Bản án số 130/2024/DS-ST ngày 04/10/2024 của TAND huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 130/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 130/2024/DS-ST ngày 04/10/2024 của TAND huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lấp Vò (TAND tỉnh Đồng Tháp)
Số hiệu: 130/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/10/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Lộc yêu cầu ông Tuấn trả lại đất đã lấn chiếm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LẤP VÒ
TỈNH ĐỒNG THÁP
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGA VIỆT NAM
Độc lập - T do - Hạnh pc
Bản án số: 130/2024/DS-ST
Ngày: 04-11-2024
V/v tranh chấp dân sự về
ranh giới quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Kiều Tiên.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Phượng.
2. Bà Chung Thị Thu Nguyệt.
- Thư phiên tòa: Ông Huỳnh Khánh Tâm Thư Tòa án nhân dân
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp tham
gia phiên tòa: Nguyễn Thị Phương Kiểm sát viên.
Trong c ngày 28/10 ngày 04/11/2024 tại trụ sTòa án nhân dân huyện
Lấp xét xử thẩm công khai
vụ án thụ số: 155/2024/TLST-DS, ngày
26/3/2024 về “Tranh chấp dân sự về ranh giới quyền sử dụng đất” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 255/2024/QĐST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2024 Quyết
định hoãn phiên tòa số: 206/2024/QĐST-DS ngày 28/9/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1962; Địa chỉ: Số 341B, ấp
Hưng Nhơn, xã Long Hưng B, huyện L, tỉnh Đ T. (có mặt)
Người đại diện hợp pháp của ông Lộc: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1990;
địa chỉ trú: Số 92, ấp Bình Phú Quới, Bình Thành, huyện L V, tỉnh Đ T,
người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 06/6/2023). ( mặt)
- Bị đơn:
1. Ông Ngô Hoàng T, sinh năm 1969; (có mặt)
2. Bà Huỳnh Ngọc K, sinh năm 1979; (có mặt)
Địa chỉ: Số 901/70, đường QL1, khóm 3, phường 2, TP. Sóc Trăng, tỉnh S T
Người đại diện hợp pháp của ông T, K: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm
1973; địa chỉ: số 78 ấp Vĩnh Phú, Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.
(có mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
2
1. Anh Lâm Trung T, sinh năm 1990; (có mặt)
2. Chị Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1989; cùng địa chỉ: Số 341B, ấp Hưng
Nhơn, xã Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. (có mặt)
3. Ông Vũ Quang T, sinh năm 1976; (có mặt)
4. Bà Trịnh Lan P, sinh năm 1981; (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Số 622, khóm 1, thị trấn Lai Vung, huyện L V, tỉnh ĐT
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa ông Nguyễn Văn L
đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Vào năm 2002 ông Lộc mua lại
phần đất này đã sử dụng ổn định vào mục đích đất đất trồng cây lâu năm,
diện tích 127,2m² thuộc thửa đất số 881, tờ bản đồ số 10, số vào số: CH 07484, đất
tọa lạc tại p Hưng Nhơn, Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, do
ông Nguyễn Văn Lộc đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được Ủy ban
nhân n huyện Lấp cấp ngày 28/8/2012 (có thay đổi ngày 22/2/2013 ngày
08/09/2017 theo bản đồ 299).
Cùng năm 2012, sau khi mua phần đất nói trên (Lúc mua cấm trụ đá, đo
đạc) ông Lộc đã cất nhà kiên cố cho đến nay, đến nay không sửa chữa thay
đổi gì. Liền kề là phần đất và nhà của bà Hằng, lúc bà Hằng xây n vào năm 2010
đã tháo dỡ 02 trụ đá ranh. Đến khi ông Lộc xây nhà thì phía trên không dựng được
do vướng vách nhà của Hằng. Anh Thành thuê công ty đo đạc đến thì xác định
từ sàn bê tông tường trên lấn qua đất ông Lộc. Lúc đó anh Tề đứng ra hòa giải
mọi người thống nhất ông Lộc sẽ nhận 55.000.000 đồng của Hằng để
Hằng được giữ nguyên hiện trạng phần vách tường nhà phía trên lấn qua đất ông
Lộc. Khi anh Tề bán đất cho ông Tuấn thì ông Lộc không biết gì, vì không ai
kêu ông Lộc giáp ranh để làm thủ tục sang tên đất cho ông Tuấn. Sau đó thấy
ông Tuấn tới lui thì ông Lộc mới biết anh Tề đã bán lại cho ông Tuấn. Năm 2023,
ông Lộc làm thủ tục cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Tuấn
không đồng ý giáp ranh đưa cho gia đình ông Lộc tờ giấy đã được viết sẵn,
kêu tên vào thì sẽ đồng ý giáp ranh. Gia đình ông Lộc tin tưởng không đọc
lại nội dung mà ký tên, tuy nhiên sau đó ông Tuấn không chịu ký giáp ranh mà đòi
lấy qua phần đất ông Lộc 01 tấc.
Nay ông Lộc yêu cầu xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa ông Lộc và
ông Ngô Hoàng Tuấn, bà Huỳnh Ngọc Kiều tại thửa đất số 881, tbản đồ số 10,
đất tọa lạc tại ấp Hưng Nhơn, xã Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp,
hiện do ông Nguyễn Văn Lộc đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là từ vị
trí điểm M3 đến điểm M6 ranh chung, tính từ không gian đến lòng đất, nếu nhà
ông Tuấn vướng vào thì phải tháo dỡ phần vướng vào trả lại không gian cho
ông Lộc sử dụng.
Ông Lộc thống nhất đồ đo đạc của Chi nhánh văn phòng đăng đất đai
huyện Lấp Vò và biên bản định giá của Hội đồng định giá tài sản huyện Lấp Vò.
3
- Trong đơn phản tố, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, ông Nguyễn Văn Đại
là người đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:
Vào 2020, ông Tuấn và bà Kiều có biết ông Tề kêu bán nhà đất nên mới liên
hệ để mua. Ông Tuấn Kiều đến coi nhà xem giấy tquyền sử dụng đất
của ông Tề (lúc đó ông Tề và chị Phương đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất). Sau khi thấy ông Tuấn Kiều đến coi nhà đất thì ông Lộc biết ông T
chuẩn bị bán cho ông Tuấn thì ông Lộc mới ra nói căn nhà của ông Tề phía trên có
nghiêng qua đất ông Lộc. Ông Tuấn yêu cầu mua đất phải giải quyết việc căn nhà
nghiêng cho ổn thỏa, không tranh chấp gì mới mua. Lúc đó ông Tề mới nói để
ông Tề thỏa thuận với ông Lộc để việc mua bán thuận lợi hơn. mua 1 căn nhà
đất thửa đất số 8, tờ bản đồ 65 của Trịnh Lan Phương ông Vũ Quang Tề.
Ông Tề ông Lộc thỏa thuận với nhau bằng tờ cam kết 16/3/2020. Ông Tuấn chỉ
nghe ông Tề nói chứ không biết việc giao nhận tiền ông Tuấn cũng không đưa
55.000.000 đồng này. Sau đó ông Tề đưa cho ông Tuấn Tờ cam kết này thì ông
Tuấn mới đồng ý mua đất nhà. Tuy nhiên nhà chưa được cấp sở hữu nthì
mua theo giá nchưa được cấp sở hữu đất nông thôn nên cũng không bắt
buộc phải sở hữu nhà. Sau khi ông Tuấn mua thì chỉ sang tên trên giấy tờ, các
hộ tứ cận không tên đất đã được cấp theo bản đồ địa chính chính quy. Đến
năm 2023, ông Tuấn nghe nói ông Lộc xin cấp đổi quyền sử dụng đất trong
biên bản giáp ranh chữ của Kiều Kiều không tên. Vào
ngày 14/4/2023, phía ông Lộc gọi điện kêu ông Tuấn, Kiều về giáp ranh
nên ông Tuấn Kiều về. lúc đó địa chính đang đo đạc, tại nhà ông
Tuấn thì ông Tuấn viết biên bản thỏa thuận giáp ranh đất kêu gia đình ông
Lộc qua đọc lại đồng ý tên, lúc đó mặt ông Sơn và ông Tâm địa chính,
ông Tâm giải thích phần đất thỏa thuận này không đủ hạn mức tách thành thửa
riêng, nếu có làm thủ tục nhập thửa thì liên hệ chính quyền để được hướng dẫn th
tục. Trong nội dung biên bản thỏa thuận này phía ông Lộc đã thống nhất giao cho
ông Tuấn phần đất ngang 01 tấc (tính từ không gian đến lòng đất) của ông Lộc
sang cho ông Tuấn.
Nay yêu cầu Tòa án xác định ranh đất của ông Tuấn ông Lộc từ vị trí
M2 đến M7 như sơ đồ đo đạc ranh chung, yêu cầu được cấp quyền sdụng đất
phần đất này, yêu cầu giữ nguyên hiện trạng, yêu cầu ông Lộc tháo dỡ công trình
kiến trúc vướng vào ranh chung này.
Ông Tuấn Kiều thống nhất đđo đạc của Chi nhánh văn phòng
đăng đất đai huyện Lấp và biên bản định giá của Hội đồng định giá tài sản
huyện Lấp Vò.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Vũ Quang Tề trình bày: Ông
Tề với ông Lộc, ông Tuấn không mối quan hcon gì. Liên quan đến phần
ranh đất tranh chấp giữa ông Lộc với ông Tuấn, ông Tề trình bày nội dung sự việc
như sau: Trước đây ông Tề mua thửa đất số 8, tbản đồ 65 của bà Hằng, trên đất
đã căn n(như hiện trạng hiện nay). Sau khi sang tên xong thì ông Tề tiếp tục
4
cho Hằng thuê lại để ở. Vào thời điểm ông Tề mua phần đất này của Hằng
thì đã được biết n nhà của bà Hằng phía trên lấn qua không gian đất của ông
Lộc, còn phần góc bức tường phia dưới thì đúng vị tranh. do khi bà
Hằng xây dựng nhà thì đã tháo dỡ 02 trụ đá ranh, đến khi ông Lộc xây nhà thì phía
trên không dựng được do vướng vách tường nhà của bà Hằng. Lúc đó ông Lộc mới
thuê công ty tới đo vẽ và xác định bắt đầu từ vị trí sàn tầng trên lấn qua đất ông
Lộc. Lúc đó ông Tề mới đứng ra thỏa thuận, sẽ giao cho ông Lộc 55.000.000 đồng
để ông Lộc thống nhất ginguyên trạng vách tường nhà cho Hằng, số tiền này
tiền của Hằng đưa ông Tề, nhờ ông Tề giao cho ông Lộc. Thời điểm ông Tề
giao tiền cho anh Thành (con rể ông Lộc) thì ông Tề chưa kêu ông Tuấn bán nhà
đất vào thời điểm lập tờ cam kết này Hằng còn đứng tên. Đến ngày
29/10/2020 thì mới sang tên cho Trịnh Lan Phương (là vợ anh Tề). Như vậy việc
thỏa thuận và giao tiền này không liên quan gì tới ông Tuấn và chưa kêu ông Tuấn
bán đất lúc này còn chưa sang tên từ Hằng qua anh Tề. Sau đó, ông Tề
chuyển nhượng thửa đất này lại cho ông Tuấn Kiều. Lúc bán cho ông Tuấn
Kiều thì ông Tề cũng nói cho vợ chồng ông Tuấn biết phần vách nhà
phía trên lấn qua đất ông Lộc căn nhà nằm trên phạm vi hành lang an toàn
giao thông nên không xin cấp sở hữu nhà được, nên chỉ sang tên phần đất cho ông
Tuấn, Kiều lúc đó vợ chồng ông Tuấn thống nhất mua. Sau đó thì ông Tề
sang tên đất cho ông Tuấn Kiều, không đo đạc thực tế lại. Tuy nhiên, sau
khi ông Tuấn Kiều đứng tên đất, phía ông Lộc làm hồ cấp lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thửa đất của ông Lộc thì ông Tuấn và bà Kiều không đồng
ý mà yêu cầu xác định ranh đất tính từ trên vách tường nhà ông Tuấn xuống.
Như vậy sẽ vướng vào bức tường nhà của ông Lộc. Nhận thấy việc ông Tuấn và bà
Kiều yêu cầu xác định ranh như vậy là vô lý và thiệt thòi cho ông Lộc. Nên ông Tề
khẳng định việc thỏa thuận giao tiền cho ông Lộc chỉ để ông Lộc thống nhất
giữ nguyên trạng căn nhà chứ không phải mua luôn phần ranh đất tính từ phía trên
vách tường nhà xuống đất. Bà Hằng hiện nay đã đi Đài Loan sinh sống, ông Tề
không biết địa chỉ. Nay giữa ông Lộc ông Tuấn tranh chấp, ông Tề không
u cầu gì trong vụ án này.
- Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lâm Trung Thành chị
Nguyễn Thị Kim Phượng trình bày: Anh Thành nhận của anh Tề 55.000.000
đồng, là tiền của bà Hằng chủ đất cũ đưa. Vì lúc bà Hằng xây nhà đã tháo dỡ 02 tr
đá ranh. Đến khi ông Lộc xây nhà thì phía trên không dựng được do vướng vách
nhà của Hằng. anh Thành thuê công ty đo đạc đến thì xác định từ sàn tông
tường trên lấn qua đất ông Lộc. Lúc đó anh Tề đứng ra hòa giải mọi người
thống nhất là ông Lộc sẽ nhận 55.000.000 đồng của bà Hằng để Hằng được giữ
nguyên hiện trạng phần vách tường nhà phía trên lấn qua đất ông Lộc. Việc thỏa
thuận này không liên quan đến ông Tuấn. Sau đó, khi anh Tề chuyển nhượng đất
qua ông Tuấn thì phía ông Lộc không tên giáp ranh. Sau này khi ông Lộc
làm thtục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại thì ông Tuấn đưa cho gia
đình ông Lộc tờ giấy đã viết sẵn, nói rằng gia đình ông Lộc tên xong tphía
5
ông Tuấn sẽ ký giáp ranh cho ông Lộc cấp lại giấy chứng nhận quyền s dụng đất.
Lúc đó, gia đình ông Lộc gồm ông Lộc, anh Thành, chị Phượng tin tưởng vào
lời nói của ông Tuấn không đọc lại nội dung trong tờ giấy cả ba người ký
tên. Nhưng sau khi gia đình ông Lộc tên xong thì phía ông Tuấn không đồng ý
giáp ranh yêu cầu lấy luôn qua một tấc đất của ông Lộc mới chịu ký, gia
đình ông Lộc không đồng ý (việc ông Tuấn trình bày phía gia đình ông Lộc giả
mạo chữ của Kiều là không căn cứ, hồ cấp đất do địa phương quản
lý, không thể đưa cho gia đình ông Lộc gimạo). Gia đình ông Lộc hoàn toàn
không nhận tiền gì từ vợ chồng ông Tuấn.
Anh Thành thống nhất đồ đo đạc của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất
đai huyện Lấp Vò và biên bản định giá của hội đồng định giá huyện Lấp Vò.
- Ý kiến của Kiểm sát viên:
+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xThẩm phán chấp hành
đúng quy định của pháp luật.
+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham
gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.
+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử thư đã tuân thủ theo đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một
phần yêu cầu của ông Lộc xác định ranh từ điểm M3 đến điểm M6 theo đồ đo
đạc ranh chung. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Tuấn và Kiều.
Giữ nguyên hiện trạng sử dụng của các bên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng c trong hồ vụ án, đã được
thẩm tra tại phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên a, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Ranh giới quyền sử dụng đất tranh chấp tọa lạc ấp ng Nhơn, Long
Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện Lấp Vò, quy định tại Điều 26, 35, 39 của Bộ luật t tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1]. Vị trí, giấy tờ về đất:
Ranh đất tranh chấp giữa ông Lộc với ông Tuấn Kiều thuộc các thửa
đất:
- Thửa đất số 881, tờ bản đồ số 10, mục đích đất đất trồng cây lâu năm,
diện tích 127,2m², số giấy BL 039417, số vào số: CH 07484, đất tọa lạc tại ấp
6
Hưng Nhơn, Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, do ông Nguyễn
Văn Lộc đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được Ủy ban nhân n
huyện Lấp Vò cấp ngày 28/8/2012.
- Thửa đất số 08, tờ bản đồ số 65, mục đích đất đất trồng cây lâu năm,
diện tích 96,2m², số giấy CY 403274, số vào số: CS 09572, đất tọa lạc tại ấp Hưng
Nhơn, Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, do ông Ngô Hoàng Tuấn
Huỳnh Ngọc Kiều đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được Sở
Tài nguyên và môi trường tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 16/12/2020.
Đất đang tranh chấp đã được Hội đồng định giá tài sản huyện Lấp định
giá với giá đất: CLN là 300.000 đồng/m
2
. Đất ở nông thôn là 1.600.000 đồng/m
2
.
Xét yêu cầu của nguyên đơn: Tại phiên tòa phía bị đơn cũng thừa nhận khi
nhận chuyển nhượng đất từ ông Tề, Phương thì chsang tên theo đúng vị trí
ranh là từ điểm M3 đến điểm M6, cho đến nay cũng không đi đăng ký kê khai phần
01 tấc đất đã thỏa thuận với ông Lộc. Điều này khẳng định khi ông Tuấn, bà Kiều
chuyển nhượng đất của ông Tề Phượng thì chỉ sang tên nhận đất sử dụng
theo đúng ranh được cấp giấy giữa hai bên. Như vậy, ranh đất của nguyên đơn
được bị đơn thừa nhận là từ điểm M3 đến M6 là ranh chung.
Căn nhà của bị đơn phần trên nghiêng qua không gian thửa đất của
nguyên đơn, việc này bị đơn thừa nhận trước khi nhận chuyển nhượng đất thì đã
biết phần không gian bên trên của căn nhà có lấn qua không gian của ông Lộc, tuy
nhiên do ông Tề đưa ra bản cam kết đã giữa ông Tề với anh Thành (con rể ông
Lộc) nên phía ông Tuấn Kiều vẫn đồng ý mua cho rằng phía ông Lộc sẽ
không gây kdễ để nguyên hiện trạng căn nhà của ông Tuấn, Kiều. Đồng
thời nguyên đơn có cung cấp bản vẽ chứng minh có việc phần trên căn nhà của ông
Tuấn Kiều phần trên lấn sang không gian của ông Lộc. Tuy nhiên, trước
khi ông Tề chuyển nhượng cho bị đơn thì phía nguyên đơn đã nhận 55.000.000
đồng để không tranh chấp nữa, trong biên bản hòa giải của Tòa án anh Thành cũng
thừa nhận rằng nhận 55.000.000 đồng để Hằng được giữ nguyên hiện trạng
căn nhà. Do đó, ông Lộc yêu cầu ông Tuấn, bà Kiều tháo dỡ phần nhà lấn chiếm là
không phù hợp mà cần giữ nguyên trạng căn nhà cho bị đơn sử dụng.
Xét yêu cầu phản tố của bị đơn: Bị đơn đưa Bản cam kết ngày 16/3/2020 và
Biên bản thỏa thuận giáp ranh đất ngày 14/4/2023, cho rằng theo 02 tờ thỏa thuận
này thì ông Lộc đã thống nhất giao cho ông Tuấn, Kiều 01 tấc đất tính từ ranh
giới của 02 thửa từ điểm M3 đến điểm M6 trở đất ông Lộc mỗi đầu 01 tấc
cho ông Tuấn, Kiều được khai cấp quyền sử dụng đất. Do đó, ông Tuấn
Kiều yêu cầu được quyền sử dụng 01 tấc đất này yêu cầu ông Lộc tháo dỡ
phần vách nvướng vào 01 tấc đất này để giao cho ông Tuấn, bà Kiều sử dụng.
Phía ông Lộc, anh Thành, chị Phượng thừa nhận nhận tiền, có tên, tuy nhiên
đối với Biên bản thỏa thuận giáp ranh đất ngày 14/4/2023 thì ông Lộc, anh Thành,
7
chị Phượng cho rằng khi tên không đọc nội dung nên nay không đồng ý theo
nội dung thỏa thuận này.
Xét thấy, Bản cam kết ngày 16/3/2020 phần nội dung: “Cam kết sau khi
nhận đủ tiền sẽ không gây khó khăn đồng ý giáp ranh khi quan đo đất”,
như vậy, nội dung trong Bản cam kết này khẳng định sẽ không gây khó khăn trong
việc ký giáp ranh, chứ không có căn cứ xác định ông Lộc giao phần ranh đất bị n
nhà phía trên lấn chiếm không gian, tính từ phần bị nghiêng xuống đất. Đối với
Biên bản thỏa thuận giáp ranh đất ngày 14/4/2023, phía ông Lộc không đồng ý
thực hiện theo tờ cam kết, đồng thời căn nhà của ông Lộc đã được xây dựng trước
khi lập Biên bản thỏa thuận này, nếu thực hiện theo thỏa thuận thì vướng vào vách
nhà của ông Lộc đã được xây dựng theo đúng ranh đất của ông Lộc phải tháo
dỡ, ảnh hưởng quyền lợi ích hợp pháp của ông Lộc, do đó không căn cứ
pháp buộc ông Lộc, anh Thành, chị Phượng thực hiện. Tòa án không chấp nhận
yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tại Điều 174, 175, 176 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về ranh giới:
“Điều 174. Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng
Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu, chủ thể quyền khác đối với tài sản
phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây ợt quá
độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu, người có quyền khác đối với tài sản là
bất động sản liền kề và xung quanh.”
“Điều 175. Ranh giới giữa các bất động sản
1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận
hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ranh giới cũng thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã
tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.
Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh
giới kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể nghĩa vụ tôn trọng, duy
trì ranh giới chung.
2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian lòng đất theo chiều thẳng
đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật không được
làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.
Người sdụng đất chỉ được trồng cây làm các việc khác trong khuôn
viên đất thuộc quyền sử dụng của mình theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ
cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.”
“Điều 176. Mốc giới ngăn cách các bất động sản
8
1. Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây
tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình.
2. Các chủ sở hữu bất động sản liền kề thể thoả thuận với nhau về việc
dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn trên ranh giới để làm mốc giới
ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của các
chủ thể đó.
Trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới
được chủ sở hữu bất động sản liền kđồng ý thì mốc giới ngăn cách đó sở hữu
chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thoả thuận khác;
nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý do chính đáng thì chủ
sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, trồng cây, xây tường ngăn phải dỡ bỏ.
3. Đối với mốc giới tường nhà chung, chủ sở hữu bất động sản liền k
không được trổ cửa sổ, lỗ thông khí hoặc đục tường đđặt kết cấu xây dựng, trừ
trường hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý.
Trường hợp nhà xây riêng biệt nhưng tường sát liền nhau thì chủ sở hữu
cũng chỉ được đục tường, đặt kết cấu xây dựng đến giới hạn ngăn cách tường của
mình.
Đối với cây mốc giới chung, các bên đều nghĩa vụ bảo vệ; hoa lợi thu
được từ cây được chia đều, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
Đối với số tiền 55.000.000 đồng, do ông Lộc, ông Tề không yêu cầu giải
quyết trong vụ án này nên Tòa án không xem xét.
Đối với Hằng là ch sử dụng đất cũ, hiện nay không mặt ở địa
phương, các đương scũng không biết hiện nay Hằng địa chỉ cụ thể nào,
đồng thời việc giải quyết vụ án không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự n Tòa án không đưa Hằng vào tham gia với cách
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Từ nhận định điều luật viện dẫn trên, xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên
là phù hợp nhận định của Tòa án.
[3] Về án phí:
Ông Lộc người cao tuổi, đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí
theo quy định.
Ông Tuấn Kiều không được chấp nhận yêu cầu phản tnên phải chịu
án phí theo quy định.
[4] Về chi phí thẩm định, định giá: Ông Lộc được chấp nhận một phần yêu
cầu khởi kiện, ông Tuấn Kiều không được chấp nhận yêu cầu phản tố n
chia đôi chi phí thẩm định, đo đạc, định giá. Số tiền này ông Lộc đã tạm nộp đủ,
chi xong nên buộc ông Tuấn Kiều phải trả lại cho ông Lộc phân nữa số tiền
này.
9
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều
174, Điều 175, Điều 176 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 170 của Luật Đất đai
năm 2013; Điều 26 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn L về việc
tranh chấp ranh giới quyền sử dụng đất đối với ông Ngô Hoàng T Huỳnh
Ngọc K.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Ngô Hoàng T Huỳnh
Ngọc K đối với ông Nguyễn Văn
2. Xác định ranh giới quyền sử dụng đất giữa Thửa đất số 881, tờ bản đồ số
10, mục đích đất đất trồng cây lâu năm, diện tích 127,2m², s giấy BL
039417, số vào số: CH 07484, đất tọa lạc tại ấp ng Nhơn, Long Hưng B,
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, do ông Nguyễn Văn L đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, được Ủy ban nhân dân huyện Lấp cấp ngày 28/8/2012 với
Thửa đất số 08, tờ bản đồ số 65, mục đích đất ở và đất trồng cây lâu năm, diện tích
96,2m², số giấy CY 403274, số vào số: CS 09572, đất tọa lạc tại ấp Hưng Nhơn, xã
Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, do ông Ngô Hoàng T và Huỳnh
Ngọc K đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được Sở Tài nguyên và môi
trường tỉnh Đồng Tháp cấp ngày 16/12/2020 như sau: Nối tđiểm M3 đến điểm
M6 thành một đường thẳng là ranh chung.
Ranh đất được xác định theo chiều thẳng đứng từ không gian xuống lòng đất.
Tài sản của bên người nào lấn chiếm ranh đất phải tháo dỡ di dời theo quy định của
pháp luật.
Đối với căn nhà của ông Ngô Hoàng T Huỳnh Ngọc K đã xây dựng
vướng vào phần ranh chung thì được giữ nguyên hiện trạng sử dụng đến khi sửa
chữa, xây cất lại thì phải tháo dỡ trả lại phần không gian cho ông Nguyễn Văn L sử
dụng.
(Có biên bản xem xét thẩm định ngày 11/9/2024 và sơ đồ đo đạc ngày
22/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Lấp Vò kèm theo).
3. Ông Nguyễn Văn Lộc, ông Ngô Hoàng T và bà Huỳnh Ngọc K phải đến cơ
quan Nhà nước thẩm quyền làm thủ tục đăng khai quyền sdụng đất
điều chỉnh diện tích đất như kết quả đo đạc thực tế được xác định ranh.
10
4. Về án phí:
Ông Nguyễn Văn L được miễn án phí.
Buộc ông Ngô Hoàng T Huỳnh Ngọc K phải chịu 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm dân sự, được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm
nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0007750 ngày 04/9/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lấp Vò (không phải nộp thêm).
5. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
Tổng chi phí 5.663.000 đồng. Số tiền này ông Nguyễn Văn L đã tạm nộp
đủ, chi xong. Ông Nguyễn Văn L phải chịu phân nữa, ông Ngô Hoàng T
Huỳnh Ngọc K phải chịu phân nữa, nên buộc ông Ngô Hoàng T và bà Huỳnh Ngọc
K phải trả lại cho ông Nguyễn Văn L 2.831.500 đồng (Hai triệu tám trăm ba
mươi mốt nghìn năm trăm đồng).
6. Án xử công khai. Đương sự mặt được quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo được
tính từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
- TAND tỉnh Đồng Tháp;
- VKSND huyện Lấp Vò;
- CCTHADS huyện Lấp Vò;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ, văn phòng.
Lê Thị Kiều Tiên
11
HỘI ĐỒNG XÉT X
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT X THM PHÁN CH TA PHIÊN
TÒA
Nguyễn Văn Lực - Chung Th Thu Nguyt Lê Th Kiu Tiên
12
Tải về
Bản án số 130/2024/DS-ST Bản án số 130/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 130/2024/DS-ST Bản án số 130/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất