Bản án số 204/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 204/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 204/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 204/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 204/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh An Giang |
Số hiệu: | 204/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Võ Thị Mỹ D - Trần Thị Nầy Y |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 204/2024/DS-PT
Ngày 05 tháng 9 năm 2024
V/v tranh chấp “Hợp đồng
góp hụi”, “Hợp đồng
vay tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Giao
Các Thẩm phán: Ông Lâm Thuận Tùng và bà Trịnh Ngọc Thúy
- Thư ký phiên tòa: Ông Lý Trương Khang – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
An Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên toà: Bà
Lương Thị Hương - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 125/2024/TLPT-DS ngày 06 tháng 6
năm 2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi; Hợp đồng vay tài sản”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 133/2024/DS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 218/2024/QĐ-PT ngày 26
tháng 7 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 243/2024/QĐ-PT ngày 14 tháng 8
năm 2024, giữa:
1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Mỹ D, sinh năm 1977; nơi cư trú: Số F, khóm T,
phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt).
Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Phú H, sinh năm 1984;
nơi cư trú: ấp B, xã B, huyện C, tỉnh An Giang (theo văn bản uỷ quyền ngày
30/01/2024 – có mặt).
2. Bị đơn:
2.1. Bà Trần Thị Nầy Y (tên khác: D1), sinh năm 1960 (vắng mặt).
2.2. Bà Nguyễn Ngọc B (tên khác: B1), sinh năm 1985 (có mặt)
Cùng nơi cư trú: Số G, đường N, Khóm B, phường M, thành phố L, tỉnh An
Giang.
2
Đại diện theo ủy quyền của đồng bị đơn bà Trần Thị Nầy Y: ông Huỳnh Thảo
L, sinh năm 1982; nơi cư trú: Số A, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang
(theo văn bản uỷ quyền ngày 07/3/2024 – có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Ngô Thị H1, sinh năm 1971; nơi cư trú: Số C, hẻm I, khóm Đ, phường
M, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt).
3.2. Chị Lê Thị Hoàng K, sinh ngày 06/5/2006; nơi cư trú: Số F, khóm T,
phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt).
3.3. Ông Trịnh Đ, sinh năm 1975; nơi cư trú: ấp H, xã Đ, huyện T, tỉnh An
Giang (vắng mặt).
3.4. Bà Nguyễn Thị Thanh N (tên khác: C), sinh năm 1983; nơi cư trú: Số E,
đường P, khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Bà Trần Thị Nầy Y – bị đơn.
Nguyên đơn, đồng bị đơn bà Nguyễn Ngọc B, những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Hồ sơ án sơ thẩm thể hiện:
Theo đơn khởi kiện của bà Võ Thị Mỹ D và trong quá trình giải quyết vụ án,
người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Nguyễn Phú H trình bày:
Trong năm 2022, bà D có tham gia nhiều dây hụi do bà Trần Thị Nầy Y (tự
D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tự Ben) làm chủ. Quá trình tham gia hụi được một thời
gian, bà Nầy Y và bà B tuyên bố không tiếp tục mở hụi, cụ thể như sau:
- Dây hụi 5.000.000 đồng/nửa tháng: mở hụi kỳ đầu tiên ngày 30/4/2022 âm
lịch (không có trong âm lịch nên mở vào ngày 01/5/2022 âm lịch, tức ngày 30/5/2022
dương lịch), kết thúc ngày 30/8/2023 âm lịch (do năm 2023 có 02 Tháng hai âm
lịch), gồm có 35 phần, khui hụi ngày 15 và 30 âm lịch hàng tháng, tiền hoa hồng
2.500.000 đồng. Bà D tham gia 02 phần (số thứ tự tại sổ hụi là 13, 14 tên Chị D). Bà
D đã hốt 01 phần hụi vào kỳ thứ 3 và đã nhận đủ tiền hốt. Ngoài ra, bà D có chơi hụi
thay cho Nguyễn Thị Thanh N (tên ghi trong sổ hụi là CHÂU, số thứ tự 15, 16, 17,
20, 21, 22), Trịnh Đ (tên ghi trong sổ hụi là ANH ĐIỀN, số thứ tự 18, 19), Lê Thị
Hoàng K (tên trong sổ hụi là KIM, số thứ tự 23, 24). Bà là người trực tiếp nộp tiền
hụi thay cho chị N, anh Đ, chị K. Hụi khui được 25 lần, bà Nầy Y và bà B tuyên bố
ngưng không mở nữa. Đến ngày 29/3/2023 âm lịch (tức ngày 18/5/2023 dương lịch),
bà D đã đóng được 25 kỳ, gồm 01 chân hụi chết (kỳ 3 hốt) và 11 chân hụi sống. Do
bà D là người thay mặt hụi viên tên C, Anh Đ1, K tham gia nên sau khi bà Y, bà B
không giao tiền hụi đúng kỳ hạn, bà D đã đứng ra chi trả số tiền hụi cho:
+ Chị Nguyễn Thị Thanh N, tên trong sổ hụi là CHÂU (6 chân hụi) số tiền:
735.000.000 đồng.
3
+ Anh Trịnh Đ, tên trong sổ hụi là ANH ĐIỀN (2 chân hụi) số tiền:
245.000.000 đồng.
+ Chị Lê Thị Hoàng K, tên trong sổ hụi là KIM (2 chân hụi) số tiền:
245.000.000 đồng.
Do bà D trả số tiền hụi của 10 chân hụi sống trong dây hụi này cho chị N, anh
Đ, chị K là 1.225.000.000 đồng, cộng thêm 01 phần hụi sống của bà D, (tên trong sổ
hụi là CHỊ DUYÊN) với số tiền là 122.500.000 đồng nên bà Y và bà B phải trả lại
cho bà Duyên số tiền là 1.347.500.000 đồng.
- Dây hụi 3.000.000 đồng/10 ngày: mở hụi kỳ đầu tiên ngày 02/5/2022 âm
lịch (tức ngày 31/5/2022 dương lịch), kết thúc ngày 02/7/2023 âm lịch (do năm 2023
có 02 Tháng hai âm lịch và ngày 02/01/2023 âm lịch nghỉ Tết nên không khui), gồm
có 45 phần. Tiền hoa hồng 1.500.000 đồng. Hụi khui vào các ngày 02, 12 và 22 âm
lịch hàng tháng. Bà D tham gia 03 phần (số thứ tự theo sổ hụi là 14, 15, 16 tên Chị
D). Ngoài ra, bà D có chơi hụi thay cho Nguyễn Thị Thanh N (tên ghi trong sổ hụi
là CHÂU, số thứ tự 17, 18), Ngô Thị H1 (tên ghi trong sổ hụi là DÌ HIẾU, số thứ tự
22, 23), Lê Thị Hoàng K (tên trong sổ hụi là KIM, số thứ tự 19, 20, 21). Bà là người
trực tiếp nộp tiền hụi thay cho chị N, chị H1, chị K. Hụi khui được 39 lần, bà Nầy Y
và bà B ngưng không khui nữa. Đến ngày 02/5/2023 âm lịch (tức ngày 19/6/2023
dương lịch), bà D đã đóng được 39 kỳ hụi của 10 chân hụi sống. Từ kỳ thứ 40, bà
Nầy Y, bà B không tiếp tục thực hiện dây hụi này nữa. Do bà D là người thay mặt
C, Anh Đ1, K tham gia của bà Y, bà B nên sau khi bà Y, bà B không giao tiền hụi
đúng kỳ hạn, bà D đã đứng ra chi trả số tiền hụi cho:
+ Bà Nguyễn Thị Thanh N, tên trong sổ hụi là CHÂU (2 chân hụi) số tiền:
231.000.000 đồng.
+ Bà Lê Thị Hoàng K, tên trong sổ hụi là KIM (3 chân hụi) số tiền:
346.500.000 đồng.
+ Chị Ngô Thị H1, tên trong sổ hụi là DÌ HIẾU (2 chân hụi) số tiền:
231.000.000 đồng.
Do bà D trả số tiền hụi của 07 chân hụi sống trong dây hụi này cho bà N, bà
K là 808.500.000 đồng, cộng với 03 phần hụi sống của bà D (tên trong sổ hụi là CHỊ
DUYÊN) với số tiền là 346.500.000 đồng nên bà Y và chị B phải trả lại cho bà
Duyên số tiền: 1.155.000.000 đồng.
- Dây hụi 2.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 16/10/2022 âm lịch
(tức ngày 09/11/2022 dương lịch), kết thúc ngày 06/3/2024 âm lịch (do năm 2023
có 02 Tháng hai âm lịch), gồm có 55 phần. Tiền hoa hồng 1.000.000 đồng, hụi khui
vào các ngày 06, 16 và 26 âm lịch hàng tháng. Bà D tham gia 03 phần (số thứ tự là
44, 45, 66 tên Chị D). Ngoài ra, bà D có chơi hụi thay cho Nguyễn Thị Thanh N (tên
ghi trong sổ hụi là CHÂU, số thứ tự 51, 52, 53), anh Trịnh Đ (tên ghi trong sổ hụi là
ANH ĐIỀN, số thứ tự 54, 55), Lê Thị Hoàng K (tên trong sổ hụi là KIM, số thứ tự
47, 48, 19, 50). Bà là người trực tiếp nộp tiền hụi thay cho chị N, anh Đ, chị K. Đến
ngày 26/4/2023 âm lịch (tức ngày 13/6/2023 dương lịch), bà D đã đóng được 24 kỳ
4
hụi của 12 chân hụi sống. Từ kỳ thứ 25 đến nay, bà Y, chị Bông n không mở hụi này
nữa. Do bà D là người thay mặt C, Anh Đ1, K tham gia hụi của bà Y, bà B nên sau
khi bà Y, bà B không giao tiền hụi đúng kỳ hạn, bà D đã đứng ra chi trả số tiền hụi
cho:
+ Chị Nguyễn Thị Thanh N, tên trong sổ hụi là CHÂU (3 chân hụi) số tiền:
141.000.000 đồng.
+ Anh Trịnh Đ, tên trong sổ hụi là ANH ĐIỀN (2 chân hụi) số tiền: 94.000.000
đồng.
+ Chị Lê Thị Hoàng K, tên trong sổ hụi là KIM (4 chân hụi) số tiền:
188.000.000 đồng.
Do bà D trả số tiền hụi của 09 chân hụi sống trong dây hụi này cho chị N, anh
Đ, chị K là 423.000.000 đồng, cộng thêm 03 phần hụi sống của bà D (tên trong sổ
hụi là CHỊ DUYÊN) với số tiền là 141.000.000 đồng nên bà Y và bà B phải trả lại
cho bà Duyên số tiền 564.000.000 đồng.
- Dây hụi 2.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 10/02/2023 âm lịch
(tức ngày 01/3/2023 dương lịch), kết thúc ngày 10/02/2024 âm lịch (do năm 2023
có 02 Tháng hai âm lịch). Hụi gồm 40 phần, tiền hoa hồng 1.000.000 đồng, hụi khui
vào các ngày 10, 20 và 30 âm lịch hàng tháng. Bà D tham gia 04 phần (số thứ tự là
29, 30, 36, 37 tên CHỊ DUYÊN). Ngoài ra, bà D có chơi hụi thay cho chị Ngô Thị
H1 (tên ghi trong sổ hụi là CHỊ HIẾU, số thứ tự 21, 22, 23), anh Trịnh Đ (tên ghi
trong sổ hụi là ANH ĐIỀN, số thứ tự 31, 32, 33). Bà D là người trực tiếp nộp tiền
hụi thay cho chị H1 và anh Đ. Đến ngày 20/4/2023 âm lịch (tức ngày 07/6/2023
dương lịch), bà D đã đóng được 11 kỳ hụi của 10 chân hụi sống. Từ kỳ thứ 12 đến
nay thì bà Y, chị Bông n không mở hụi này nữa. Do bà D là người thay mặt anh Đ,
chị H1 tham gia hụi của bà Y, chị B nên sau khi bà Y, bà B không giao tiền hụi đúng
kỳ hạn, bà D đã đứng ra chi trả số tiền hụi cho:
+ Anh Trịnh Đ, tên trong sổ hụi là ANH ĐIỀN (3 chân hụi) số tiền: 63.000.000
đồng.
+ Chị Ngô Thị H1, tên trong sổ hụi là CHỊ HIẾU (3 chân hụi) số tiền:
63.000.000 đồng.
Do bà D trả số tiền hụi của 06 chân hụi sống trong dây hụi này cho anh Đ, chị
H1 là 126.000.000 đồng, công thêm 04 phần hụi sống của bà D (tên trong sổ hụi là
CHỊ DUYÊN) với số tiền là 84.000.000 đồng nên bà Y và chị B phải trả lại cho bà
Duyên số tiền 210.000.000 đồng.
Như vậy, tổng số tiền hụi của cả 04 dây hụi nêu trên, bà Y và bà B phải trả
cho bà D là:
1.347.500.000 đồng + 1.155.000.000 đồng + 564.000.000 đồng +
210.000.000 đồng = 3.276.500.000 đồng.
Thời gian qua, giữa bà D và bà Nầy Y, bà B có ngồi lại tính toán phần tiền
hụi còn nợ và các bên thống nhất được số tiền hụi bà B, bà Nầy Y phải trả cho bà D
5
là 3.138.000.000 đồng. Sau đó, bà B, bà Nầy Y đã trả cho bà D được 424.000.000
đồng vào các ngày:
- Ngày 10/6/2023 âm lịch (tức ngày 27/7/2023 dương lịch) trả 150.000.000
đồng;
- Ngày 15/6/2023 âm lịch (tức ngày 01/8/2023 dương lịch) trả 20.000.000
đồng;
- Ngày 29/8/2023 âm lịch (tức ngày 13/10/2023 dương lịch) trả 59.000.000
đồng và sau đó trả thêm 195.000.000 đồng.
Như vậy, bà B và bà Nầy Y còn nợ tiền hụi là 2.714.000.000 đồng.
Ngoài ra, do có quan hệ quen biết, bà B có nhu cầu vay tiền để kinh doanh và
trả nợ nên vay của bà Duyên số tiền 900.000.000 đồng, cụ thể:
- Lần 01: Ngày 19/01/2022, bà B vay của bà D 400.000.000 đồng.
- Lần 02: Ngày 22/01/2022, bà B vay của bà D 500.000.000 đồng.
Khi vay, bà B viết Biên nhận tiền ngày 19/01/2022 và ngày 22/01/2022. Bà D
và bà B thỏa thuận miệng lãi suất 1,5%/tháng, thời hạn trả vốn, lãi là 03 tháng kể từ
ngày vay tiền. Phương thức trả vốn 01 lần. Đến nay, bà B chưa trả vốn lãi cho bà D.
Nay, bà D yêu cầu bà Nầy Y và chị B phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà
Duyên số tiền hụi còn nợ là 2.714.000.000 đồng và trả lãi chậm trả tiền hụi với lãi
suất theo quy định của pháp luật, tính từ ngày chốt hụi là ngày 13/10/2023. Bà D
yêu cầu bà B có nghĩa vụ trả vốn 900.000.000 đồng.
* Theo Tờ tự khai đề ngày 05/3/2024 và trong quá trình giải quyết vụ án, đồng
bị đơn là bà Nguyễn Ngọc B trình bày:
Bà thừa nhận có làm chủ của 04 dây hụi mà bà D khởi kiện, thành viên tham
gia hụi là những người buôn bán ở chợ M1, đã tham gia hụi lâu năm do mẹ bà làm
chủ. Bà D và những người quen với bà D mới tham gia hụi khoảng 03 năm nay. Ban
đầu, hụi được khui công khai tại nhà của bà. Sau đó, bà khui hụi tại sạp bán hàng
của bà D. Lý do bà tuyên bố không mở hụi nữa là do dây hụi 3.000.000 đồng (10
ngày khui 01 lần) có thành viên đã lĩnh hụi nhiều dây hụi nhưng không nộp lại hụi
chết nên bà không còn khả năng để tràn hụi. Thời gian qua, bà có thoả thuận trả nợ
hụi dần cho các thành viên khác và được sự đồng ý của họ. Bà và bà D có ngồi lại
tính toán và sau khi cấn trừ, bà còn nợ bà D là 3.138.000.000 đồng. Sau đó, bà có
trả 04 lần được 424.000.000 đồng. Đến ngày 13/10/2023, bà và bà D thống nhất bà
còn nợ tiền hụi của 04 dây hụi là 2.714.000.000 đồng. Sổ tính hụi ngày 13/10/2023
là do bà ghi có sự thống nhất của bà D. Đối với người chơi hụi là H1, K, Đ, N, quá
trình tham gia hụi do bà D là người trực tiếp nộp tiền hụi thay họ, bà là người nhận
tiền hụi trực tiếp của bà D nên bà thống nhất ý kiến của bà D, trả lại tiền hụi cho bà
D.
Mẹ của bà trước đây làm chủ hụi nhiều năm ở khu vực Chợ M1. Sau này, giao
lại cho bà làm, khi bà mở hụi và phát hành sổ hụi mang tên của bà thì ít người tham
gia nên bà đã phát hành sổ hụi ghi tên chủ hụi là mẹ bà nhiều năm qua. Bà thống
6
nhất với lời trình bày của mẹ bà về việc mẹ bà không phải là chủ của các dây hụi mà
chị D tham gia và nay khởi kiện. Mẹ bà đã nghỉ làm hụi từ khi bà 22 tuổi đến nay.
Các sổ hụi là do bà phát hành giao cho các hụi viên, bà ghi chủ hụi là Trần Thị Nầy
Y là do bà muốn mượn tên của mẹ bà để làm ăn. Mẹ của bà hoàn toàn không biết gì
và cũng không biết chữ.
Ngoài ra, bà có vay của bà Duyên số tiền là 900.000.000 đồng như bà D yêu
cầu. Thời gian qua, bà có nộp lãi đều đặn là 36.000.000 đồng mỗi tháng, tức lãi suất
4%/01 tháng. Nộp lãi đến tháng 09 năm 2023 ngưng và bà có xin không tính lãi.
Việc trả lãi là bà D có ghi sổ, bà D là người giữ sổ. Ngoài những hình ảnh bà đã nộp
cho Toà án thì bà không còn tài liệu nào khác. Nay, bà xin được trừ số tiền bà nộp
lãi được 360.000.000 đồng vào tiền vốn vay 900.000.000 đồng, bà xin không nộp
lãi nữa.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, đồng bị đơn là bà Trần Thị Nầy Y trình
bày:
Bà không phải là chủ của 04 dây hụi này mà bà D khởi kiện. Khoảng hơn 10
năm trước, bà có làm chủ hụi sau đó nghỉ và giao lại con gái tên Nguyễn Ngọc B
làm. Bốn dây hụi bà D khởi kiện là do B làm chủ hụi, bà hoàn toàn không biết, không
biết bà D là ai, chưa từng nhận tiền hụi từ bà D, không hưởng hoa hồng từ các dây
hụi này. Việc chốt tiền hụi còn nợ là giữa B và D tự chốt với nhau, bà không biết.
Do đó, bà không đồng ý liên đới với bà B để trả nợ cho D.
* Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày trong quá trình giải
quyết vụ án:
- Theo Tờ tự khai ngày 20/02/2024 của chị Lê Thị Hoàng K (có bà Võ Thị Mỹ
D là người đại diện theo pháp luật xác nhận): Do muốn chơi hụi để có vốn làm ăn
và được bà D là mẹ ruột đồng ý và bảo đảm nên chị đã nhờ bà D thay mặt chị chơi
hụi với bà Y và bà B, bao gồm các dây hụi:
+ Dây hụi 5.000.000 đồng/15 ngày, mở ngày 30/4/2022 âm lịch (tức ngày
30/5/2022 dương lịch), kết thúc ngày 30/8/2023 âm lịch (do năm 2023 có 02 tháng
Hai âm lịch). Khui hụi vào ngày 15 và 30 âm lịch. Tiền hoa hồng 2.500.000 đồng.
Hụi có 35 phần, chị tham gia 02 phần, số thứ tự theo sổ hụi là 23, 24 tên K. Quá
trình tham gia hụi, chị đã giao tiền cho mẹ chị để nộp cho chủ hụi. Đến ngày
29/3/2023 âm lịch (tức ngày 18/5/2023 dương lịch), chị đã đóng được 25 kỳ của 02
phần hụi sống. Đến kỳ thứ 26, bà Y, bà B không tiếp tục khui hụi nữa.
+ Dây hụi 3.000.000 đồng/10 ngày, mở ngày 02/5/2022 âm lịch (tức ngày
31/5/2022 dương lịch), kết thúc ngày 02/7/2023 âm lịch (do năm 2023 có 02 tháng
Hai âm lịch và ngày 02/01/2023 âm lịch nghỉ Tết nên không khui), tiền hoa hồng
1.500.000 đồng. Hụi khui vào các ngày 02, 12, 22 âm lịch. Hụi có 45 phần, chị tham
gia 03 phần, số thứ tự theo sổ hụi là 19, 20, 21 tên KIM. Quá trình tham hụi, chị đã
giao tiền cho mẹ chị để nộp cho chủ hụi. Đến ngày 02/5/2023 âm lịch (tức ngày
19/6/2023 dương lịch), chị đã đóng được 39 kỳ hụi của 03 phần hụi sống. Từ kỳ thứ
40 đến, bà Y, chị B không tiếp tục khui dây hụi này nữa.
7
+ Hụi 2.000.000 đồng/10 ngày, mở ngày 16/10/2022 âm lịch (tức ngày
09/11/2022 dương lịch), kết thúc vào ngày 06/3/2024 (tức ngày 13/6/2023 dương
lịch). Khui hụi vào các ngày 6, 16, 26 âm lịch. Tiền hoa hồng là 1.000.000 đồng.
Hụi gồm có 55 phần. Chị tham gia 04 phần là số thứ tự tại sổ hụi gồm 47, 48, 49, 50
tên KIM. Quá trình tham gia hụi, dến ngày 26/4/2023 âm lịch (tức ngày 13/6/2023
dương lịch) chị đã nộp được 24 kỳ hụi của 04 chân hụi sống. Từ kỳ thứ 25, bà Y, bà
B không tiếp tục thực hiện dây hụi này nữa.
Sau đó chị và mẹ chị có thoả thuận, mẹ chị trả lại chị số tiền hụi của 03 dây
hụi đáng lẽ ra chị nhận được trong trường hợp dây hụi được hoàn thành với tổng số
tiền là 779.500.000 đồng, cụ thể:
Dây hụi 5.000.000 đồng: (25 x 5.000.000 – 2.500.000) x 2 = 245.000.000
đồng.
Dây hụi 3.000.000 đồng: (39 x 3.000.000 – 1.500.000) x 3 = 346.500.000
đồng.
Dây hụi 2.000.000 đồng: (24 x 2.000.000 – 1.000.000) x 4 = 188.000.000
đồng.
Mẹ của bà đã trả đủ số tiền hụi cho bà nên bà không có tranh chấp gì trong vụ
án này.
- Theo Tờ tự khai ngày 20/02/2024 của bà Nguyễn Thị Thanh N trình bày: Do
có mối quan hệ quen biết với bà D nên bà có nhờ bà D tham gia nhiều dây hụi cho
bà Nầy Y và bà B làm chủ, cụ thể:
Dây hụi 5.000.000 đồng/nửa tháng: mở kỳ đầu tiên ngày 30/4/2022 âm lịch
(tức ngày 30/5/2022 dương lịch), kết thúc ngày 30/8/2023 âm lịch (do năm 2023 có
02 tháng hai âm lịch). Khui hụi vào ngày 15 và 30 âm lịch. Tiền hoa hồng 2.500.000
đồng. Hụi có 35 phần, bà tham gia 06 phần với tên CHÂU, số thứ tự theo sổ hụi là
15, 16, 17, 20, 21, 22. Quá trình tham gia hụi, bà đã giao tiền cho bà D để nộp cho
chủ hụi. Đến ngày 29/3/2023 âm lịch (tức ngày 18/5/2023 dương lịch), bà đã đóng
được 25 kỳ của 06 phần hụi sống. Đến kỳ thứ 26, bà Y, bà B không tiếp tục khui hụi
nữa.
Dây hụi 3.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 02/5/2022 âm lịch (tức
ngày 31/5/2022 dương lịch), kết thúc ngày 02/7/2023 âm lịch (do năm 2023 có 02
tháng Hai âm lịch và ngày 02/01/2023 âm lịch nghỉ Tết nên không khui), tiền hoa
hồng 1.500.000 đồng. Hụi khui vào các ngày 02, 12, 22 âm lịch. Hụi có 45 phần, bà
tham gia 02 phần với tên CHÂU, số thứ tự theo sổ hụi là 17, 18. Quá trình tham hụi,
bà đã giao tiền cho bà D để nộp cho chủ hụi. Đến ngày 02/5/2023 âm lịch (tức ngày
19/6/2023 dương lịch), bà đã đóng được 39 kỳ hụi của 02 phần hụi sống. Từ kỳ thứ
40 đến, bà Y, chị B không tiếp tục khui dây hụi này nữa.
Hụi 2.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 16/10/2022 âm lịch (tức
ngày 09/11/2022 dương lịch), kết thúc vào ngày 06/3/2024 (tức ngày 13/6/2023
dương lịch). Khui hụi vào các ngày 6, 16, 26 âm lịch. Tiền hoa hồng là 1.000.000
đồng. Hụi gồm có 55 phần. Bà tham gia 03 phần tên ANH CHÂU, số thứ tự tại sổ
8
hụi gồm 51, 52, 53. Quá trình tham gia hụi, đến ngày 26/4/2023 âm lịch (tức ngày
13/6/2023 dương lịch) bà đã nộp được 24 kỳ hụi của 3 phần hụi sống. Từ kỳ thứ 25,
bà Y, bà B không tiếp tục thực hiện dây hụi này nữa.
Sau khi bà Nầy Y, bà B tuyên bố dừng hụi, bà có yêu cầu bà D trả lại cho bà
tiền hụi mà đáng lẽ ra bà lĩnh được khi hụi hoàn thành, cụ thể:
Dây hụi 5.000.000 đồng: (25 x 5.000.000 – 2.500.000) x 6 = 735.000.000
đồng.
Dây hụi 3.000.000 đồng: (39 x 3.000.000 – 1.500.000) x 2 = 231.00.000 đồng.
Dây hụi 2.000.000 đồng: (24 x 2.000.000 – 1.000.000) x 3 = 141.000.000
đồng.
Do bà D trả đủ số tiền hụi 1.107.000.000 đồng cho bà nên bà không có tranh
chấp gì trong vụ án này.
- Theo Tờ tự khai ngày 20/02/2024 của bà Ngô Thị H1 trình bày: Do có mối
quan hệ quen biết với bà D nên bà có nhờ bà D tham gia nhiều dây hụi cho bà Nầy
Y và bà B làm chủ, cụ thể:
Dây hụi 3.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 02/5/2022 âm lịch (tức
ngày 31/5/2022 dương lịch), kết thúc ngày 02/7/2023 âm lịch (do năm 2023 có 02
tháng Hai âm lịch và ngày 02/01/2023 âm lịch nghỉ Tết nên không khui), tiền hoa
hồng 1.500.000 đồng. Hụi khui vào các ngày 02, 12, 22 âm lịch. Hụi có 45 phần, bà
tham gia 02 phần với tên DÌ HIẾU, số thứ tự theo sổ hụi là 22, 23. Quá trình tham
hụi, bà đã giao tiền cho bà D để nộp cho chủ hụi. Đến ngày 02/5/2023 âm lịch (tức
ngày 19/6/2023 dương lịch), bà đã đóng được 39 kỳ hụi của 02 phần hụi sống. Từ
kỳ thứ 40 đến, bà Y, bà B không tiếp tục khui dây hụi này nữa.
Hụi 2.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 10/02/2023 âm lịch (tức
ngày 01/3/2023 dương lịch), kết thúc ngày 10/02/2024 âm lịch (do năm 2023 có 02
Tháng Hai âm lịch), hụi mở vào các ngày 10, 20, 30 âm lịch. Tiền hoa hồng
1.000.000 đồng. Hụi gồm có 40 phần. Bà tham gia 03 phần tên CHỊ HIẾU, số thứ
tự tại sổ hụi gồm 21, 22, 23. Quá trình tham gia hụi, đến ngày 20/4/2023 âm lịch
(tức ngày 07/6/2023 dương lịch) bà đã nộp được 11 kỳ hụi của 3 phần hụi sống. Từ
kỳ thứ 12, bà Y, bà B không tiếp tục thực hiện dây hụi này nữa.
Sau khi bà Nầy Y, bà B tuyên bố ngưng không mở hụi, bà có yêu cầu bà D trả
lại cho bà tiền hụi mà đáng lẽ ra bà lĩnh được khi hụi hoàn thành, cụ thể:
Dây hụi 3.000.000 đồng: (39 x 3.000.000 - 1.500.000) x 2 = 231.000.000
đồng.
Dây hụi 2.000.000 đồng: (11 x 2.000.000 - 1.000.000) x 3 = 63.000.000
đồng.
Do bà D trả đủ số tiền hụi 294.000.000 đồng cho bà nên bà không có tranh
chấp gì trong vụ án này.
9
- Theo Tờ tự khai ngày 20/02/2024 của ông Trịnh Đ trình bày: Do có mối
quan hệ quen biết với bà D nên ông có nhờ bà D tham gia nhiều dây hụi cho bà Nầy
Y và bà B làm chủ, cụ thể:
Dây hụi 5.000.000 đồng/15 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 30/4/2022 âm lịch (tức
ngày 30/5/2022 dương lịch), kết thúc ngày 30/8/2023 âm lịch (do năm 2023 có 02
tháng Hai âm lịch). Khui hụi vào ngày 15 và 30 âm lịch. Tiền hoa hồng 2.500.000
đồng. Hụi có 35 phần, ông tham gia 02 phần với tên ANH ĐIỀN, số thứ tự theo sổ
hụi là 18,19. Quá trình tham gia hụi, ông đã giao tiền cho bà D để nộp cho chủ hụi.
Đến ngày 29/3/2023 âm lịch (tức ngày 18/5/2023 dương lịch), ông đã đóng được 25
kỳ của 02 phần hụi sống. Đến kỳ thứ 26, bà Y, bà B không tiếp tục khui hụi nữa.
Dây hụi 2.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 16/10/2022 âm lịch
(tức ngày 09/11/2022 dương lịch), kết thúc vào ngày 06/3/2024 (tức ngày 13/6/2023
dương lịch). Khui hụi vào các ngày 6, 16, 26 âm lịch. Tiền hoa hồng là 1.000.000
đồng. Hụi gồm có 55 phần. Ông tham gia 02 phần tên ANH ĐIỀN, số thứ tự tại sổ
hụi 54, 55. Quá trình tham gia hụi, đến ngày 26/4/2023 âm lịch (tức ngày 13/6/2023
dương lịch) ông đã nộp được 24 kỳ hụi của 02 phần hụi sống. Từ kỳ thứ 25, bà Y,
bà B không tiếp tục thực hiện dây hụi này nữa.
Dây hụi 2.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 10/02/2023 âm lịch
(tức ngày 01/3/2023 dương lịch), kết thúc ngày 10/02/2024 âm lịch (do năm 2023
có 02 Tháng Hai âm lịch), hụi mở vào các ngày 10, 20, 30 âm lịch. Tiền hoa hồng
1.000.000 đồng. Hụi gồm có 40 phần. Ông tham gia 03 phần tên ANH ĐIỀN, số thứ
tự tại sổ hụi 31, 32, 33. Quá trình tham gia hụi, đến ngày 20/4/2023 âm lịch (tức
ngày 07/6/2023 dương lịch) ông đã nộp được 11 kỳ hụi của 3 phần hụi sống. Từ kỳ
thứ 12, bà Y, bà B không tiếp tục thực hiện dây hụi này nữa.
Sau khi bà Nầy Y, bà B tuyên bố ngưng không mở hụi, ông có yêu cầu bà D
trả lại cho ông tiền hụi mà đáng lẽ ra ông lĩnh được khi hụi hoàn thành, cụ thể:
Dây hụi 5.000.000 đồng: (25 x 5.000.000 – 2.500.000) x 2 = 245.000.000
đồng.
Dây hụi 2.000.000 đồng/10 ngày (khui kỳ đầu tiên ngày 16/10/2022 âm lịch
(tức ngày 09/11/2022 dương lịch): (24 x 2.000.000 – 1.000.000) x 2 = 94.000.000
đồng.
Dây hụi 2.000.000 đồng/10 ngày: mở kỳ đầu tiên ngày 10/02/2023 âm lịch
(tức ngày 01/3/2023 dương lịch): (11 x 2.000.000 – 1.000.000) x 3 = 63.000.000
đồng.
Do bà D trả đủ số tiền hụi 402.000.000 đồng cho ông nên ông không có tranh
chấp gì trong vụ án này.
* Tại các văn bản trình bày ý kiến nộp cho Toà án ngày 11/3/2024, những
người làm chứng trình bày:
- Bà Võ Thị Ngọc T trình bày: Do có mối quan hệ quen biết ở chợ M1 nên khi
bà Trần Thị Nầy Y (tên khác là D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tên khác là B1) làm chủ
hụi có mời tôi cùng chơi chung, tôi đồng ý. Tôi là người chơi các dây hụi chung với
10
bà Võ Thị Mỹ D (đang tranh chấp với bà Nầy Y, bà B tại Tòa án nhân dân thành phố
Long Xuyên) do bà Y, bà B cùng làm chủ hụi, cụ thể là:
- Dây hụi 3.000.000 đồng mở ngày 02/5/2022 âm lịch, tức ngày 31/5/2022
dương lịch tôi đứng số thứ tự 45 trong sổ hụi, tên trong sổ hụi là T;
- Dây hụi 2.000.000 đồng mở ngày 16/10/2022 âm lịch, tức ngày 09/11/2022
dương lịch tôi đứng số thứ tự 7,8 trong sổ hụi, tên trong sổ hụi là T.
Bà xác định, các dây hụi nêu trên, tôi trực tiếp chơi hụi với cả hai mẹ con bà
Trần Thị Nầy Y (tên khác là D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tên khác là B1). Hai mẹ
con bà Y, bà B cùng nhau làm chủ hụi.
- Bà Nguyễn Thị H2 trình bày: Do có mối quan hệ quen biết ở chợ M1 nên
khi bà Trần Thị Nầy Y (tên khác là D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tên khác là B1) làm
chủ hụi có mời tôi cùng chơi chung, tôi đồng ý. Tôi là người chơi các dây hụi chung
với bà Võ Thị Mỹ D (đang tranh chấp với bà Nầy Y, bà B tại Tòa án nhân dân thành
phố Long Xuyên) do bà Y, bà B cùng làm chủ hụi, cụ thể là:
- Dây hụi 3.000.000 đồng mở ngày 02/5/2022 âm lịch, tức ngày 31/5/2022
dương lịch tôi đứng số thứ tự 34, 35 trong sổ hụi, tên trong sổ hụi là Dì 4 H2;
- Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 30/4/2022 âm lịch (không có trong âm lịch
nên mở vào ngày 01/5/2022 âm lịch), tức ngày 30/5/2022 dương lịch tôi đứng số thứ
tự 4,5 trong sổ hụi, tên trong sổ hụi là Dì 4 H2.
Bà xác định, các dây hụi nêu trên, tôi trực tiếp chơi hụi với cả hai mẹ con bà
Trần Thị Nầy Y (tên khác là D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tên khác là B1). Hai mẹ
con bà Y, bà B cùng nhau làm chủ hụi.
- Ông Huỳnh Ngọc M trình bày: Do có mối quan hệ quen biết ở chợ M1 nên
khi bà Trần Thị Nầy Y (tên khác là D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tên khác là B1) làm
chủ hụi có mời ông cùng chơi chung. Ông là người chơi dây hụi chung với bà Võ
Thị Mỹ D (đang tranh chấp với bà Nầy Y, bà B tại Tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên) do bà Y, bà B cùng làm chủ hụi (Dây hụi 3.000.000 đồng mở ngày 02/5/2022
âm lịch, tức ngày 31/5/2022 dương lịch) ông đứng số thứ tự 3,4,5,6,7,8,9 trong sổ
hụi, tên trong sổ hụi là Anh B2 và H3.
Ông xác định, các dây hụi nêu trên, ông trực tiếp chơi hụi với cả hai mẹ con
bà Trần Thị Nầy Y (tên khác là D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tên khác là B1). Hai mẹ
con bà Y, bà B cùng nhau làm chủ hụi.
* Tại Bản án số 133/2024/DS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang đã tuyên xử: Căn cứ các Điều 371, 463,
465, 466, 468 và 470, Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015, chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của bà Võ Thị Mỹ D:
- Buộc bà Trần Thị Nầy Y và bà Nguyễn Ngọc B cùng có nghĩa vụ liên đới
trả cho bà Võ Thị Mỹ D tổng số tiền là 2.852.302.000 (hai tỷ tám trăm năm mươi
hai triệu ba trăm lẻ hai nghìn) đồng. Trong đó, có tiền hụi còn nợ là 2.714.000.000
đồng và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ là 138.302.000 đồng.
11
- Buộc bà Nguyễn Ngọc B phải có nghĩa vụ trả cho bà Võ Thị Mỹ Duyên s
tiền vay còn nợ là 900.000.000 (chín trăm triệu) đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về nghĩa vụ chậm thi hành án, án phí và quyền
kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26/4/2024 bị đơn bà Trần Thị Nầy Y kháng cáo,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử sửa bản án sơ thẩm, đề nghị không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà D đối với yêu cầu buộc bà Nầy Y liên đới cùng bà B trả nợ
hụi.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Đại diện theo ủy quyền của bà Nầy Y trình bày: bà Y vẫn giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo. Các giao dịch thu và giao tiền hụi cũng như chốt nợ đều do bà B ký
nhận với các hụi viên, bà Nầy Y hoàn toàn không biết và không xác nhận nợ với các
hụi viên. Đối với những người làm chứng gửi xác nhận cho Tòa án, khi bà Nầy Y có
yêu cầu Tòa án đối chất, những người này đều không có mặt để đối chất với bà Nầy
Y, như vậy không có xác định được là những người làm chứng có tự ký vào đơn
trình bày ý kiến hay không. Ngoài ra, nguyên đơn trình bày nhà bà Nầy Y ở kế sạp
bán hàng của bà D lý do tại sao bà D không yêu cầu bà Nầy Y ký xác nhận nợ hụi,
mà chỉ yêu cầu bà B ký xác nhận. Như vậy, chứng minh được bà Nầy Y hoàn toàn
không liên quan đến các dây hụi do bà B làm chủ hụi. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa
án sơ thẩm, không buộc bà Y liên đới cùng bà B trả tiền nợ hụi cho bà D.
- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn đã cung cấp
họ tên những người làm chứng và đề nghị Tòa án triệu tập, những người làm chứng
tự ký vào đơn trình bày ý kiến và tự gửi cho Tòa án là tự nguyện của họ trình bày
đúng sự việc, bà B cũng xác nhận ông M, bà T và bà H2 đúng là những người có
tham gia các dây hụi chung với bà D. Nhà bà Y kế bên sạp bán hàng của bà D, bà D
nhiều lần yêu cầu bà Y ký xác nhận nợ hụi nhưng bà Y né tránh; bà D là người dân
bình thường, không có quyền cưỡng ép bà Y ký xác nhận. Ngoài ra, bà Y có trình
bày tại phiên tòa sơ thẩm “không biết bà D là ai”, như vậy thể hiện bà Y không
trung thực, nhằm né tránh nghĩa vụ. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
- Đồng bị đơn bà Nguyễn Ngọc B trình bày: vào thời điểm bà bị “bể hụi”, bà
D và những hụi viên khác có đến nhà bà để gặp bà Y nói chuyện, tại sao lúc đó cho
rằng bà Y có liên quan không yêu cầu bà Y ký nợ mà trình bày tại phiên tòa cho rằng
bà Y né tránh. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ thẩm, không buộc bà Y liên đới
cùng bà trả tiền nợ hụi cho bà D.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Thư ký, Hội đồng
xét xử đã chấp hành đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án
đến khi xét xử. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố
tụng.
Về nội dung: Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng
12
cứ để chứng minh yêu cầu kháng cáo của mình là có cơ sở để cấp phúc thẩm xem
xét. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308, khoản 3 Điều 296 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên
bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Bị đơn bà Trần Thị Nầy Y kháng cáo trong thời hạn luật định, có đơn
xin miễn tiền án phí, tạm ứng án phí do là người lớn tuổi theo quy định tại Điều 12
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 nên được chấp nhận xem xét
giải quyết theo trình tự phúc thẩm là đúng quy định tại Điều 285 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015.
[1.2] Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập
hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 296
Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử.
[1.3] Bà Võ Thị Mỹ D là nguyên đơn trong vụ án ủy quyền cho ông Nguyễn
Phú H; bà Trần Thị Nầy Y là đồng bị đơn uỷ quyền cho ông Huỳnh Thảo L Việc ủy
quyền được lập thành văn bản, được chứng thực và nội dung ủy quyền không trái
với quy định pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Nầy Y đối với yêu cầu buộc bà
liên đới cùng bà B trả nợ hụi là 2.714.000.000 đồng và lãi suất là 138.302.000 đồng,
Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:
Theo quy định tại Điều 14 và khoản 6 Điều 18 Nghị định 19/2019/NĐ-CP
ngày 12/9/2019, chủ họ phải thông báo về thông tin chủ họ (hụi), nội dung dây họ
(hụi). Như vậy, trong trường hợp thay đổi chủ hụi, bà Nầy Y phải thông báo cho các
hụi viên việc thay đổi chủ hụi. Tuy nhiên, tại sổ hụi cung cấp cho các hụi viên đều
ghi tên bà Nầy Y và tại phiên tòa phúc thẩm bà B cũng thừa nhận không thông báo
cho bà D biết việc bà Y không còn là chủ hụi và bà B mới là chủ hụi.
Tại các sổ hụi do nguyên đơn cung cấp, đồng bị đơn bà B xác nhận các sổ hụi
này do bà B phát hành, trên các sổ hụi ghi chủ hụi là bà Trần Thị Nầy Y; khi bà Nầy
Y làm chủ hụi, bà B là người thu và giao tiền hụi cho các hụi viên; sau này khi bà B
được bà Nầy Y giao làm chủ hụi, bà B cũng là người tự thu và giao tiền hụi cho các
hụi viên.
Ngoài ra, theo các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời thừa nhận của bà Nầy
Y và bà B, mẹ con bà Nầy Y và B đã làm chủ hụi lâu năm tại khu vực chợ M1, thành
phố L; việc bà Nầy Y và bà B cho rằng đã chuyển giao chủ hụi từ bà Nầy Y sang bà
B từ hơn 10 năm chỉ do bà N1 yên và bà B trình bày, không thông báo cho các hụi
viên, không có chứng cứ để chứng minh việc chuyển giao này.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cấp sơ thẩm đã căn
cứ vào các tài liệu được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của những
người tham gia tố tụng quyết định buộc bà Nầy Y có nghĩa vụ liên đới với bà B trả
13
số tiền nợ hụi còn thiếu cho bà D là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Bà Nầy
Y kháng cáo nhưng không chứng minh được việc bà không là chủ hụi cùng với bà
B nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đề nghị không
chấp nhận kháng cáo của bà Nầy Y, giữ nguyên bản án sơ thẩm phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, tuy nhiên do bà Nầy Y là người cao tuổi và có
đơn xin miễn nộp án phí nên được miễn án phí theo quy định.
[5] Đối với các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng
cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của bà Trần Thị Nầy Y; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số
133/2024/DS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Long
Xuyên, tỉnh An Giang.
Căn cứ các Điều 371, 463, 465, 466, 468, 470 và 471 của Bộ luật Dân sự năm
2015; khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Võ Thị Mỹ D.
- Buộc bà Trần Thị Nầy Y (tên khác D1) và bà Nguyễn Ngọc B (tên khác B1)
có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Võ Thị Mỹ D tổng số tiền là 2.852.302.000 (hai tỷ
tám trăm năm mươi hai triệu ba trăm lẻ hai nghìn) đồng. Trong đó, có tiền hụi còn
nợ là 2.714.000.000 đồng và tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ là 138.302.000
đồng.
- Buộc bà Nguyễn Ngọc B phải có nghĩa vụ trả cho bà Võ Thị Mỹ Duyên s
tiền vay còn nợ là 900.000.000 (chín trăm triệu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Võ Thị Mỹ D được nhận lại 53.525.000 (năm mươi ba triệu năm trăm
hai mươi lăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001487
14
ngày 23/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An
Giang.
- Bà Nguyễn Ngọc B phải có nghĩa vụ nộp án phí là 83.573.000 (tám mươi ba
triệu, năm trăm bảy mươi ba nghìn) đồng.
- Bà Trần Thị Nầy Y được miễn nộp tiền án phí sơ thẩm.
3. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trần Thị Nầy Y được miễn nộp án phí.
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP.HCM (1);
- VKSND tỉnh An Giang (1);
- TAND Tp. Long Xuyên (2);
- Chi cục THADS Tp. Long Xuyên (1);
- Tòa Dân sự (1);
- Phòng KTNV và THA (1);
- Các đương sự (để thi hành) (7);
- Lưu: HS, VP (2).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Ngọc Giao
Tải về
Bản án số 204/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 204/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 468/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 470/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Bản án số 461/2024/DS-PT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 16/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 04/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm