Bản án số 167/2024/DS-PT ngày 26/07/2024 của TAND tỉnh An Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 167/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 167/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 167/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 167/2024/DS-PT ngày 26/07/2024 của TAND tỉnh An Giang về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về danh dự, nhân phẩm, uy tín |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh An Giang |
Số hiệu: | 167/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm giữa bà Hạnh và ông Tân |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 167/2024/DS-PT
Ngày: 26/7/2024
V/v “Tranh chấp yêu cầu
bồi thường thiệt hại do sức
khỏe bị xâm phạm”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Nguyễn Thị Minh Phượng;
Các Thẩm phán: bà Ngô Ngọc Phỉ, ông Cao Minh Lễ;
Thư ký phiên tòa: ông Ngô Huỳnh Đức – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang: bà Lương Thị Hương –
Kiểm sát viên.
Trong ngày 26 tháng 7 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 132/2024/TLPT-DS ngày
06/6/2024 về việc “Tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm
phạm”. Do Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 24/4/2024 của Tòa
án nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử phúc thẩm số 162/2024/QĐ-PT ngày 12/6/2024, Quyết định tạm
ngừng phiên tòa số 80/2024/QĐ-PT ngày 27/6/2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972; nơi cư trú: số A, tổ B,
khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang (đt: 0946.553.830).
- Bị đơn: ông Dương Mộc T, sinh năm 1976; nơi cư trú: tổ A, khóm L,
phường L, thị xã T, tỉnh An Giang (đt: 0906.487.838).
Tất cả đương sự đều có mặt.
Người kháng cáo: ông Dương Mộc T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung án sơ thẩm:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:
Vào khoảng 21 giờ ngày 30/7/2022, ông Dương Mộc T điều khiển xe mô tô
biển số 67H1-439.98 trong tình trạng có rượu bia, không chú ý quan sát gây tai
nạn cho bà, tỷ lệ thương tật 27%. Vụ việc được Công an thị xã T xử lý xác định
2
không truy cứu trách nhiệm hình sự, ông T có bồi thường trước cho bà số tiền
10.000.000 đồng để tạm ứng chi phí điều trị. Do các bên không thỏa thuận được
mức bồi thường thiệt hại nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Cụ thể các
khoản yêu cầu bồi thường:
* Chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe: 38.603.181 đồng.
* Mất thu nhập bản thân từ ngày 30/7/2022 đến 11/01/2023: 129 ngày x
200.000 đồng = 25.800.000 đồng.
* Thuê người nuôi bệnh, chăm sóc trong thời gian điều trị: 7 ngày x
200.000 đồng = 1.400.000 đồng.
* Tổn thất tinh thần: 1.800.000 đồng x 10 tháng = 18.000.000 đồng.
Tổng thiệt hại là 83.803.181 đồng, ông Dương Mộc T đã bồi thường được
10.000.000 đồng, còn lại 73.803.181 đồng, yêu cầu buộc ông Dương Mộc T
phải bồi thường.
Bà H trình bày công việc hằng ngày của bà là bán xôi ở chợ T1 thu nhập
bình quân mỗi ngày từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng. Khi bị tai nạn, bà
không thể tự chăm sóc nên thuê người nuôi bệnh trong thời gian nằm viện 07
ngày, 200.000 đồng/ngày.
Về tinh thần: Từ khi xảy ra tai nạn, ngoài phải điều trị bản thân còn phải
chịu nổi đau thể xác, đau nhức khắp người, cơn đau cứ lâu là tái phát, phải liên
tục uống thuốc giảm đau làm cho sức khỏe giảm sút rất nhiều, bản thân bà rất
buồn phiền do không buôn bán được nhiều như trước để phụ giúp gia đình, nuôi
con ăn học nên yêu cầu bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần.
Bị đơn ông Dương Mộc T trình bày: Về nội dung và nguyên nhân gây tai
nạn cho bà H thì đúng như bà H trình bày.
Về chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe là 38.603.181 đồng thì
ông đồng ý. Nhưng ông chỉ chịu trách nhiệm 1/2 thiệt hại do trong vụ việc bà H
cũng có lỗi nên phải cùng chịu trách nhiệm. Các khoản yêu cầu bồi thường thiệt
hại khác ông không đồng ý. Các hóa đơn, chứng từ bà H cung cấp, ông thống
nhất đúng khoản thiệt hại, không có ý kiến.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 24/4/2024 của Tòa án
nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.
Buộc ông Dương Mộc T có nghĩa vụ bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số
tiền 63.603.181 đồng (sáu mươi ba triệu sáu trăm lẻ ba nghìn một trăm tám
mươi mốt đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự
3
năm 2015.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm, quyền kháng
cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/5/2024 ông Dương Mộc T kháng cáo,
không đồng ý bồi thường cho bà H tiền mất thu nhập 25.800.000đồng, chi phí
nuôi bệnh 1.400.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần 18.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu
cầu kháng cáo.
Phần tranh luận:
Ông T: Trong vụ tai nạn giao thông bà H cũng có lỗi, còn lỗi như thế nào
đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Bà H: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm, không chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của ông T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu:
Về thủ tục tố tụng: bị đơn kháng cáo trong hạn luật định nên được Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang thụ lý giải quyết là đúng quy định. Hội đồng xét xử đã
chấp hành đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến
khi xét xử. Các đương sự cũng chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố
tụng.
Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã thu thập
tại giai đoạn phúc thẩm, xác định bà H cũng có một phần lỗi trong vụ tai nạn
giao thông xảy ra vào khoảng 21 giờ ngày 30/7/2022. Đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông T, áp dụng khoản 2 Điều 308
Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của bà H, buộc ông T phải bồi thường cho bà H 26.801.500 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: bị đơn kháng cáo và nộp tạm ứng án phí phúc thẩm
trong hạn luật định nên được chấp nhận.
[2] Xét kháng cáo của ông Dương Mộc T:
Các đương sự đều thống nhất vào khoảng 21 giờ ngày 30/7/2022 tại đường
T, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang xảy ra vụ tai nạn giao thông
đường bộ giữa ông Dương Mộc T đang điều khiển xe mô tô biển số 67H1-
439.98 với bà Nguyễn Thị H đang đẩy xe bán xôi lưu thông cùng chiều theo
hướng phường L đi phường L, thị xã T, hậu quả là bà H bị thương tật sau khi
giám định là 27%. Bà H yêu cầu ông T bồi thường thiệt hại các khoản chi phí
cứu chữa, phục hồi sức khỏe, chi phí người nuôi bệnh, thu nhập bị mất, tổn thất
4
tinh thần tổng cộng 83.803.181 đồng. Ông T thống nhất chi phí cứu chữa, bồi
dưỡng, phục hồi sức khỏe là 38.603.181 đồng, nhưng chỉ đồng ý bồi thường ½
vì cho rằng bà H cũng có lỗi khi tham gia giao thông. Còn các thiệt hại khác ông
T không đồng ý bồi thường.
Cấp sơ thẩm căn cứ vào Thông báo kết quả điều tra, xác minh, giải quyết
vụ tai nạn giao thông số 457/TB-CATX-CSGT ngày 30/9/2022, các biên bản
giải quyết tai nạn giao thông của Công an thị xã T (BL 01-07) có nội dung xác
định lỗi chính gây ra vụ tai nạn giao thông là do ông T điều khiển phương tiện
trong hơi thở có nồng độ cồn (nồng độ cồn trong hơi thở 0,034 miligam/lít khí
thở) không chú ý quan sát dẫn đến đụng từ phía sau bà H đang đẩy xe xôi phía
trước, để từ đó xác định nguyên nhân gây tai nạn, lỗi hoàn toàn thuộc về ông T,
buộc ông T phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bà H 73.603.181 đồng là chưa
khách quan, không phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bởi vì,
tại cấp sơ thẩm ông T có nhiều lần trình bày bà H cũng có lỗi trong khi tham gia
giao thông, nhưng cấp sơ thẩm không thu thập biên bản hiện trường, sơ đồ hiện
trường và các tài liệu, chứng cứ khác liên quan đến vụ tai nạn giao thông xảy ra
giữa ông T, bà H vào 21 giờ ngày 30/7/2022 để đánh giá, xác định lỗi của các
bên là thiếu sót.
Tại cấp phúc thẩm có thu thập từ Công an thị xã T các tài liệu chứng cứ
như: clip tai nạn giao thông giữa ông T và bà H do người dân cung cấp, sơ đồ
hiện trường, biên bản hiện trường, biên bản ghi lời khai của ông T. Tại phiên tòa
Hội đồng xét xử cũng đã công khai nội dung của clip tai nạn giao thông giữa
ông T, bà H và được ông T, bà H xác định đoạn clip tai nạn giao thông công
khai đúng là giữa ông T, bà H xảy ra lúc khoảng 21 giờ ngày 30/7/2022 tại
đường T, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh An Giang.
Qua xem xét clip tai nạn giao thông và sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao
thông đường bộ thì thấy bà H đẩy xe bán xôi đi từ hướng ngã ba đường N đi qua
đường T, qua vạch kẻ đường của đường T, bà H không đi thẳng qua lề phải
đường T mà đi bên trái giáp vạch kẻ đường của đường T hướng phường L đi
phường L, khi đó ông T cũng điều khiển xe mô tô hướng phường L đi phường L
thì đụng vào phía sau người bà H đang đẩy xe bán xôi phía trước.
Theo quy định tại khoản 19 Điều 13 Luật Giao thông đường bộ năm 2008
thì: Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe
đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật
kéo và các loại xe tương tự.
Khoản 2 Điều 13 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định việc sử
dụng làn đường: “Trên đường một chiều có vạch kẻ phân làn đường, xe thô sơ
phải đi trên làn đường bên phải trong cùng, xe cơ giới, xe máy chuyên dùng đi
trên làn đường bên trái”
Khoản 3 Điều 31 Luật Luật Giao thông đường bộ năm 2008 cũng quy định:
“Người điều khiển xe thô sơ khác phải cho xe đi hàng một, nơi có phần đường
dành cho xe thô sơ thì phải đi đúng phần đường quy định; khi đi ban đêm phải
5
có báo hiệu ở phía trước và phía sau xe. Người điều khiển xe súc vật kéo phải có
biện pháp bảo đảm vệ sinh trên đường”.
Tại Văn bản số 2429/CATX-CSGT ngày 25/7/2024 của Công an thị xã T
cũng căn cứ vào các quy định pháp luật nêu trên, xác định: chiếc xe bà H đẩy
tham gia giao thông trên đường là xe thô sơ; căn cứ vào kết quả khám nghiệm
hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông thì bà H đẩy xe bán xôi
tham gia giao thông trên đường không đúng quy định của Luật Giao thông
đường bộ, trong vụ án giao thông trên bà H cũng có lỗi với hành vi điều khiển
xe thô sơ không đi bên phải trên làn đường bên phải trong cùng (Quy định
khoản 2 Điều 13 Luật Giao thông đường bộ 2008); Riêng đối với hành vi điều
khiển phương tiện thô sơ tham gia giao thông không có báo hiệu phía trước,
phía sau xe. Vì thời điểm xảy ra vụ tai nạn giao thông, mật độ giao thông bình
thường, vị trí xảy ra vụ tai nạn giao thông có đèn chiếu sáng công cộng, không
bị hạn chế tầm nhìn của người tham gia giao thông, nhưng do ông T điều khiển
thiếu chú ý quan sát nên đụng từ phía sau bà H đang đẩy xe xôi cùng chiều phía
trước.
Như vậy, chiếc xe bà H đẩy tham gia giao thông đường bộ là xe thô sơ, khi
tham gia giao thông phải đi trên làn đường bên phải trong cùng, tức là bên phải
đường T hướng phường L đi phường L, nhưng bà H lại đẩy xe đi bên trái làn
đường dành cho xe cơ giới là không đúng quy định của Luật Giao thông đường
bộ, dẫn đến việc ông T điều khiển xe mô tô va chạm với bà H từ phía sau. Đối
với ông T điều khiển xe mô tô đi bên làn đường bên trái là đúng quy định của
Luật Giao thông đường bộ, nhưng khi tham gia giao thông mà trong hơi thở có
nồng độ cồn (0,034 miligam/lít khí thở), không bị hạn chế tầm nhìn nhưng
không chú ý quan sát nên đụng từ phía sau bà H dẫn đến tai nạn giao thông. Từ
những cơ sở nêu trên xác định bà H cũng có một phần lỗi trong sự việc để xảy ra
tai nạn giao thông vào khoảng 21 giờ ngày 30/7/2022. Vì vậy bà H và ông T đều
có lỗi và được xem là lỗi hỗn hợp, nên ông, bà đều phải chịu thiệt hại tương
đương với lỗi của mình.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 585 của Bộ luật Dân sự và Nghị quyết số
02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao thì: bên bị thiệt hại có một phần lỗi đối với thiệt hại xảy ra thì không
được bồi thường thiệt hại tương ứng với phần lỗi đó. Do là lỗi hỗn hợp nên ông
T, bà H mỗi người phải chịu thiệt hại 50%. Cấp sơ thẩm xác định thiệt hại của
bà H thực tế xảy ra là 73.603.181 đồng là có căn cứ. Tuy nhiên như đã nhận
định như trên, ông T chỉ phải bồi thường cho bà H 50% thiệt hại tương đương
36.801.500 đồng, bà H phải tự chịu 36.801.500 đồng.
Ông T kháng cáo không đồng ý bồi thường cho bà H tiền mất thu nhập
25.800.000đồng, chi phí nuôi bệnh 1.400.000 đồng, tiền tổn thất tinh thần
18.000.000 đồng là không có cơ sở, vì ông T gây thiệt hại cho bà H nên phải bồi
thường nhưng ông T chỉ phải bồi thường 50% thiệt hại như đã nêu ở trên. Do đó,
Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông T sửa án sơ
thẩm, buộc ông T phải bồi thường cho bà H 36.801.500 đồng, không chấp nhận
6
yêu cầu của bà H đối với số tiền còn lại, ông T đã bồi thường 10.000.000 đồng
nên còn phải tiếp tục bồi thường cho bà H 26.801.500 đồng.
[3] Về án phí sơ thẩm: ông Dương Mộc T phải chịu 1.340.000 đồng. Bà
Nguyễn Thị H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Về án phí phúc thẩm: ông T không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015; điểm d khoản 1, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Dương Mộc T.
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2024/DS-ST ngày 24/4/2024 của Tòa án
nhân dân thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H.
1. Buộc ông Dương Mộc T phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị H thiệt hại
do sức khỏe bị xâm phạm số tiền 26.801.500 đồng (hai mươi sáu triệu tám trăm
lẻ một nghìn năm trăm đồng). Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà
Nguyễn Thị H về việc yêu cầu ông Dương Mộc T phải bồi thường số tiền
36.801.500 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự
năm 2015.
2. Về án phí sơ thẩm: ông Dương Mộc T phải chịu 1.340.000 đồng.
Bà Nguyễn Thị H được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về án phí phúc thẩm: ông Dương Mộc T không phải chịu, được nhận lại
300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007949 ngày 07/5/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Châu.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
7
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại TP . HCM (1);
- VKSND tỉnh An Giang (1);
- TAND thị xã Tân Châu (1);
- Chi cục THADS thị xã Tân Châu (1);
- Đương sự (2);
- Phòng KTNV & THA (1);
- Lưu: Văn phòng, hồ sơ.
Tải về
Bản án số 167/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 167/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 31/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 13/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 07/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 05/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 19/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm