Bản án số 80/2025/DS-PT ngày 17/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 80/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 80/2025/DS-PT ngày 17/02/2025 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 80/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/02/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn. Hủy bản án dân sự sơ thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 80/2025/DS-PT
Ngày 17-02-2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
(lối đi) và yêu cầu tháo dỡ công
trình, kiến trúc trên đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Trần Thị Thanh Trúc.
Ông Lê Sỹ Trứ;
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
- Thư phiên tòa: Phạm Thị Mỹ Dung T Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa:
Ông Lê Trung Kiên Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 02 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 647/2024/TLPT-DS ngày 26
tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sdụng đất (lối đi) yêu cầu
tháo dỡ công trình, kiến trúc trên đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 103/2024/DS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 575/2024/QĐPT-DS
ngày 25 tháng 12 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
50/2025/QĐ-PT ngày 17 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Phan Văn M, sinh năm 1956; địa chỉ: tổ A, khu phố A,
phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hồ Xuân H, sinh năm 1970;
địa chỉ liên lạc: khu dân cư T, tổ A, khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Bình
Dương, người đại diện theo ủy quyền (theo Văn bản ủy quyền ngày 07/5/2022).
Có mặt.
- B đơn: Ông Trần Xuân T, sinh năm 1977; địa chỉ: tổ C, khu phố B,
phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Có mặt.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trương Hồng Đ, sinh năm
1983; địa chỉ: số A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương. mặt.
2
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phan Văn M.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:
Vào ngày 25/9/2007, bà Nguyễn Ngọc P được Ủy ban nhân dân (viết tắt là
UBND) huyện (nay thành phố) Bến Cát cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số vào sH02606, đối với phần đất diện tích 802m
2
, thuộc thửa đất số
1321, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Đất
của bà P đường đi chung có chiều dài khoảng 200m, nằm trên các thửa đất số
1170, 1171, 1172, 1173, cùng thuộc tờ bản đồ số 23, con đường kích thước
ngang 04m, dài đến thửa đất số 1452. Con đường này là do chủ đất cũ bà Nguyễn
Thị T1 chừa đường đi chung trước khi tách thửa để chuyển nhượng tặng cho
quyền sử dụng đất vào khoảng năm 2000. Bà Nguyễn Ngọc P đã chuyển nhượng
thửa đất số 1321 cho ông Phan Văn M theo Hợp đồng chuyển nhượng số 802,
quyển số 3 ngày 09/9/2009 được Phòng T2 huyện (nay là thành phố) Bến Cát cập
nhật trang 4 ngày 26/9/2009.
Ngày 06/7/2009, bà Trần Thị G được UBND huyện (nay là thành phố) Bến
Cát cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H05886, đối với phần đất
có diện tích 266m
2
, thuộc thửa đất số 1323, tờ bản đồ số 23, tọa lạc tại phường T,
thành phố B, tỉnh Bình Dương. Đất của bà G đường đi chung chiều dài khoảng
200m nằm trên các thửa đất số 1170, 1171, 1172, 1173, cùng thuộc tờ bản đồ số
23, con đường kích thước ngang 04m, dài đến thửa đất số 1452. Con đường
này do chủ đất Nguyễn Thị T1 mẹ ruột bà G chừa đường đi chung trước
khi tách thửa để chuyển nhượng và tặng cho quyền sử dụng đất vào khoảng năm
2000. Sau đó, Trần Thị G đã chuyển nhượng thửa đất số 1323 cho ông Phan
Văn M theo Hợp đồng chuyển nhượng số 1945, quyển số 3 ngày 19/8/2009 được
Phòng T2 huyện (nay là thành phố) Bến Cát cập nhật trang 4 ngày 14/9/2009.
Trong quá trình quản lý, sử dụng đối với 02 thửa đất số 1321 1323 thì ông
M vẫn đi chung trên con đường đất cụt nằm trên các thửa đất số 1170, 1171, 1172
1173 này. Sau đó, ông M làm thủ tục hợp thửa đối với thửa đất số 1321
1323 thành thửa đất số 2263, tờ bản đồ số 23, diện tích 1.067,6m
2
theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CM 761297 được Sở T3 thị xã (nay thành phố) Bến
Cát cấp cho ông M ngày 04/6/2018. Tuy nhiên, Sở T3 (nay là thành phố) Bến C
không cập nhật con đường đi chung này vào giấy chứng nhận cho ông M.
Thực tế, các thửa đất số 1321 và 1323 tiếp giáp với đường giao thông nông
thôn do Nhà nước quản lý, được UBND phường T, thành phố B, tỉnh Bình Dương
xác nhận tại Công văn số 81/UBND-VP ngày 19/9/2016 Công văn số
82/UBND-VP ngày 19/9/2016.
Theo ông M được biết thửa đất số 1452, tờ bản đồ số 23 có diện tích 225m
2
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H02113 do UBND huyện (nay
thành phố) Bến Cát cấp cho ông Trần Xuân T ngày 01/02/2008 nhưng một phần
thửa đất này đã vào quy hoạch dự án đường M - T Hiện nay, ông T đã lấn chiếm
3
đường giao thông nông thôn cụ thể: cuốn móng bằng gạch đxây rào (ngang 04m
x dài 10m) làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của ông M.
Do đó, ông M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề sau: Buộc ông
Trần Xuân T tháo dỡ móng gạch trả lại hiện trạng đường giao thông nông thôn
do địa phương quản lý theo Công văn số 81/UBND-VP ngày 19/9/2016 và Công
văn số 82/UBND-VP ngày 19/9/2016 của UBND phường T, diện tích theo kết
quả đo đạc thực tế 47,5m
2
thuộc một phần của thửa đất số 1452, tờ bản đồ số
23.
B đơn ông Trần Xuân T trình bày:
Đối với thửa đất số 1325, tờ bản đồ số 23: năm 2007, ông T cùng với bạn
mua chung 01 thửa đất số 1310, tờ bản đs23 có diện tích 1.066m
2
, tại phường
T, huyện (nay là thành phố) B, tỉnh Bình Dương của bà Nguyễn Thị T1. Sau đó,
ông T và những người bạn làm thủ tục tách thửa đất số 1310 thành 06 thửa như
sau: thửa số 1325 diện tích 246m
2
; thửa s1326 diện tích 136m
2
; thửa số
1327 diện tích 136m
2
; thửa số 1328 diện tích 33m
2
; thửa số 1329 diện
tích 121m
2
; thửa số 1330 có diện tích 109m
2
. Trong đó, thửa đất số 1325 là thuộc
quyền sdụng của ông Trần Xuân T. Ngày 15/10/2007, UBND huyện (nay
thành phố) Bến Cát cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho T những người
bạn mua chung. Trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T những
người bạn đều không thể hiện lối đi chung như nguyên đơn trình bày. Thực tế,
hiện trạng đất cũng không có lối đi nào như ông M trình bày.
Đối với thửa đất số 1452, tờ bản đồ số 23: đất này cũng có nguồn gốc ông
T nhận chuyển nhượng từ T1 vào năm 2007. Ngày 01/02/2008, ông T được
UBND huyện B cấp Giấy chứng nhận số vào sH02913. Ông T cho rằng thửa số
1325 thửa số 1452 hai thửa đất liền nhau đều thuộc quyền sử dụng của
ông T. Năm 2009, ông M mua miếng đất khác của T1 và đòi đường đi trên đất
của ông T 05 người còn lại, điều này không hợp lý. Ông T không đồng ý
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông M, không có ý kiến gì khác và ông T xác định
không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Hồng Đ trình bày: Đ
là vợ của bị đơn ông Trần Xuân T. Đ thống nhất toàn bộ trình bày của chồng
là ông T. Ngoài ra, bà Đ không có ý kiến hay yêu cầu gì trong vụ án này.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 103/2024/DS-ST ngày 26 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã quyết đnh:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phan
Văn M đối với bị đơn ông Trần Xuân T về việc: “Tranh chấp quyền sử dụng đất
(lối đi) và yêu cầu tháo dỡ công trình, kiến trúc trên đất”.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn được min.
3. Về chi phí tố tụng khác: Nguyên đơn ông Phan Văn M phải chịu s tin
6.637.169 đồng (sáu triệu sáu trăm ba mươi bảy nghìn một trăm sáu mươi chín
4
đồng) chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá đo vẽ, được khấu trừ hết vào
số tiền nguyên đơn đã nộp tạm ứng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo, trách nhiệm thi
hành án.
Sau khibản án sơ thẩm, ngày 10/8/2024 nguyên đơn có đơn kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm, đnghị cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày: nguyên đơn vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo.
B đơn trình bày: không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo
của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Bình Dương phát biu quan đim:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng đã
thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án chưa xác định được
chủ sử dụng hợp pháp thửa đất số 1171 tranh chấp; chưa m kết quả kiến
nghị của UBND phường T về việc điều chỉnh hiện trạng sử dụng đất trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Phan Văn M theo Công văn số
81/UBND-CV và Công văn số 82/UBND-CV cùng ngày 19/9/2016; kết quả xác
minh tại phường T mâu thuẫn với Công văn số 81 Công văn số 82 nêu trên
cũng chưa được làm rõ. Do Tòa án cấp thẩm thu thập chứng cứ chưa đầy đủ,
chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật nên đề nghị Hội
đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên hủy bản án sơ
thẩm giao hồ cho Tòa án cấp thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được
thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày
của đương sự, Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Ngày 10/8/2024, nguyên đơn đơn kháng cáo bản án sơ thẩm là kháng
cáo trong hạn luật định, đúng quy định tại Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng
dân sự nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về kháng cáo của nguyên đơn:
[2.1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn tháo dỡ móng gạch trả lại
hiện trạng đường giao thông nông thôn do địa phương quản theo Công văn số
5
81/UBND-CV và Công văn số 82/UBND-CV cùng ngày 19/9/2016. Như vậy, về
bản chất đây không phải tranh chấp quyền sử dụng đất tranh chấp liên
quan đến yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật.
[2.2] Theo Mảnh trích lục địa chính đo đạc chỉnh số 3-2024 ngày
12/01/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố B thể hiện: phần
đất tranh chấp 3,1m
2
thuộc một phần thửa đất số 1452 (chủ sử dụng ông Trần
Xuân T) 47,5m
2
thuộc thửa đất số 1454. Tại Công văn số 1521/CNBC-
KTĐĐ&BĐ ngày 26/4/2024 của Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay thành phố) Bến
Cát xác định số hiệu thửa đất s1454 theo Mảnh trích lục địa chính đo đạc
chỉnh lý số 3-2024 nêu trên có sai sót trong quá trình đánh máy nên đính chính s
hiệu thửa đất số 1454 thành thửa đất số 1171, tờ bản đồ số 23 theo Bản đđịa
chính (bút lục 143). Như vậy, phần đất nguyên đơn xác định là lối đi có diện tích
3,1m
2
thuộc một phần thửa đất số 1452 (chủ sdụng ông Trần Xuân T)
47,5m
2
thuộc thửa đất số 1171.
[2.3] Nguyên đơn cho rằng không biết chủ sử dụng thửa đất số 1171 nêu
trên là ai và hiện bị đơn đang sử dụng thửa đất số 1171 bằng việc xây dựng hàng
móng gạch cản trở nguyên đơn sử dụng lối đi công cộng. Bị đơn cũng xác định
không biết chủ sử dụng thửa đất số 1171 là ai và tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn
cho rằng thửa đất số 1171 có thể là thửa đất số 1325 theo Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số vào sổ H02686 ngày 15/10/2007 cấp cho ông Trần Xuân T, tuy
nhiên bị đơn không biết vị trí thửa đất số 1325 ở đâu, cũng không cung cấp được
tài liệu nào xác thực thửa đất số 1171 thửa đất số 1325 của bị đơn. Tại Biên bản
xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 19/10/2023 (bút lục 96-97) thể hiện trên phần đất
tranh chấp móng xây gạch không diện tích 02m
2
(nằm trên cả hai thửa
đất số 1452 1171), trong khi chiều dài thửa đất số 1171 (phần đo đạc thực tế
tranh chấp) 12,79m, nguyên đơn xác định móng xây gạch bị đơn xây hết
thửa đất số 1171, còn bị đơn xác định chỉ xây trên phần đất của bị đơn. Tòa án
cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ việc bị đơn đang sử dụng một phần hay toàn b
thửa đất số 1171 chưa làm chủ sử dụng đất hợp pháp của thửa đất số 1171
là ai.
[2.4] Đối chiếu với đthửa đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số vào sổ CS15985 ngày 04/6/2018 cấp cho ông Phan Văn M (bút lục 133) thì
cạnh hướng Tây của thửa đất số 2263 giáp các thửa đất số 1452 1454. Và
đồ thửa đất có trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H02913 ngày
01/02/2008 cấp cho ông Trần Xuân T thì cạnh hướng Nam giáp các thửa đất số
1454 và 1171 (bút lục 44). Thấy rằng, thửa đất số 1454 và thửa đất số 1171 là hai
thửa đất khác nhau. Bên cạnh đó, theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày
28/02/2023 (41-42), Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa đất số 1325, tờ bản đồ số
23 có số thửa mới là 1454, trong khi bị đơn xác định không đăng ký, kê khai cấp
lại giấy chứng nhận quyền sdụng đất hay điều chỉnh số hiệu thửa đất tại trang
bổ sung Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H01955 do UBND huyện
B cấp ngày 08/02/2007 cho Nguyễn Thị T1 thì thửa đất số 1454 được tách ra
từ thửa đất số 1310 do bà Nguyễn Thị T1 chủ sử dụng đất (bút lục 45), còn thửa
6
đất số 1171 được tách từ thửa đất số 1179 cấp cho bà Nguyễn Thị T1. Như vậy,
quan chuyên môn xác định thửa đất số 1454 nay thửa đất số 1171 sự
mâu thuẫn trong việc xác định số hiệu các thửa theo các giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất như phân tích nêu trên. Tòa án cấp thẩm chưa điều tra làm số
hiệu các thửa đất trong quá trình điều chỉnh bản đồ địa chính, chưa làm thửa
đất số 1171 phải thửa đất số 1325 và vtrí thửa đất số 1454, thửa đất số 1325
mới có căn cứ xác định chủ sử dụng đất hợp pháp của các phần đất có tranh chấp.
[2.5] Mặt khác, Công văn s81/UBND-VP ngày 19/9/2016 và Công văn số
82/UBND-VP ngày 19/9/2016 của UBND phường T cùng trích yếu về việc xin
điều chỉnh hiện trạng sử dụng đất của ông Phan Văn M cùng nội dung:
“…hiện trạng thực tế thì hướng Tây của thửa số 1323+1321, tờ bản đồ số 23 giáp
đường đất cụt 3,5m, con đường này được hình thành từ năm 2000, trước đây con
đường này đường mòn người dân đi vào đất của các hộ phía bên trong. Hiện
chủ sử dụng đất và các hộ dân đã xây dựng nhà ở ổn đnh, con đường này người
dân đi lại ổn đnh không ai tranh chấp. Đường đã được đa phương đưa vào
danh mục đường giao thông nông thôn do đa phương quản ”. Tuy nhiên, tại
Biên bản xác minh ngày 12/6/2024, UBND phường T, thành phố B, tỉnh Bình
Dương thể hiện sau năm 1999, khoảng năm 2000 thì thực tế T1 chừa một
lối đi nội bộ vào đất nhưng trên bản đồ địa chính năm 1999 bản đồ địa chính
hiện tại do UBND phường T quản thì cạnh hướng Tây của thửa đất số 2263
không tiếp giáp con đường nào. Nvậy, kết quả xác minh này mâu thuẫn với
nội dung Công văn số 81/UBND-VP ngày 19/9/2016 và Công văn số 82/UBND-
VP ngày 19/9/2016 của UBND phường T. Nvậy, Tòa án cấp thẩm chưa làm
kết quả giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với Công văn số
81/UBND-VP ngày 19/9/2016 Công văn s82/UBND-VP ngày 19/9/2016 của
UBND phường T, chưa làm rõ mâu thuẫn về kết quả điều tra nêu trên.
[2.6] Tòa án cấp thẩm thu thập tài liệu, chứng cứ chưa đúng quy định tại
Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự, nhiều tài liệu bản phô không nguồn chứng
cứ (như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho các đương sự, Công văn số
81/UBND-VP ngày 19/9/2016 Công văn số 82/UBND-VP ngày 19/9/2016 của
UBND phường T,…).
[2.7] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy Tòa án cấp
thẩm chưa điều tra, thu thập đầy đủ chứng cứ để làm các vấn đề trên đã
tuyên không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa đủ cơ
sở. Xét thấy, cần phải hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ
thẩm giải quyết lại theo quy định của pháp luật. Do đó, kháng cáo của nguyên đơn
là có căn cứ chấp nhận một phần.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại phiên tòa
là phù hợp.
[3] Án phí dân sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên ông Phan Văn M
không phải chịu. Trong vụ án này, ông Phan Văn M thuộc trường hợp được miễn
nộp tạm ứng án phí, án phí nên không cần xử lý tiền tạm ứng án phí.
7
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 148, khoản 3 Điều 308, Điều 310, Điều 313 của B
luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và
sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,
1. Chấp nhận mt phần kháng cáo của nguyên đơn ông Phan Văn M.
2. Hủy Bản án dân sự thẩm số 103/2024/DS-ST ngày 26 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
Giao hồ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương
giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Về án pdân sự phúc thẩm: Người kháng cáo là ông Phan Văn M được
miễn nộp.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố Bến Cát;
- TAND thành phố Bến Cát;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thanh Trúc
Tải về
Bản án số 80/2025/DS-PT Bản án số 80/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 80/2025/DS-PT Bản án số 80/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất