Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 27/08/2024 của TAND huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về thừa kế tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 21/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 27/08/2024 của TAND huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về thừa kế tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thừa kế tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Ana (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 21/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Trần Thị M1 có bố là Cụ Trần Đăng R, sinh năm 1907 và mất năm 1997; mẹ là cụ Nguyễn Thị H2, sinh năm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KRÔNG ANA
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 21/2024/DS-ST
Ngày: 27-8-2024
V/v:“Tranh chấp về thừa kế tài sản”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Chu Anh Hùng
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Phạm Thế Chiến
2. Ông Huỳnh Tấn Sinh
- Thư phiên tòa: Thị Thu Hoài Thẩm tra viên Tòa án nhân dân huyện
Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nhất- Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 8 năm 2024 tại phòng xử án, trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông
Ana xét xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 12/2024/TLST-DS, ngày 03 tháng
01 năm 2024 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số 37/2024/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 7 năm 2024 quyết định hoãn phiên tòa
số 36/2024/QĐST-DS, ngày 29/7/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1973 - Có mặt.
Địa chỉ: Xóm A, thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1969 - Có mặt.
Địa chỉ: Xóm A, thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền cho ông Nguyễn Văn H là: Bà Nguyễn Thị H1, sinh
năm 1998- Có mặt.
Địa chỉ: Thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Tiến V, sinh năm 1960 - (Có đơn xin xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: LK C- 16, đường số E, khu đô thị M, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
2. Ông Nguyễn Vũ T, sinh năm 1988 - (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: Ban chỉ huy Quân sự huyện C, tỉnh Đắk Nông
3. Ông Nguyễn Thành P, sinh năm 1989- (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Địa chỉ: XC A, phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương.
2
4. Bà Vũ Thị M, sinh năm 1965 - Có mặt
Địa chỉ: thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
5. Ngân hàng N
Đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V1 Chức vụ: Tổng giám đốc Ngân hàng
N.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Lưu Hải T1; Chức danh: Giám đốc Ngân hàng N
Chi nhánh huyện K, tỉnh Đắk Lắk - (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng tại phiên tòa nguyên đơn
ông Nguyễn Văn K trình bày:
Trần Thị M1 có bố là Cụ Trần Đăng R, sinh năm 1907 và mất năm 1997; mẹ là
cụ Nguyễn Thị H2, sinh năm: 1907 và mất năm 1982.
Khoảng năm 1958 Trần Thị M1 sống chung với ông Nguyễn Văn V2, không
đăng ký kết hôn, quá trình chung sống thì M1 ông V2 05 người con chung là:
Nguyễn Tiến V, sinh năm: 1960; Nguyễn Văn H3, sinh năm: 1962 chết năm 1963;
Nguyễn Văn T2, sinh năm: 1964 chết năm: 2010 (ông T2 02 người con Nguyễn
T, sinh năm 1988 Nguyễn Thành P, sinh năm 1990); Nguyễn Văn H, sinh năm:
1969; Nguyễn Văn K, sinh năm: 1973.
Đến năm 1973 thì Trần Thị M1 ông Nguyễn Văn V2 không chung sống với
nhau nữa, ông Vĩnh b đi và kết hôn với người khác. Năm 1978 bà Trần Thị M1 mang 4
người con vào làm kinh tế mới tại thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 28/02/2014
Trần Thị M1 chết không để lại di chúc. Trong quá trình sinh sống tại thị trấn B, huyện
K, tỉnh Đắk Lắk tnăm 1978 đến khi chết, bà Trần Thị M1 tự tạo lập được các tài sản
riêng như sau:
1/ 01 quyền sử dụng đất tại thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, ngày
01/9/2010 Trần Thị M1 được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số BA 643197, thửa đất số: 404, tờ bản đồ số: 03, diện tích: 5.564 m
2
, mục
đích sử dụng: Đất trồng cây công nghiệp lâu năm. Ngày 06/07/2010 đã chuyển cho ông
Nguyễn Văn T2 diện tích: 4512 m
2
, diện tích đất còn lại: 1.052 m
2
, mang tên Trần
Thị M1. Đất này đang do Nguyễn Văn H quản , trên đất chỉ cây trồng do ông
Nguyễn Văn H trồng và chăm sóc từ trước đến nay.
2/ 01 sổ tiết kiệm được mở tài Ngân hàng N -Chi nhánh K, do Trần Thị M1 đứng
tên. Với số tiền gốc là: 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng), tiền lãi tính đến ngày
05/3/2024 là 107.480.600 đồng, tổng số tiền: 207.480.600 đồng.
Ông K yêu cầu phân chia di sản thừa kế đối với 02 tài sản riêng của Trần Thị
M1 nói trên theo quy định của pháp luật.
3
Quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Văn H, người
đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị H1 cùng trình bày: Trần Thị M1 có bố
Cụ Trần Đăng R, sinh năm 1907 mất năm 1997; mẹ cụ Nguyễn Thị H2, sinh
năm: 1907 và mất năm 1982. Hôn nhân giữa bà Trần Thị M1 ông Nguyễn Văn V2
hôn nhân hợp pháp, M1 và ông V2 05 người con chung là: Nguyễn Tiến V, sinh
năm: 1960; Nguyễn Văn H3, sinh năm: 1962 chết năm 1963; Nguyễn Văn T2, sinh năm:
1964 chết năm: 2010 (ông T2 02 người con Nguyễn T, sinh năm 1988 và
Nguyễn Thành P, sinh năm 1989); Nguyễn Văn H, sinh năm: 1969; Nguyễn Văn K, sinh
năm: 1973.
Đến năm 1973 thì Trần Thị M1 ông Nguyễn Văn V2 không chung sống với
nhau nữa, ông Vĩnh b đi sinh sống tại huyện G, tỉnh Nam Định và kết hôn với người
khác.
Năm 1978 Trần Thị M1 mang 4 người con vào làm kinh tế mới tại thị trấn B,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 28/02/2014 Trần Thị M1 chết không để lại di chúc.
Trong quá trình sinh sống tại thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk từ năm 1978 đến khi
chết, bà Trần Thị M1 tự tạo lập được các tài sản riêng như sau:
Tài sản thứ nhất: 01 sổ tiết kiệm được mở tài Ngân hàng N -Chi nhánh K. Do bà
Trần Thị M1 đứng tên, số tiền gốc 100.000.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 05/3/2024
107.480.600 đồng, tổng số tiền: 207.480.600 đồng, Sổ tiết kiệm nay đang do ông H
quản lý, nay ông K khởi kiện đề nghị chia số tiền trong sổ tiết kiệm thì ông H đồng ý
chia theo pháp luật.
Tài sản thứ hai: Đối với thửa đất số: 404, tờ bản đồ: 03, diện tích: 1052 m
2
, do Ủy
ban nhân dân huyện K cấp ngày 01/09/2010, mang tên bà Trần Thị M1 thì ông H không
đồng ý phân chia di sản thừa kế vì những lý do sau đây:
Một là, trên thực tế, bà Trần Thị M1 đã phân chia đất đồng đều cho tất cả các con.
Ông T2, ông H, ông K đều đã được chia mỗi người khoảng 4 sào đất. Riêng ông V
công sức đóng góp nhiều hơn nên được chia khoảng 6 sào đất. Nội dung về việc phân
chia đất đã được ghi nhận và mô tả chi tiết trong văn bản phân chia tài sản năm 1993, có
đầy đủ chữ ký và sự đồng ý của các thành viên trong gia đình. Thửa đất số 404, tờ bản
đồ số 03 diện tích là 1.052m
2
thuộc phần đất mà ông H đã được chia thể hiện rõ trong
văn bản viết tay ông Nguyễn Văn K đang cất giữ.
Thời điểm năm 1993 (lúc phân chia đất) ông H tất cả các anh em đều chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2000, M1 đã chia hết đất đai cho
các con, không có thu nhập để sinh hoạt trong cuộc sống nên vợ chồng ông H vẫn canh
tác thửa đất số 404 nhưng để cho M1 thu hoạch thu nhập chi tiêu sinh hoạt. Sau
đó, quan nhà nước bắt đầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân
nhưng đang để M1 thu hoạch thửa đất trên nên ông H không làm thủ tục xin cấp
4
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất này và vẫn để cho bà M1 kê khai đứng
tên trên sổ. Đến năm 2010 bà M1 không thu hoạch nữa mà trả lại đất hoàn toàn cho ông
H để canh tác thu hoạch. Cùng năm 2010, ông T2 đã làm thủ tục tách thửa phần đất
mà ông T2 được chia. Sau khi tách bìa xong cho ông T2 thì bà M1 đã giao Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất cho ông H cất giữ để sau này đi làm thủ tục sang tên. Đến tháng
3/2011, do tuổi đã cao lại sống một mình nên bà M1 đã họp mặt các con ông H, ông
K và con dâu Thị M (vợ của ông T2), ông V vắng mặt do xa để quyết định
việc chuyển đến ở cùng với gia đình ông Nguyễn Văn K. Trong buổi họp mặt đó, M1
cũng nói trước mặt mọi người là đã trả lại đất cho ông H. Các con trong gia đình
đều tôn trọng quyết định của bà và không có ai phản đối nên gia đình ông H vẫn làm ăn
canh tác trên mảnh đất đó bình thường. Tuy nhiên, do sống chung không hòa hợp nên
M1 chỉ được 02 tháng tại nhà ông K. Đến tháng 5/2011, M1 chuyển đến sống
cùng với gia đình ông H. Lúc đau ốm, vợ chồng ông H luôn túc trực, chăm sóc bà
chu đáo, đến năm 2014 thì mất đột ngột không đlại di chúc. Sau khi bà M1 mất, ông
H vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng canh tác mảnh đất đó đến nay, không có ai phản đối hay
tranh chấp gì. Ngày 12/06/2022, ông K đến nhà ông H lấy văn bản phân chia tài sản năm
1993 và yêu cầu chia tài sản của bà M1 là thửa đất số 404, tờ bản đồ số 03. Sau khi đọc
kỹ lại phân tích ràng, ông K thấy sai nên cầm văn bản phân chia tài sản đi về. Trong
quá trình hòa giải, ông H đã nhiều lần yêu cầu ông K đưa ra văn bản phân chia tài sản ra
để giải quyết ràng. Tuy nhiên đến nay, ông K vẫn không chịu đưa ra văn bản phân
chia tài sản để giải quyết, điều này thể hiện sự tham lam, dối trá, không thành thật trước
pháp luật.
Hai là, ông H đã quản lý sử dụng ổn định, lâu dài và không có tranh chấp mảnh đất
trên đã rất nhiều năm, hàng xóm láng giềng xung quanh đều biết. Hơn nữa ý chí của bà
M1 khi bà còn sống là giao lại đất cho ông H làm ăn, canh tác, việc này các anh em đều
biết và không có ai phản đối.
Căn cứ khoản 1 Điều 179 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Chiếm hữu việc chủ
thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể quyền đối
với tài sản”.
Căn cứ Điều 180 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Chiếm hữu ngay tình việc chiếm
hữu người chiếm hữu căn cứ để tin rằng mình quyền đối với tài sản đang chiếm
hữu”.
Căn cứ khoản 1 Điều 182 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Chiếm hữu liên tục
việc chiếm hữu được thực hiện trong một khoảng thời gian không có tranh chấp về
quyền đối với tài sản đó hoặc có tranh chấp nhưng chưa được giải quyết bằng một bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác, kể cả khi tài sản được giao cho người khác chiếm hữu”.
5
Căn cứ khoản 1 Điều 183 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Chiếm hữu công khai là
việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang
chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng được người chiếm hữu bảo quản,
giữ gìn như tài sản của chính mình”.
Như vậy, ông H là người chiếm hữu ngay tình, liên tục và công khai đối với quyền
sử dụng đất thửa đất số 404 tờ bản đồ số 03 từ năm 1993 đến nay đã 31 năm.
Căn cứ Điều 236 Bộ luật dân sự 2015 về việc Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu
do chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật:“Người chiếm hữu, người
được lợi về tài sản không căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong
thời hạn 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm
bắt đầu chiếm hữu…”.
Từ các do trên, ông H không đồng ý yêu cầu phân chia di sản thừa kế là quyền
sử dụng đất của thửa đất số 404, tờ bản đồ số 03 có diện tích là 1.052m
2
.
Hơn nữa, thửa đất trên ông H cũng đã phải đầu tư rất nhiều công sức, tiền bạc để
cải tạo đất, xây hàng rào, lắp đường ống tưới nước, mua giống, đầu cây trồng mới.
Trong trường hợp phải phân chia di sản thừa kế quyền sử dụng đất nêu trên, đề nghị
xem xét công sức trong việc quản lý, giữ gìn, tôn tạo đất của ông H phù hợp với tinh
thần của Á lệ số 05/2016 ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao. Thêm vào đó, ông H cũng là người chăm sóc, phụng dưỡng lúc M1 già yếu, đau
ốm. Ngoài ra, ông H đnghị được lấy đất để tiếp tục sử dụng, canh tác và thanh toán
phần giá trị cho các đồng thừa kế.
*Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn
Tiến V trình bày: Do điều kiện sức khỏe nên ông V không thể đến Tòa để làm việc được,
ông V xin phép được vắng mặt, ông V cũng không có ý kiến hay tài liệu, thông tin gì về
vụ việc này. Ông V hoàn toàn tin tưởng và chấp hành kết quả giải quyết đúng quy định
pháp luật của Tòa án.
*Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn
T ông Nguyễn Thành P trình bày: Chúng tôi đã nhận được giấy triệu tập của Tòa
án. Tuy nhiên hiện nay do bản thân thực hiện nhiệm vụ, phải trực làm việc tại
quan, nên không thể trực tiếp tham gia vụ án được. vậy, đề nghị được vắng mặt trong
tất cả các buổi làm việc của Tòa án xin được vắng mặt trong tất cả các phiên xét xử
của Tòa án. Đề nghị tòa án xem xét và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
*Quá trình tham gia tố tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng
N - Chi nhánh K trình bày: Trần Thị M1 có gửi tiết kiệm tại Ngân hàng N - Chi nhánh
huyện K theo các thông tin cụ thể như sau: Số sổ tiết kiệm: AL2204107564; Số tiền gửi:
100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng); Lãi suất: 10%/năm; Kỳ hạn gửi: 12 tháng;
Ngày gửi: 04/03/2013 và ngày đến hạn: 05/03/2014. Vào ngày đến hạn bà Trần Thị M1
6
chưa thực hiện rút tiền gốc, lãi lần nào số tiết kiệm tự động gia hạn kỳ hạn gửi 12
tháng, lãi suất tiền gửi theo quy định hiện hành tại thời điểm tự động gia hạn. Tính tới
ngày đến hạn số tiết kiệm ngày 05/03/2024: Số tiền gốc, lãi tiền gửi tạm tính
207.480.600 đồng. Ngân hàng N - Chi nhánh K có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền gốc
và lãi theo quy định của pháp luật.
*Quá trình tham gia tố tụng người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Thị
M trình bày: Chồng M Nguyễn Văn T2 (đã chết năm 2010) bà ông T2 02
người con là Nguyễn Vũ T và Nguyễn Thành P. Năm 2014 mẹ ông T2 Trần Thị
M1 đã chết có để lại một số tài sản: thửa đất số 404, tờ bản đồ số 3 có diện tích là 1.052
m
2
và 1 sổ tiết kiệm 100.000.000 đồng tại Ngân hàng N -Chi nhánh K.
Nay ông K khởi kiện đnghị chia di sản của Trần Thị M1 theo quy định của
pháp luật, thì bà không có ý kiến gì.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến vgii quyết v án: Việc tuân theo pháp luật tố tụng
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định
của Bộ luật tố tng dân s năm 2015. Việc chấp hành pháp lut ca người tham gia tố
tụng: Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền nghĩa v ca mình theo quy định tại các
điều 70 đến 72, Điều 77, Điều 78 Bộ luật tố tụng dân s năm 2015.
Về việc giải quyết v án: Căn cứ khoản 5 Điều 26, Điều 35, Điều 39, các Điều 609,
610, 611, 612, 613, 616, 618, 623, 649, 650, 651, 652, 660 BLDS năm 2015; Áp dụng
điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH17 ngày 30/12/2016 của U
ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án:
Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Văn K.
Cần chia di sản thừa kế của Trần Thị M1 như sau: Đối với stiết kiệm thì đề
nghị chia làm 04 phần cho hàng thừa kế thứ nhất; Đối với Quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 104, tờ bản đồ số 3, diện tích 1052m
2
, do UBND huyện K cấp ngày
01/9/2010, mang tên bà Trần Thị M1, đề nghị chia làm 04 phần mỗi phần là 58.077.000
đồng.
Giao quyền sử dụng đất cho ông H quản lý sử dụng. Ông H phải hoàn trả kỷ phần
của người thừa kế còn lại Nguyễn Tiến V, ông Nguyễn Văn K số tiền 58.077.000
đồng, 2 người con người thừa kế thế vị của ông Nguyễn Văn T2 Nguyễn T,
Nguyễn Thành P mỗi người 29.038.500 đồng.
Các đương sự có quyền liên hệ với Ngân hàng N để nhận số tiền được hưởng. Mỗi
người được hưởng 51.870.150 đồng và lãi phát sinh đến ngày nhận.
Ngoài ra kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX giải quyết tiền chi phí tố tụng, tiền án
phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
7
Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã trong hồ vụ án, lời trình bày lời tranh
luận của các đương sự tại phiên toà, HĐXX nhận định:
[1] Vquan hệ tranh chấp thẩm quyền: Căn cứ đơn khởi kiện của nguyên đơn
ông Nguyễn Văn K, Toà án nhân dân huyện Krông Ana xác định quan hệ pháp luật tranh
chấp “Tranh chấp về thừa kế tài sản” theo quy định tại khoản 5 Điều 26; điểm a khoản
1 Điều 35 điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Tiến V, ông Nguyễn Vũ T, ông Nguyễn Thành P, người đại diện
theo ủy quyền Ngân hàng N đã đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, HĐXX áp dụng
Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt là đảm bảo đúng quy định
pháp luật.
[3] Về thời điểm mở thừa kế thời hiệu chia thừa kế: Trần Thị M1 chết ngày
28/02/2014 không để lại di chúc về tài sản. Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự
năm 2015 về thời hiệu thừa kế đối với bất động sản 30 năm, động sản 10 năm, Ngày
12/12/2023 ông Nguyễn Văn K khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của Trần Thị
M1 còn trong thời hiệu pháp luật quy định. Theo quy định tại Điều 611 Bộ luật Dân
sự năm 2015 thì ngày chết của Trần Thị M1 là thời điểm mở thừa kế của họ. Xác định
thời điểm mở thừa kế của bà Trần Thị M1 là ngày 28/02/2014.
[4] Về hàng thừa kế: Bà Trần Thị M1 có bố Cụ Trần Đăng R, sinh năm 1907
mất năm 1997; mẹ là cụ Nguyễn Thị H2, sinh năm: 1907 và mất năm 1982.
Khoảng năm 1958 bà Trần Thị M1 sống chung với ông Nguyễn Văn V2, đến năm
1973 thì Trần Thị M1 ông Nguyễn Văn V2 không chung sống với nhau nữa, ông
V2 đã bỏ đi và kết hôn với người phụ nữ khác.
Quá trình chung sống thì M1 ông V2 05 người con chung là: Ông Nguyễn
Tiến V, sinh năm: 1960; Ông Nguyễn Văn H3, sinh năm: 1962 chết năm 1963; Ông
Nguyễn Văn T2, sinh năm: 1964 chết năm: 2010; Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1969;
Ông Nguyễn Văn K, sinh năm: 1973.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015, Hội đồng xét xử xác định hàng
thừa kế thứ nhất của Trần Thị M1 gồm: ông Nguyễn Tiến V, ông Nguyễn Văn T2,
ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Văn K. Do ông Nguyễn Văn T2 (chết năm 2010) chết
trước Trần Thị M1 (bà M1 chết năm 2014), nên ông Nguyễn T, ông Nguyễn
Thành P (con ông T2) là thừa kế thế vị theo Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[5] Quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 404, tờ bản đồ số 3, diện tích thực tế theo
kết quả đo đạc của đo đạc Công ty TNHH Đ 1075.5 m
2
, do UBND huyện K cấp ngày
01/9/2010 cho bà Trần Thị M1, ông Nguyễn Văn H là cho rằng bà Trần Thị M1 đã chia
cho ông H khi còn sống. Tuy nhiên, nguyên đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
8
liên quan không thừa nhận sự việc trên. Ông H cũng không cung cấp được chứng cứ
chứng minh việc M1 đã chia cho ông H quyền sử dụng đất trên. Do vậy, việc ông H
không chấp nhận chia thừa kế đối với phần diện tích đất trên của bà M1 là không được
chấp nhận.
Hội đồng xét xxác định: Thửa đất số: 404, tờ bản đồ số: 03, diện tích đất được
cấp là 1052 m
2
, diện tích đất thực tế theo kết quả đo là 1075.5m
2
tại thị trấn B, huyện K,
tỉnh Đắk Lắk, giá trị đất theo giá thị trường 258.120.000 đồng; 01 sổ tiết kiệm gửi tại
Ngân hàng N - Chi nhánh K tổng số tiền: 207.480.600 đồng (trong đó tiền gốc:
100.000.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 04/3/2024 là 107.480.600 đồng) là di sản thửa
kế của bà M1 chết không để lại di chúc. Đối với cây trồng trên đất thì các đương sự đều
thống nhất do ông Nguyễn Văn H trồng, đầu chăm sóc, thu hoạch nên cần xác
định chi phí tôn tạo, quản lý di sản cho ông H và tài sản trên đất bao gồm: 01 hàng rào
tạm; 40 cây cà phê trồng năm 2021; 03 cây vải trồng năm 2021; 50 cây cam cara trồng
năm 2021; 15 cây sầu riêng trồng năm 2021; 40 cây núc nác trồng năm 2021 tổng g
trị là 56.594.000 đồng là tài sản của ông H tạo lập.
Cần tính chi phí quản lý, tôn tạo di sản của ông H đối với thửa đất số: 404, tờ bản
đồ số: 03, diện tích đất được cấp 1052 m
2
, diện tích đất thực tế theo kết quả đo
1075.5m
2
tại thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk 10% cụ thể: 258.120.000 đồng x 10%
= 25.812.000 đồng. Giá trị di sản còn lại để chia thừa kế là 232.308.000 đồng, chia cho
hàng thừa kế thứ nhất thừa kế thế vị cụ thể mỗi kỷ phần được hưởng là: 58.077.000
đồng. Do ông Nguyễn Văn T2 (chết năm 2010) chết trước bà Trần Thị M1 (bà M1 chết
năm 2014), nên ông Nguyễn T, ông Nguyễn Thành P được thừa kế thế vị là:
29.038.500 đồng.
Do thửa đất số 404, tờ bản đồ số 3, diện tích đất được cấp là 1052 m
2
, diện tích đất
thực tế theo kết quả đo 1075.5m
2
, do UBND huyện K cấp ngày 01/9/2010, cho
Trần Thị M1 là đất trồng cây công nghiệp lâu năm, diện tích nhỏ và ttrước tới nay ông
H người quản lý, đầu từ chăm sóc và toàn bộ cây trồng trên đất đều của ông H, ông H
có nguyện vọng được tiếp tục canh tác trên thửa đất. Do đó giao quyền sử dụng đất cho
ông H quản lý sử dụng và định đoạt là phợp. Ông H phải hoàn trả kỷ phần của người
thừa kế còn lại là Nguyễn Tiến V, ông Nguyễn Văn K mỗi người 58.077.000 đồng, hoàn
trả kỷ phần cho ông Nguyễn T, ông Nguyễn Thành P thừa kế thế vị mỗi người
29.038.500 đồng.
01 sổ tiết kiệm mở tại ngân hàng N- Chi nhánh huyện K vào ngày 04 tháng 3 năm
2013 với số tiền 100.000.000 đồng. Tính đến ngày 05/3/2024, số tiền cả gốc lãi tạm
tính 207.480.600 đồng, cần chia 4 phần bằng nhau, mỗi kỷ phần 51.870.150 đồng
(gồm tiền gốc: 25.000.000 đồng + tiền lãi 26.870.150 đồng). Phần của ông T2 chia đều
9
cho thừa kế thế vị cháu Nguyễn T và Nguyễn Thành P mỗi người được nhận kỷ phần
là 25.935.075 đồng (gồm tiền gốc: 12.500.000 đồng+ tiền lãi 13.435.075 đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự được quyền liên hệ với Ngân hàng
N - Chi nhánh K để nhận số tiền được hưởng và Ngân hàng N - Chi nhánh K trách
nhiệm trả các đương sự.
Các đương sự tiếp tục được nhận tiền lãi theo hợp đồng gửi tiết kiệm trên số tiền
gốc tương ứng của từng người kể từ ngày 06/3/2024 (Hợp đồng gửi tiết kiệm: Số sổ tiết
kiệm AL 4107564, ngày gửi 04/03/2013, kỳ hạn 12 tháng, tên Trần Thị M1).
[6] Vchi ptố tụng: Để căn cứ giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Krông
Ana đã tiến hành trích đo địa chính thửa đất, xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản
chi phí hết tổng số tiền 10.000.000 đồng. Cần buộc các đương sự phải chịu giữa trên
phần giá trị tài sản được nhận.
[7] Ván phí: Các đương sự phải chịu 5% án phí dân sự sơ thẩm đối với phần di
sản mình được nhận thừa kế.
[8] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh
Đắk Lắk là phù hợp nên HĐXX cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 5 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều
147; Điều 156; Điều 157; Điều 158; Điều 163; Điều 164; Điều 165, Điều 166; Điều 227;
Điều 228; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 609, Điều 610, Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 616, Điều 618,
Điều 623, Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 652, khoản 2 Điều 660 của Bộ luật dân
sự năm 2015;
Căn cứ điểm a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH-14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn K v
việc chia di sản thừa kế của bà Trần Thị M1.
1. Xác định thửa đất s404, tờ bản đồ số: 03, tại thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk,
được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 643197
cho bà Trần Thị M1 vào ngày 01/9/2010, diện tích đất còn lại: 1052 m
2
(diện tích đất
thực tế theo kết quả đo đạc của Công ty TNHH Đ 1075.5 m
2
) giá trị 232.308.000 đồng;
01 sổ tiết kiệm gửi tại Ngân hàng N - Chi nhánh K tổng số tiền: 207.480.600 đồng (trong
10
đó tiền gốc: 100.000.000 đồng, tiền lãi tính đến ngày 05/3/2024 107.480.600 đồng)
là di sản thửa kế.
Phân chia di sản thừa kế: Mỗi kỷ phần được hưởng giá trị: 109.947.150 đồng.
2. Giao cho ông Nguyễn Văn H được quyền sở hữu (bao gồm quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng quyền định đoạt) khối tài sản diện tích đất thực tế theo kết quả đo
của Công ty TNHH Đ 1075.5m
2
, thửa đất số: 404, tbản đồ số: 03, tại thị trấn B,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk và toàn bộ tài sản trên đất.
Ông Nguyễn Văn H nghĩa vụ đến quan nhà nước thẩm quyền để điều chỉnh
lại diện tích đất và đăng ký biến động quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Buộc ông Nguyễn Văn H nghĩa vụ thanh toán cho các đồng thừa kế còn lại và
thừa kế thế vị gồm: Thanh toán cho ông Nguyễn Văn K và cho ông Nguyễn Tiến V mỗi
người 58.077.000 đồng (năm mươi tám triệu, không trăm bảy mươi bảy nghìn đồng).
Thanh toán cho ông Nguyễn T và ông Nguyễn Thành P mỗi người: 29.038.500
đồng (hai mươi chín triệu không trăm ba mươi tám nghìn năm trăm đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các
khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của stiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bluật dân sự năm
2015.
3. Khi bản án hiệu lực pháp luật, các đương sđược quyền liên hệ với Ngân
hàng N - Chi nhánh K đnhận số tiền được hưởng Ngân hàng N - Chi nhánh K
trách nhiệm trả các đương sự, cụ thể:
Ông Nguyễn Văn K, ông Nguyễn Văn H ông Nguyễn Tiến V mỗi người được
nhận kỷ phần 51.870.150 đồng (gồm tiền gốc: 25.000.000 đồng + tiền lãi 26.870.150
đồng).
Ông Nguyễn T ông Nguyễn Thành P mỗi người được nhận kỷ phần
25.935.075 đồng (gồm tiền gốc: 12.500.000 đồng+ tiền lãi 13.435.075 đồng).
Các đương sự tiếp tục được nhận tiền lãi theo hợp đồng gửi tiết kiệm trên số tiền
gốc tương ứng của từng người kể từ ngày 06/3/2024 (Hợp đồng gửi tiết kiệm: Số sổ tiết
kiệm AL 4107564, ngày gửi 04/03/2013, kỳ hạn 12 tháng, tên Trần Thị M1).
4. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Văn K, ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Tiến
V mỗi người phải chịu 2.500.000 đồng, ông Nguyễn T, ông Nguyễn Thành P mỗi
người phải chịu 1.250.000 đồng, tiền chi phí trích đo địa chính thửa đất, chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ định giá tài sản. Số tiền này ông Nguyễn Văn K đã nộp tạm ứng,
nên ông Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Tiến V mỗi người phải trả cho ông K 2.500.000
đồng. Ông Nguyễn Vũ T, ông Nguyễn Thành P mỗi người phải trả cho ông K 1.250.000
đồng.
11
5. Về án phí: Ông Nguyễn Văn K, ông Nguyễn Văn H và ông Nguyễn Tiến V mỗi
người phải chịu là 5.497.000 đồng (năm triệu bốn trăm chín mươi bảy nghìn đồng) tiền
án phí dân sự thẩm. Ông Nguyễn T, ông Nguyễn Thành P mỗi người phải chịu
2.749.000 đồng (hai triệu bảy trăm bốn mươi chín nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Văn K được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.500.000
đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số AA/2021/0015711 ngày
20/12/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Ana. Ông Nguyễn Văn K còn
phải nộp 3.997.000 đồng (ba triệu chín trăm chín mươi bảy nghìn đồng) án phí dân sự
sơ thẩm.
6. Nguyên đơn, bị đơn, người đại diện hợp pháp cho bị đơn, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng
cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết hợp lệ.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật THADS thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 Điều 9 Luật THADS; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật THADS.
Nơi nhn:
- VKSND tnh Đắk Lk;
- TAND tnh Đắk Lk;
- VKSND huyn Krông Ana;
- Chi cc THADS huyn Krông Ana;
- Các đương s;
- Lưu VP, H sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Chu Anh Hùng
12
13
Tải về
Bản án số 21/2024/DS-ST Bản án số 21/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 21/2024/DS-ST Bản án số 21/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất