Bản án số 213/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 213/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 213/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 213/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 213/2025/DS-PT ngày 14/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 213/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Đinh Văn H, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Đinh Văn H2, bà Đặng Thị Đ, bà Đinh Thị H3 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: ông Y Thông Kbuôr.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Ngọc Sâm và bà Đinh Thị Tuyết.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Thê – Thẩm tra viên TAND tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà Lương
Thị Diệu Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 140/2025/TLPT-DS ngày 26/02/2025 về việc
“Tranh chấp hợp đồng giao khoán, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do
bản án dân sự sơ thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 09/01/2025 của Toà án nhân dân huyện
Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 198/2025/QĐPT-DS ngày
09/4/2025 và Quyết định hoãn phiên tòa số 197/2025/QĐ-PT ngày 24/4/2025, giữa
các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đinh Văn H, sinh năm: 1948; địa chỉ: 1 N, thành phố B,
tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của ông Đinh Văn H: ông Trần Đình T, sinh năm
1983 và bà Trần Thị Ngọc Ý, sinh năm 1999; cùng địa chỉ: 4 Đ, phường B, quận B,
thành phố Hồ Chí Minh (văn bản uỷ quyền ngày 14/3/2025), đều có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1959, địa chỉ: 1 N, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk, vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Trương Quang V, sinh năm 1968 và bà Hà Thị H1, sinh năm 1967; cùng
địa chỉ: C Buôn Đ, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, đều vắng mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 213/2025/DS-PT
Ngày 14-5-2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng giao
khoán, hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Trương Quang V và bà Hà Thị
H1: Ông Nguyễn Khánh L; Luật sư – Công ty L1 - Đoàn Luật sư tỉnh Đ; địa chỉ: B
L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
3.2. Chị Trương Thị Hà V1, sinh năm 1994, anh Trương Minh V2, sinh năm
2004, chị Trương Thị Hà M, sinh năm 1992; cùng địa chỉ: Buôn E, xã E'đing, huyện
C, tỉnh Đắk Lắk. (Chị V1, anh V2 có mặt, chị M vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trương Quang V, bà Hà Thị H1, chị
Trương Thị Hà M, anh Trương Minh V2: Chị Trương Thị Hà V1 (Hợp đồng ủy quyền
ngày 05/5/2023), có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Trương Thị Hà V1: Ông Nguyễn
Khánh L; Luật sư – Công ty L1 - Đoàn Luật sư tỉnh Đ; địa chỉ: B L, thành phố B, tỉnh
Đắk Lắk, có mặt.
3.3. Bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1955; địa chỉ: 1 N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk,
vắng mặt.
3.4. Anh Đinh Văn H2, sinh năm 1980; chị Đinh Thị H3, sinh năm 1983; anh
Đinh Văn V3, sinh năm 1990; cùng địa chỉ: 1 N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Anh V3
có mặt, chị H3, anh H2: đều vắng mặt).
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Đặng Thị Đ, anh Đinh Văn H2, chị Đinh
Thị H3, anh Đinh Văn V3: ông Trần Đình T, sinh năm 1983 và bà Trần Thị Ngọc Ý,
sinh năm 1999; cùng địa chỉ: 4 Đ, phường B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh (văn
bản uỷ quyền ngày 14/3/2025), đều có mặt.
3.5. Công ty cổ phần C; địa chỉ: C N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Người đại diện
theo ủy quyền: Ông Nguyễn Đức H4 – Phó giám đốc Chi nhánh nông trường cao su
C1; địa chỉ: xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (văn bản uỷ quyền ngày 03/5/2024), có mặt.
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Đinh Văn H; ông Hoàng Ngọc T2 là
người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Đinh Văn H; những người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đinh Văn H2, bà Đặng Thị Đ và bà Đinh Thị H3.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tiến hành tố tụng, nguyên đơn ông Đinh
Văn H và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Năm 1993, ông Đinh Văn H được Ủy ban nhân dân huyện C giao 9,8ha đất để
làm kinh tế vườn tại buôn Đ, xã E, huyện C. Ngày 10/5/1994, ông được Ủy ban nhân
dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C793213, diện tích 98.000m
2
(76.950m
2
theo thửa số 9: 21.050m² thửa số 9a tờ bản đồ số 3). Đến năm 2017 ông H
được cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể: Thửa thứ nhất: diện tích
36.885m² (diện tích đo đạc thực tế là 33.142,3m²), thửa số 236, tờ bản đồ 03 theo
3
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 718524 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng tên ông Đinh Văn H. Thửa thứ hai: diện tích là
17.719m² (diện tích đo đạc thực tế là 7.263,2m²), thửa số 238, tờ bản đồ số 03 theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 718522 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng ông Đinh Văn H.
Ngày 20/10/1993, Công ty C (nay là Công ty cổ phần C) và ông Đinh Văn H, bà
Đặng Thị Đ ký kết Hợp đồng kinh tế số 9H/93/HĐ-ĐTVV về việc vay vốn trồng và
chăm sóc cao su thiên nhiên, diện tích 10,55ha. Ngày 27/5/1994, ông H và ông
Nguyễn Văn T1 ký kết Giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su vùng ETA. Ngày
10/5/1996, Trung tâm Đ1 (đơn vị trực thuộc Công ty C) và ông H ký lại Hợp đồng
kinh tế về việc vay vốn dài hạn trồng mới và chăm sóc Cao su thiên nhiên; diện tích
9,0ha (thay thế Hợp đồng năm 1993). Ngày 01/12/2003, Công ty C và ông H ký lại
Hợp đồng số 029/TEAH-HĐVV (thay thế Hợp đồng năm 1996). Đến năm 2007, ông
H chuyển nhượng cho ông Nguyễn Như B, bà Nguyễn Thị X diện tích đất trồng cao
su còn lại (trừ phần diện tích đã ký Giấy cam kết hợp tác với ông T1) nhưng không
làm thủ tục chuyển nhượng. Năm 2017, ông H làm thủ tục cấp đổi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và tách thửa số 9, thửa số 9a thành 04 thửa đất. Ngày 22/11/2017,
ông H được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp 04 Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất gồm: Thửa số 235 (9) diện tích 40.065m²; thửa số 236 (9) diện tích 36.885m²;
thửa số 237 (9a) diện tích 6.331m²; thửa số 238 (9a) diện tích 14.719m² (đất trồng cây
hàng năm cùng tờ bản đồ số 03). Ngày 14/12/2017, chỉnh lý biến động sang tên ông
B và bà Nguyễn Thị X đối với thửa số 235 và thửa số 237. Nay ông H yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc ông T1 thanh lý hợp đồng hợp tác kinh tế theo Giấy cam kết lập
ngày 27/5/1994 và trả lại cho ông toàn bộ diện tích đất cao su (thửa đất số 236 và thửa
đất số 238). Tuyên giấy nhận tiền ngày 20/10/2017 giữa ông H và ông V không đúng
về hình thức, nội dung về chuyển nhượng đất bị vô hiệu.
Trong quá trình tố tụng bị đơn ông Nguyễn Văn T1 trình bày:
Ông T1 và ông H là bạn bè nên vào năm 1994 ông H có chuyển nhượng lại cho
ông T1 50% tổng diện tích 9,8ha đất trồng cây cao su với giá 05 chỉ vàng (ông V, bà
H1 đã giao 05 chỉ vàng cho ông H). Do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang thế
chấp tại Công ty C, nên hai bên thống nhất lập Giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cao
su vùng ETA. Quá trình quản lý, sử dụng đất do ông không có điều kiện canh tác nên
đã chuyển giao lại toàn bộ diện tích đất nêu trên cho ông V, bà H1 canh tác; việc giao
đất chỉ nói miệng mà không lập thành văn bản. Sau khi nhận đất, ông V bà H1 canh
tác từ đó cho đến nay và thực hiện nghĩa vụ với Công ty C. Nay ông H khởi kiện yêu
cầu ông thanh lý Hợp đồng hợp tác kinh tế theo Giấy cam kết lập ngày 27/5/1994 và
trả lại toàn bộ diện tích đất cao su (thửa đất số 236 và thửa đất số 238) thì ông T1
không đồng ý.
4
Trong quá trình tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 và người đại diện theo uỷ quyền của ông
V, bà H1 trình bày có nội dung:
Năm 1994, ông H có chuyển nhượng cho ông T1 4,9ha đất trồng cây cao su tọa
lạc tại buôn Đ, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk với giá 05 chỉ vàng; nhưng vì điều kiện
khó khăn ông T1 không có điều kiện canh tác nên ông T1 đã chuyển nhượng lại cho
vợ chồng ông Trương Quang V, bà Hà Thị H1 (gọi tắt là vợ chồng ông V) với giá 05
chỉ vàng. Khi chuyển nhượng ông T1 và vợ chồng ông V đến gặp ông H, được ông H
nhất trí nên vợ chồng ông V đã trả cho ông H 5 chỉ vàng. Do giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đang thế chấp tại Công ty C, nên hai bên thống nhất lập Giấy cam kết hợp
tác kinh tế làm cao su vùng ETA, ông V là người viết giấy theo ý của ông H. Đến năm
2017 ông V, bà H1 và ông B yêu cầu ông H lên Công ty C nhận giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất để làm thủ tục sang tên; đồng thời chuyển cho ông H 60.000.000
đồng để chi phí làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đến nay ông H vẫn
không làm thủ tục sang tên diện tích đất nêu trên cho ông V, bà H1. Việc ông H cho
rằng chỉ chuyển nhượng cho ông V, bà H1 01ha đất vào năm 2002 là không đúng. Do
đó, ông V, bà H1 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H. Ông V, bà H1 có
đơn yêu cầu độc lập yêu cầu tòa án công nhận QSDĐ đối với diện tích 49.000 m
2
thuộc thửa đất số 236 tờ bản đồ số 3 (cũ) nay là thửa đất số 227, tờ bản đồ số 10 và
thửa đất 238 tờ bản đồ số 3 (cũ) nay là thửa đất số 222 và thửa đất số 645, tờ bản đồ
số 10 là của gia đình ông V, bà H1.
Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông Trương Quang V, bà Hà Thị
H1 bổ sung yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng hợp tác kinh tế theo Giấy cam kết hợp
tác làm cao su vùng ETA lập ngày 27/5/1994 giữa ông Đinh Văn H và ông Nguyễn
Văn T1 vô hiệu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trương Thị Hà M, chị Trương Thị
Hà V1 và anh Trương Minh V2 Trình bày: Thống nhất với nội dung trình bày của ông
V, bà H1.
Trong quá trình tiến hành tố tụng đại diện Công ty cao su tỉnh C trình bày:
Ngày 20/10/1993, Công ty C (nay là Công ty cổ phần C) và ông Đinh Văn H, bà
Đặng Thị Đ ký kết Hợp đồng kinh tế số 9H/93/HD-ĐTVV về việc vay vốn trồng và
chăm sóc cao su thiên nhiên, diện tích 10,55ha. Ngày 10/5/1996, Trung tâm Đ1 (đơn
vị trực thuộc Công ty C) và ông H ký lại Hợp đồng kinh tế về việc vay vốn dài hạn
trồng mới và chăm sóc Cao su thiên nhiên; diện tích 9,0 ha (thay thế Hợp đồng năm
1993). Ngày 01/12/2003, Công ty C và ông H ký lại Hợp đồng số 029/TEAH-HĐVV
(thay thế Hợp đồng năm 1996); thời hạn của hợp đồng là 32 năm. Theo kế hoạch đầu
tư 07 năm trong thời kỳ kiến thiết cơ bản đến năm thứ 10 ông H trả nợ cho Công ty C
theo kế hoạch. Đến năm 2015 ông H đã hoàn tất nợ đầu tư cho Công ty C. ông V, bà
5
H1 trả tổng số mủ là 17.318,63 kg mủ khô nguyên liệu loại 1. Việc ông H có chuyển
nhượng đất cho ông V và ông B hay không Công ty C không biết nhưng gia đình ông
V quản lý và chăm sóc vườn cây từ năm 1994 cho đến nay. Nay ông H khởi kiện ông
T1, Công ty C đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình tiến hành tố tụng người làm chứng ông Võ Đình N trình bày:
Trước đây ông N có làm rẫy gần với rẫy nhà ông H nên có biết ông V, bà H1 làm rẫy
trên phần đất của ông H từ năm 1996. Việc hai bên chuyển nhượng thửa đất rẫy này
hay không ông không nắm được.
Trong quá trình tiến hành tố tụng người làm chứng ông Nguyễn Như B trình bày:
Năm 2007, ông B nhận chuyển nhượng của ông H 01 lô cao su và canh tác từ đó cho
đến nay. Quá trình canh tác vườn cao su, ông B không thấy ông T1 sử dụng thửa đất
này mà chỉ thấy ông V, bà H1 là người trực tiếp canh tác, còn canh tác từ thời gian
nào và ông H có chuyển nhượng đất hay không thì ông B không biết. Nay ông H khởi
kiện ông T1, ông không có ý kiến gì.
Trong quá trình tiến hành tố tụng người làm chứng ông Trần Như B1 trình bày:
Ông B1 có canh tác đất cao su liền kề với đất cao su của gia đình ông H từ năm 1993.
Trước đây giữa ông H với ông T1 cho thuê khoán đất trồng cao su như thế nào ông
không biết. Ông chỉ biết vợ chồng ông V là người trực tiếp chăm sóc quản lý vườn
cao su từ trước đến nay. Còn việc ông V nhận chuyển nhượng đất cao su từ ông H
hay ông T3 và chuyển nhượng như thế nào thì ông không biết. Cuối năm 2017 ông V
rủ ông B1 đến nhà ông H chơi, ông V có mang theo số tiền 60.000.000 đồng để nhờ
ông H làm giấy tờ đất. Khi đến nhà thì ông H đi vắng, ông V có điện thoại cho ông H
thì ông H có nói là đưa tiền cho con của ông H nhận, do con ông H chỉ ghi có nhận
tiền của ông V nhưng không ghi rõ nhận để làm việc gì nên ông V yêu cầu ông H về
để trực tiếp nhận. Ông V đã giao số tiền 60.000.000 đồng cho ông H. Ông B1 lúc đó
có hỏi ông H làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mất khoảng thời gian bao lâu,
thì ông H trả lời là vào khoảng nửa tháng. Sau này thấy có người đến đo đất, còn bên
ông H yêu cầu đo hay bên ông V yêu cầu đo thì ông B1 không biết. Ông B1 cũng
không biết ông V nhờ ông H làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông V
hay đứng tên ai, chỉ biết ông H có nhận của ông V số tiền 60.000.000 đồng để làm
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngoài nội dung trên ông B1 không biết và không
liên quan gì đến việc khởi kiện giữa hai ông H và T1, do đó ông B1 đề nghị Tòa án
không triệu tập ông đến Tòa án làm việc.
Tại Bản án sơ thẩm số 02/2022/DS-ST ngày 11/01/2022, Toà án nhân dân huyện
Cư M'gar quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đình Văn
H5; Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện độc lập của ông Trương Quang V và bà
Hà Thị H1. Buộc ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 có nghĩa vụ trả lại một phần
diện tích đất đang trực tiếp quản lý, sử dụng cho ông Đinh Văn H; theo Giấy cam kết
6
hợp tác kinh tế làm cây cao su vùng EaTar, ngày 27/5/1994, giữa ông Đinh Văn H và
ông Nguyễn Văn T1.
Ngày 20/01/2022, ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm số 02/2022/DS-ST ngày 11/01/2022 của Toà án nhân dân huyện Cư M'gar
với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo hướng sửa bản án sơ thẩm
chấp nhận toàn bộ đơn yêu cầu độc lập của ông V, bà H1.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 100/2022/DS-PT ngày 27/5/2022, Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk quyết định: Chấp nhận một phần đơn kháng cáo của ông Trương
Quang V, bà Hà Thị H1 sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm số 02/2022/DS-ST, ngày
11 tháng 01 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Cư M'Gar. Chấp nhận một phần
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đinh Văn H. Chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện độc lập của ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1.
Ngày 14/7/2022, ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 có đơn đề nghị xem xét
theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 60/2022/DS-GĐT ngày 01/12/2022 của Toà
án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã nhận định: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ nêu
trên có đủ cơ sở xác định, ông H đã chuyển nhượng cho ông V, bà H1 4,9ha đất với
giá 05 chỉ vàng. Việc ông H cho rằng ông V chỉ chăm sóc cây cho ông H, 05 chỉ vàng
là để trả cho ½ tiền đầu tư của ông H trong năm 1993 là không có cơ sở. Theo quy
định tại tiểu mục 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì giao dịch chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông H và ông V, bà H1 được công
nhận. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm buộc ông V, bà H1 phải trả lại
cho ông H diện tích đất 30.447,9m² (thửa 236); công nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông H và ông V, bà H1 đối với diện tích đất 10.019,2m² (thuộc
thửa 236 và 238) là không có căn cứ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
ông V, bà H1. Tuy nhiên, do cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa giải quyết triệt để và bỏ
sót yêu cầu của đương sự đồng thời việc thu thập tài liệu chứng cứ không đúng quy
định nên huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm và giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án Tòa án nhân dân huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk để giải quyết lại theo thủ tục
sơ thẩm.
Tại bn án s 03/2025/DS-ST ngày 09/01/2025 của Toà án nhân dân huyện
Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165; Điều 244 Bộ luật tố tụng
dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án.
7
Áp dụng các Điều 117, 124, 500, 501, 502 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 168,
Điều 188 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao.
- Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đinh Văn H về việc chấm dứt hợp
đồng giao khoán giữa ông Đinh Văn H và ông Nguyễn Văn T1 lập ngày 27/5/1994
và yêu cầu ông Nguyễn Văn T1, ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 trả lại: Thửa
số 236, tờ bản đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CĐ 718524 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017
đứng tên ông Đinh Văn H (nay là thửa 227, tờ bản đồ số 10); Thửa đất số 238, tờ bản
đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CĐ 718522 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng tên
ông Đinh Văn H (nay là thửa đất số 222 và thửa đất số 645, tờ bản đồ số 10).
- Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1.
Tuyên bố Giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su vùng ETA lập ngày
27/5/1994 giữa ông Đinh Văn H và ông Nguyễn Văn T1 vô hiệu.
Công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đinh Văn H và vợ
chồng ông Trương Quang V, bà Hà Thị H1.
Công nhận ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 được quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đối với các thửa đất sau: Thửa số 236, tờ bản
đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CĐ 718524 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng tên
ông Đinh Văn H (nay là thửa 227, tờ bản đồ số 10) diện tích 36.885m² (diện tích đo
đạc thực tế là 35421,7m²); Thửa đất số 238, tờ bản đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk
Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 718522 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng tên ông Đinh Văn H diện tích là
17.719m² (diện tích đo đạc thực tế là 7.263,2m²) (nay là thửa đất số 222 và thửa đất
số 645, tờ bản đồ số 10). Thửa đất số 222, tờ bản đồ số 10 diện tích đo đạc thực tế là
6384,4 m²; Thửa đất số 645, tờ bản đồ số 10 diện tích đo đạc thực tế là 878,8 m² (thửa
đất số 222 và thửa đất số 645, tờ bản đồ số 10 là một thửa không có ranh giới, hàng
rào và nằm trong một khuôn viên). (Có trích lục bản đồ địa chính kèm theo bản án).
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 15/01/2025, ông Hoàng Ngọc T2 là người đại diện theo uỷ quyền của
nguyên đơn ông Đinh Văn H kháng cáo đề nghị hủy bản án số 03/2025/DS-ST ngày
09 tháng 01 năm 2025 của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
8
Ngày 17/01/2025, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đinh Văn H2
kháng cáo toàn bộ bản án số 03/2025/DS-ST ngày 09 tháng 01 năm 2025 của Toà án
nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Ngày 21/01/2025, nguyên đơn ông Đinh Văn H kháng cáo đề nghị hủy bản bản
số 03/2025/DS-ST ngày 09 tháng 01 năm 2025 của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar,
tỉnh Đắk Lắk và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H.
Ngày 21/01/2025, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đặng Thị Đ kháng
cáo đề nghị ông Nguyễn Thế T4 và ông Trương Quang V, bà Hà Thị H1 trả lại đất
đang chiếm giữ trái pháp luật. Cùng ngày, bà Đinh Thị H3 cũng kháng cáo đề nghị
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Đinh Văn H, hủy một phần Bản án dân sự sơ
thẩm số: 03/2025 DS-ST ngày 09 tháng 01 năm 2025 của Toà án Nhân dân huyện Cư
M'gar Đăk Lăk; chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại về tranh
chấp chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai.
Tại phiên tòa, những người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông H và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía nguyên đơn đều cho rằng: Bản án
sơ thẩm có nhiều vi phạm nghiêm trọng về tố tụng và nội dung nên đề nghị HĐXX
chấp nhận kháng cáo của ông H, bà Đ, anh H2, chị H3, hủy toàn bộ bản án dân sự sơ
thẩm, giao về lại cho chấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông V, bà H1 và bà V1 cho rằng:
Toà án cấp sơ thẩm xét xử là đúng quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản
án dân sự sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa trình bày ý
kiến, với nội dung: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cũng
như tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự; về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích,
đánh giá về yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo của các đương sự và khẳng định
quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ và phù hợp với pháp luật, nên yêu cầu
kháng cáo của nguyên đơn ông Đinh Văn H; của những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là ông Đinh Văn H2, bà Đặng Thị Đ và bà Đinh Thị H3 là không có căn cứ
chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Đinh Văn
H; của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đinh Văn H2, bà Đặng
Thị Đ và bà Đinh Thị H3; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm tra chứng cứ
và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
9
[1] Về tố tụng: Xét kháng cáo của người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn
ông Hoàng Ngọc T2: Ngày 15/01/2025, ông Hoàng Ngọc T2 là người đại diện theo
uỷ quyền của nguyên đơn ông Đinh Văn H kháng cáo đề nghị hủy bản án số
03/2025/DS-ST ngày 09 tháng 01 năm 2025 của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar,
tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, ngày 14/3/2025, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhận được
Thông báo về việc thay đổi người đại diện theo uỷ quyền, theo đó nguyên đơn ông
Đinh Văn H đơn phương chấm dứt uỷ quyền cho ông Hoàng Ngọc T2 tham gia tố
tụng tại toà án. Do đó, căn cứ điểm d khoản 3 Điều 140 của Bộ luật Dân sự, việc đại
diện theo uỷ quyền của ông T2 chấm dứt. Vì vậy nội dung đơn kháng cáo của ông T2
do người uỷ quyền là nguyên đơn ông Đinh Văn H tiếp tục thực hiện.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Đinh Văn H; của những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đinh Văn H2, bà Đặng Thị Đ và bà Đinh Thị
H3, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Xét hợp đồng hợp tác kinh tế theo Giấy cam kết lập ngày 27/5/1994 giữa
ông Đinh Văn H và ông Nguyễn Văn T1, thấy rằng:
Năm 1993, ông Đinh Văn H được Ủy ban nhân dân huyện C giao 9,8ha đất để
làm kinh tế vườn tại Buôn Đ, xã E, huyện C. Ngày 10/5/1994, ông được Ủy ban nhân
dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C793213, diện tích 98.000m
2
(76.950m
2
theo thửa số 9: 21.050m² thửa số 9a tờ bản đồ số 3).
Ngày 20/10/1993, Công ty C (nay là Công ty cổ phần C) và ông Đinh Văn H, bà
Đặng Thị Đ ký kết Hợp đồng kinh tế số 9H/93/HĐ-ĐTVV về việc vay vốn trồng và
chăm sóc cao su thiên nhiên, diện tích 10,55ha.
Ngày 27/5/1994, ông Đinh Văn H và ông Nguyễn Thế T4 (Nguyễn Văn T1) ký
Giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cao su vùng E. Theo thoả thuận, các bên thống nhất:
“Ông H không có người nhà bảo quản vùng cao su xã E. Tôi có điều kiện về nhân lực
và kinh tế. Tôi cộng tác làm chung với ông H diện tích cao su đó là 9,8ha (Tôi 50%
diện tích và ông H 50% diện tích).
Mặc dù người đứng tên trong hợp đồng hợp tác được ký kết với ông H là ông T1
nhưng do điều kiện gia đình khó khăn, ông T1 chuyển giao lại cho vợ chồng ông
Trương Quang V, bà Hà Thị H1, nên người nhận đất và trực tiếp canh tác từ năm 1994
là vợ chồng ông V, bà H1. Ông V, bà H1 cũng là người giao 5 chỉ vàng cho ông H.
Sau khi nhận đất ông V, bà H1 đã canh tác và làm nhà ở từ năm 1994 cho đến nay,
ông H không có ý kiến gì. Tất cả các phiếu thu và biên bản đối chiếu trả nợ mủ cao
su với công ty C đều do ông V, bà H1 thực hiện. Ngoài ra, Giấy cam kết cũng không
có thỏa thuận về việc sau khi trả hết nợ đầu tư của Công ty (năm 2014) thì ông T1 hay
ông V phải trả lại đất và cây trồng trên đất cho ông H. Như vậy, có cơ sở xác định có
sự việc ông H và ông T1 ký kết hợp đồng hợp tác trên là có thật nhưng thực tế ông
10
T1 không phải là người chăm sóc cây cho ông H mà ông V, bà H1 là người nhận
chuyển nhượng đất từ ông H với giá trị 5 chỉ vàng.
Ngoài ra, theo Hợp đồng kinh tế số 9H/93/HĐ-ĐTVV ngày 20/10/1993 giữa
Công ty C với vợ chồng ông H và văn bản của Công ty C (kèm theo đơn đề nghị là
các hóa đơn) thì trong năm 1993, ông H đã nhận vốn đầu tư, cây giống từ Công ty để
trồng cây Cao su chứ ông H không tự bỏ vốn của cá nhân để đầu tư. Từ năm 1994, số
lượng cây Cao su do ông H trồng chỉ còn khoảng 20% (do không được chăm sóc và
bị trâu bò phá), nên vợ chồng ông V phải trồng lại. Lời khai này của ông V, bà H1 là
phù hợp với tài liệu do Công ty C cung cấp và tại Giấy cam kết năm 1994 cũng thể
hiện: Từ tháng 6/1994, ông T1 làm cỏ, trồng cây và đầu tư 50% diện tích. Như vậy,
lời khai của phía ông H cho rằng ông V chỉ chăm sóc cây cho ông H, 5 chỉ vàng là để
trả cho % tiền đầu tư của ông H trong năm 1993 là không đúng nên không có căn cứ
để chấp nhận.
[2.2] Mặt khác, tại Giấy nhận tiền do ông H lập ngày 22/10/2017 (bút lục 135)
thể hiện: “Anh H đã nhận 60 (triệu) trong đó là chi phí làm giấy tờ và chi phí khác.
Số tiền còn lại và nợ cũ sẽ thanh toán sau khi nhận giấy tờ (quyền sử dụng đất)”. Như
vậy đây là số tiền mà ông V và bà H1 giao cho ông H để làm giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất (tương ứng với số tiền ông B nộp để làm giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với diện tích 46.396m² đất). Điều này hoàn toàn phù hợp với lời trình bày của
ông Nguyễn Như B ngày 11.1.2018 (bút lục số 133): “ Tên tôi Nguyễn Như B, trú tại
buôn E, xã E, là người cùng ông Trương Quang V mua lô cao su của ông Đinh Văn
H lô đất ở buôn X, EaTa, C. Ngày 25.10.2017 tôi và ông V có đến UBND xã E cùng
với ông H ký giấy tờ để làm thủ tục xang nhượng quyền sử dụng đất”.
Việc ông H cho rằng việc ông nhận tiền 60.000.000đ là chuyển nhượng 01 ha
đất trong tổng diện tích 4,9ha là không có căn cứ, bởi lẽ theo trả lời của Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh Đ cung cấp thì Giá trị 01ha đất nông nghiệp theo giá nhà nước
(tháng 10/2017) là 302.582.608 đồng và các bên cũng không có thoả thuận nào khác.
[2.2] Từ những căn cứ trên có đủ cơ sở xác định, việc chuyển nhượng đất giữa
ông Đinh Văn H và vợ chồng ông V, bà H1 là có thật, ông V, bà H1 nhận đất tạo lập
các tài sản trên đất và sử dụng ổn định không tranh chấp từ năm 1994 cho đến nay.
Toà án cấp sơ thẩm đã phân tích, nhận định và áp dụng tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II
Nghị quyết số 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao về
việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân
gia đình để công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất giữa ông H và ông V, bà H1 là có căn cứ. Do đó, nội dung kháng cáo của
những người kháng cáo là không có căn cứ chấp nhận.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người
kháng cáo ông Đinh Văn H, ông Đinh Văn H2, bà Đặng Thị Đ, bà Đinh Thị H3 phải
11
chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định. Tuy nhiên, ông Đinh Văn H và bà Đặng
Thị Đ là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí phúc thẩm nên áp dụng điểm đ
khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án, miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho ông H, bà Đ là phù
hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Đinh Văn H, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan ông Đinh Văn H2, bà Đặng Thị Đ, bà Đinh Thị H3: Giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2025/DS-ST ngày 09/01/2025 của Tòa án nhân dân
huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Căn cứ Điều 147; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 165; Điều 244 Bộ luật tố
tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án.
Áp dụng các Điều 117, 124, 500, 501, 502 của Bộ luật Dân sự 2015; Điều 168,
Điều 188 Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 02/2004 ngày 10/8/2004 của Hội
đồng thẩm phán TAND tối cao.
Tuyên xử:
- Không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Đinh Văn H về việc chấm dứt hợp
đồng giao khoán giữa ông Đinh Văn H và ông Nguyễn Văn T1 lập ngày 27/5/1994
và yêu cầu ông Nguyễn Văn T1, ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 trả lại: Thửa
số 236, tờ bản đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CĐ 718524 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017
đứng tên ông Đinh Văn H (nay là thửa 227, tờ bản đồ số 10); Thửa đất số 238, tờ bản
đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CĐ 718522 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng tên
ông Đinh Văn H (nay là thửa đất số 222 và thửa đất số 645, tờ bản đồ số 10).
- Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1.
Tuyên bố Giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su vùng ETA lập ngày
27/5/1994 giữa ông Đinh Văn H và ông Nguyễn Văn T1 vô hiệu.
Công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đinh Văn H và vợ
chồng ông Trương Quang V, bà Hà Thị H1.
12
Công nhận ông Trương Quang V và bà Hà Thị H1 được quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đối với các thửa đất sau: Thửa số 236, tờ bản
đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
CĐ 718524 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng tên
ông Đinh Văn H (nay là thửa 227, tờ bản đồ số 10) diện tích 36.885m² (diện tích đo
đạc thực tế là 35421,7m²); Thửa đất số 238, tờ bản đồ số 03, xã E, huyện C, tỉnh Đắk
Lắk theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CĐ 718522 do Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Đ cấp ngày 22/11/2017 đứng tên ông Đinh Văn H diện tích là
17.719m² (diện tích đo đạc thực tế là 7.263,2m²) (nay là thửa đất số 222 và thửa đất
số 645, tờ bản đồ số 10). Thửa đất số 222, tờ bản đồ số 10 diện tích đo đạc thực tế là
6384,4 m²; Thửa đất số 645, tờ bản đồ số 10 diện tích đo đạc thực tế là 878,8 m² (thửa
đất số 222 và thửa đất số 645, tờ bản đồ số 10 là một thửa không có ranh giới, hàng
rào và nằm trong một khuôn viên). (Có trích lục bản đồ địa chính kèm theo bản án).
Các đương sự có trách nhiệm liên hệ với Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
[3] Về án phí:
[3.1] Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Đinh Văn H được miễn án phí dân sự sơ thẩm. Ông Đinh Văn H được
nhận lại 1.500.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2017/0001967
ngày 19/01/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C (ông H đã nhận lại theo Quyết
định thi hành án số 1136/QĐ-CCTHADS của Chi cục thi hành án dân sự huyện C).
- Ông Trương Quang V, bà Hà Thị H1 được nhận lại 21.000.000 đồng tiền tạm
ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2017/0006808 ngày 11/9/2018 và 600.000
đồng theo biên lai số 60AA/2021/0007957 ngày 07/02/2022 tại Chi cục thi hành án
dân sự huyện C. Hoàn trả cho ông Trương Quang V, bà Hà Thị H1 số tiền 5.000.000
đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đã nộp ngày 03/8/2022 tại Chi cục thi hành án dân
sự huyện C trong quá trình tổ chức thi hành án.
- Ông Nguyễn Văn T1 được nhận lại 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đã
nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố B theo biên lai số 83124 ngày 04/8/2022
(theo quyết định ủy thác thi hành án số 35/QĐ-CCTHADS ngày 22/7/2022 của Chi
cục thi hành án dân sự huyện C).
[3.2] Về án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Đinh Văn H và bà Đặng Thị Đ được miễn án phí dân sự phúc thẩm.
- Ông Đinh Văn H2, bà Đinh Thị H3, mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí
dân sự phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà mỗi người đã nộp theo
biên lai lần lượt số AA/2023/0008207 ngày 17/01/2025 và số AA/2023/0008211 ngày
21/01/2025 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
13
[4] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Ông Đinh Văn H
phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản 14.000.000 đồng được
khấu trừ vào số tiền 14.000.000 đồng ông đã nộp.
[5] Đối với hậu quả của việc thi hành án: Trả lại cho ông Đinh Văn H số tiền mà
ông đã tự nguyện nộp thi hành án theo bản án sơ thẩm số 02/2022/DSST ngày
11/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện CưM’gar, Bản án số 100/DSPT ngày
27/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, số tiền 122.735.000 đồng tại Chi cục
thi hành án huyện C theo Quyết định thi hành án số 1246/QĐ-CCTHADS ngày
22/8/2022 của Chi cục thi hành án huyện C (Hiện nay số tiền này Chi cục thi hành
án huyện C đang gửi tiết kiệm theo quy định của pháp luật).
[6] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND H. Cư M’gar;
- Chi cục THADS H. C;
- Chi cục THADS TP B;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Y Thông Kbuôr
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm