yêu cầu khởi kiện của ông H và bà D, Hội đồng xét xử nhận thấy theo tờ
thỏa thuận ngày 06/11/2023 ông T và bà T1 xác nhận ông bà có mua nhà đất của ông H và
bà D với số tiền 5.500.000.000 đồng, đã trả 3.100.000.000 đồng, còn nợ lại 2.400.000.000
5
đồng. Ông T, bà T1 hẹn với ông H bà D đến hết ngày 29/12/2023 dương lịch sẽ trả hết số
tiền còn lại 2.400.000.000 đồng cho ông H, bà D. Tuy nhiên đến nay đã quá kỳ hạn thanh
toán, ông bà nhiều lần yêu cầu nhưng ông T, bà T1 vẫn không thực hiện theo thỏa thuận.
Nhận thấy, giao dịch dân sự giữa ông H và bà D với ông T và bà T1 được xác lập trên
cơ sở tự nguyện, nội dung và hình thức giao dịch không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội, phù hợp quy định tại các Điều 116, 117, 118, 119, 163, 164, 166 Bộ luật
dân sự năm 2015 nên phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên.
[3]. Qua lời trình bày của đương sự, xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, xét
thấy, theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định “Một bên
đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận
của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải
chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ tờ thỏa thuận do ông T và bà T1 xác lập ngày
06/11/2023 và Vi Bằng do Văn phòng Thừa phát lại lập số: 10/VB-TPL, ngày 12/3/2024 để
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, bà D buộc ông T, bà T1 liên đới nghĩa vụ trả
2.400.000.000 đồng như ý kiến đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
[4]. Đối với việc nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện trả tiền lãi 115.200.000
đồng trong tổng số tiền theo đơn khởi kiện 2.515.200.000 đồng. Xét việc rút một phần yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn là tự nguyện, phù hợp quy định của luật. Căn cứ Điều 244 Bộ
luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết yêu cầu đã rút của nguyên đơn.
[5]. Đối với việc ông T2 nhận chuyển nhượng từ ông H, bà D sau đó chuyển nhượng
lại cho ông H1 và ông H1 thế chấp tài sản này để vay tiền Ngân hàng. Do các đương sự
không yêu cầu, tranh chấp gì trong vụ án này, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải
quyết. Nếu các bên có tranh chấp, khởi kiện vụ kiện khác theo quy định pháp luật.
[6]. Về án phí: Căn cứ Điều 6; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ông Lăng Anh T và bà Triệu
Ngọc T1 liên đới chịu 80.000.000đ (Tám mươi triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm trên số
tiền phải trả cho ông H và bà D 2.400.000.000đ (Hai tỷ bốn trăm triệu) đồng.
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Hội đồng xét xử chấp nhận, nên ông H và bà
D được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm
b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 2 Điều 244; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều
280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 163, 164, 166 Bộ luật dân sự năm 2015;
6
Điều 6; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 2, Điều 6; Điều 7; Điều 7a; Điều 9 và Điều 30 Luật Thi
hành án dân sự (Được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D đối với ông
Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T1. Buộc ông Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T1 liên đới
nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D số tiền 2.400.000.000đ (Hai tỷ bốn
trăm triệu) đồng.
Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H và bà Trịnh Thị D về
việc không yêu cầu ông Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T1 trả 115.200.000đ (Một trăm mười
lăm triệu hai trăm nghìn) đồng.
Về án phí:
Ông Lăng Anh T và bà Triệu Ngọc T1 liên đới nghĩa vụ chịu 80.000.000đ (Tám mươi
triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn H được nhận lại 41.152.000đ (Bốn mươi một triệu một trăm năm
mươi hai nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001872, ngày 09/4/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.
Bà Trịnh Thị D được nhận lại 41.152.000đ (Bốn mươi một triệu một trăm năm mươi
hai nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001873, ngày 09/4/2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan
Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi
hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Quyền kháng cáo:
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được
thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền
yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6; Điều 7; Điều 7a; Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
7
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi gởi: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Tòa án ND tỉnh An Giang;
- VKS ND TPLX;
- Thi hành án DS TPLX; (đã ký)
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu văn phòng./.
Nguyễn Thị Hoa
Tải về
Bản án số 352/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 352/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 19/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 12/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm