Bản án số 13/2025/DS-ST ngày 12/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 13/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 13/2025/DS-ST ngày 12/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 6 - Đắk Lắk, tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 13/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông Đặng Anh S và bà Trần Thị H khỏi kiện yêu cầu ông Trần Anh T trả lại diện tích 8.689,5m²
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 6 - ĐẮK LẮK
Bản án số:13/2025/DS-ST
Ngày: 12 9 - 2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất,
yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu,
yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 6 - ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Tâm
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Lê Thị Nga, bà Trương Thị Lệ Chi
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Thuý Quỳnh – Là thư ký Tòa án nhân dân
khu vực 6 - Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 6 Đắk Lắk tham gia phiên
tòa: Ông Lâm Văn Tiến– Kiểm sát viên
Vào ngày 12 tháng 9 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 6 -
Đắk Lắk, xét xử thẩm công khai vụ án dân s sơ thẩm thụ lý số:
69/2024/TLST-DS ngày 13 tháng 6 năm 2024 về việc “Tranh chấp quyền sử
dụng đất, yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
hiệu, yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 14/2025/QĐXXST-DS ngày 18/8/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Đặng Anh S, sinh năm 1987 (có mặt)
Trần Thị H, sinh năm 1992 (có đơn xin xét xử vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Tổ dân phC, thị trấn E, huyện H, tỉnh Đắk Lắk
Nay là: Tổ dân phố C xã E, tỉnh Đắk Lắk
- Bị đơn: Ông Trần Anh T, sinh năm 1966 (có mặt)
Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
Nay là: Thôn N, xã D, tỉnh Đắk Lắk
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Văn phòng C3 (có đơn xin xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: AG, tổ dân phố A, thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
Nay là: 139 G, tổ dân phố A, xã K, tỉnh Đắk Lắk
+ UBND xã D
2
Đại diện theo pháp luật: Ông YT Êban Chủ tịch
Đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Hồng D Phó chủ tịch
Địa chỉ: Thôn 6, xã Cư Kty, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.
Nay là: Thôn S, xã D, tỉnh Đắk Lắk.
(có đơn xin xét xử vắng mặt)
+ Ông Ánh H1, sinh năm 1980 Nguyễn Thị Mộng T1, sinh năm
1980
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn P, huyện P, tỉnh Đắk Lắk
Nay là: Tổ dân phố T, xã P, tỉnh Đắk Lắk
(có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 28/5/2024 quá trình tham gia tố tụng tại
Toà án, nguyên đơn là ông Đặng Anh S, bà Trần Thị H trình bày:
Do có người giới thiệu nên ông Đặng Anh S Trần Thị H gặp ông
Ánh H1 Nguyễn Thị Mộng T1 để thoả thuận nhận chuyển nhượng 01
lô đất rẫy có diện tích theo Giấy chứng nhận được cấp là 23.815,3m
2
, thuộc thửa
đất số 247 tờ bản đồ số 38, đất trồng cây lâu năm, toạ lạc tại Buôn C, D,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk (nay Buôn C, D, tỉnh Đắk Lắk). Đất đã được
UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền sở hữu nhà
tài sản khác gắn liền với đất số CP 201153 ngày 11/4/2019 cho ông Ánh
H1 (chuyển nhượng cho Trần Thị H và ông Đặng Anh S ngày 25/02/2022 tại
hồ sơ số 274/2022.CN).
Đất có tứ cận:
- Phía Đông giáp đất ông S, bà H;
- Phía Tây giáp thửa 248 (hiện nhà máy sắn đang sử dụng)
- Phía Nam giáp đất của Lâm T2;
- Phía Bắc giáp đất của nhà máy S2 (hồ nước).
Các bên kết Hợp đồng chuyển nhượng vào tháng 02/2022 được
công chứng tại Văn phòng C3, sau đó thì ông Đặng Anh S Trần Thị H
được đăng ký chỉnh lý biến động sang tên.
Các bên làm thủ tục chuyển nhượng trên giấy tờ chứ không tiến hành đo
đạc lại diện tích, không mời các hộ liền kề ra chỉ ranh, chỉ mốc do ông thấy Giấy
chứng nhận đã thể hiện đất được đo đạc rõ ràng.
Tại thời điểm chuyển nhượng, ông Lê Ánh H1 có ra chỉ ranh, chỉ mốc cho
ông bà (ngoài ra không có ai khác) như sau:
3
- Ranh phía Đông của thửa đất: không ranh giới do giáp đất của ông S
nên không cần. Khi chuyển nhượng, ông H1 cắm cọc gỗ để làm ranh (nay không
còn). Hiện bị ông T lấn chiếm một phần ranh giới.
- Ranh phía Tây của thửa đất: trước đó ranh một đoạn bờ mương,
đoạn không ranh xác định (đất trống). Khi chuyển nhượng ông H1 cắm cọc
gỗ để làm ranh (nay không còn). Hiện bị ông T lấn chiếm toàn bộ.
- Ranh phía Nam của thửa đất: cây keo làm ranh giới (hiện đang còn).
Khi chuyển nhượng ông H1 cắm thêm cọc gỗ để làm ranh (nay không còn).
Hiện phần ranh này đã bị ông T lấn chiếm toàn bộ.
- Ranh phía Bắc của thửa đất: trước khi chuyển nhượng cắm cọc gỗ,
khoảng tháng 6/2024 ông đã nhổ cọc gỗ để làm trụ tông làm ranh. Hiện
không có tranh chấp ranh giới.
Khi ông giao nhận đất tông thấy trụ tông rào lưới B40 nằm sâu
trong đất (bao xung quanh phần diện tích đất hiện nay ông ông Trần Anh T
đang tranh chấp). Ông cũng không thắc mắc vì sao hàng rào lại nằm trong đất vì
ông H1 nói là đất theo Giấy chứng nhận và toàn bộ tài sản trên đất là của ông H1
và ông H1 bàn giao lại cho ông.
Trước ngày 25/4/2024 vài ngày, ông thuê đơn vị đo đạc bên ngoài
(không nhớ đơn vị nào) về đo đạc lại để xác định lại ranh giới đúng theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì thấy ranh theo giấy chứng nhận hoàn toàn
trùng khớp với ranh giới, mốc giới do ông H1 đã chỉ và cắm mốc.
vậy, đến ngày 25/4/2024 (trước khi nộp đơn ra Toà án), ông đã cho xe
múc trụ tông hàng rào lưới B40 để trồng sầu riêng. Ông T ra ngăn cản
nói đất của ông, trụ tông hàng rào lưới B40 là của ông nên ông không cho
ông phá hàng rào. Ông ước lượng diện tích bị lấn chiếm khoảng 8.000m
2
, tuy
nhiên qua đo đạc xác định diện tích chính xác là 8689,5m
2
.
Sau đó, đến ngày 09/5/2024 ông tiếp tục cho xe phá hàng rào lần 02 thì
ông T ngăn cản và đòi đánh ông. Vì vậy, ông đã làm đơn ra UBND xã D đyêu
cầu giải quyết tranh chấp, xã làm biên hoà giải nhưng không hoà giải được
nên ông làm đơn khởi kiện ra Toà.
Nay ông không quan tâm và không cần biết về nguồn gốc đất cũng như ai
đã từng sử dụng phần đất tranh chấp. Ông chỉ biết đất đã được cấp Giấy chứng
nhận thì spháp ràng ông H1 đã giao đủ diện tích trên thực địa
nên đất là của ông.
Nay ông yêu cầu ông Trần Anh T phải trả lại cho ông Trần Thị H
4
toàn bộ phần diện tích đất bị lấn chiếm là 8689,5m
2
thuộc thửa đất số 247 tờ bản
đồ số 38, đất trồng cây lâu năm, toạ lạc tại Buôn C, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
(nay là Buôn C, xã D, tỉnh Đắk Lắk).
Hiện nay thửa đất đang do ông và Trần Thị H quản lý, sử dụng ông
bà đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 201153.
* Nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày: hoàn toàn nhất trí với lời
trình bày của ông Đặng Anh S và không có ý kiến, yêu cầu gì khác.
* Quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, bị đơn Trần Anh T trình bày:
Vào năm 2003, ông khai hoang nhiều lô trong đó 01 đất rẫy
diện tích khoảng 23.000m
2
tại Buôn C, D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (nay
Buôn C, xã D, tỉnh Đắk Lắk).
Tại thời điểm ông khai hoang ông Trần Anh C, ông Nguyễn Thanh H2
khai hoang gần đất của ông. Ông C ông H2 đã chuyển nhượng đất của các
ông cho ông Hà Văn X (không rõ địa chỉ), ông X chuyển nhượng lại cho ông
Ánh H1; Còn phần đất khai hoang của ông Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn P
ông Nguyễn Văn T3 đã chuyển nhượng hết cho ông Vũ Đức H3, sau đó ông H3
đã chuyển nhượng lại cho ông Ánh H1, ông H1 lại chuyển nhượng lại cho
ông Đặng Anh S và Trần Thị H. Quá trình các chủ sử dụng đất trên chuyển
nhượng đất không có ai gọi ông ra chỉ ranh, chỉ mốc và ông cũng không ký biên
bản giáp ranh nào.
Phần đất của ông thì ông sử dụng đất ổn định, không tranh chấp với ai
từ năm 2003. Đến năm 2007, ông cho ông Hà Văn X (không rõ địa chỉ) mượn lô
đất nói trên để phơi mì. Năm 2017 ông lấy lại đất đtrồng sắn (mì). Trước
năm 2019 ông yêu cầu đo đạc toàn bộ diện tích đất trên để cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì có địa chính ông YB B cán bộ chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai huyện K ông V về đo đạc, trong đó bao gồm cả phần
đất hiện nay ông S, H đang tranh chấp. Sau đó ông được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất vào năm 2019 với diện tích 18.820m
2
thì một phần
diện tích 8689,5m
2
không do không được cấp Giấy chứng nhận cho
ông, nằm ngoài Giấy chứng nhận. Cùng trong năm 2019, nhà máy S2 (do Giám
đốc là ông Nguyễn Công S1 là đại diện) nhận chuyển nhượng phần diện tích đất
ông được cấp Giấy chứng nhận, ông Hoàng Đình M (là phó Giám đốc nhà
máy) mới nói với ông phần diện tích còn lại ông đang sử dụng (tức phần không
chuyển nhượng cho nhà máy sắn) chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì ông mới biết, tuy nhiên do chủ quan cứ nghĩ đất của mình sử dụng
5
từ trước đến nay không có tranh chấp với ai nên từ từ làm Giấy chứng nhận cũng
được nên ông cứ để vậy. Sau khi chuyển nhượng cho nhà máy sắn thì phần diện
tích còn lại chưa có Giấy chứng nhận ông tiếp tục làm hoa màu làm mốc,
hàng rào ranh giới bằng trụ bê tông rào lưới B40 (khoảng 170 180 trụ bê tông)
giáp với mương nước do ông H3 múc để làm ranh chung giữa đất của ông và đất
ông H3. Đất của ông hiện nay có tứ cận:
- Phía Đông đất ông S1, bà H;
- Phía Tây giáp mương nước;
- Phía Nam giáp đất ông S1, bà H;
- Phía Bắc giáp đất của nhà máy S2.
Vào ngày 24/4/2024, ông S1, bà H có nhờ ông ra xác định lại ranh giới thì
ông chỉ ranh, chỉ mốc và nói hàng rào lưới B40 do ông xây dựng để làm
ranh giới đất.
Tuy nhiên sau đó 01 ngày (ngày 25/4/2024), ông S1 cho máy múc p
hàng rào của ông, hai bên xảy ra tranh chấp được chính quyền địa phương
hoà giải thì ông mới phát hiện ra phần đất ông đang sử dụng 8689,5m
2
đã được
cấp cho ông Ánh H1 tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số CP 201152 được UBND huyện K ngày
11/4/2019 (đã chuyển nhượng cho bà Trần Thị H, ông Đặng Anh S ngày
25/02/2022) .
Như vậy, 8689,5m
2
đất đang có tranh chấp có nguồn gốc là do ông tự khai
hoang. Trước đây ông nghĩ đất của ông chỉ khoảng 5.000m
2
nhưng đo đạc
thực tế là 8689,5m
2
, như vậy phần diện tích đất tranh chấp hoàn toàn không liên
quan đến nhà máy sắn.
Nay ông Đặng Anh S bà Trần Thị H yêu cầu ông phải trả lại cho ông
phần diện tích đất 8689,5m
2
thuộc thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 tại
Buôn C, D, tỉnh Đắk Lắk, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CP 201153 ngày 11/4/2019 thì ông không đồng ý, diện tích đất 8689,5m
2
là đất của ông khai hoang và sử dụng từ năm 2003 đến nay nên ông không đồng
ý trả.
Yêu cầu Toà án tuyên bố hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa ông Ánh H1 Nguyễn Thị Mộng T1 với ông
Đặng Anh S Trần Thị H được công chứng ngày 21/01/2022, đối với diện
tích đất 8689,5m
2
thuộc thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 tại Buôn C, D,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk (nay là Buôn C, xã D, tỉnh Đắk Lắk)
6
Yêu cầu huỷ một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất số CP 201153 được UBND huyện K cấp
ngày 11/4/2019 cho ông Ánh H1 (cập nhật biến động chuyển nhượng cho
ông Đặng Anh S và Trần Thị H ngày 25/02/2022) đối với 8689,5m
2
thuộc
thửa đất s247, tbản đồ số 38 tại Buôn C, D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Nay
là Buôn C, xã D, tỉnh Đắk Lắk)
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Ánh H1 trình bày:
Vào khoảng năm 2018, qua giới thiệu, ông Ánh H1 Nguyễn Thị
Mộng T1 có nhận chuyển nhượng của ông Hà Văn X (không biết địa chỉ) và ông
Đức H3 tổng diện tích khoảng 9ha đất rẫy, ông X và ông H3 nói một số
diện tích đã được cấp bìa đỏ, còn một số diện tích đất giáp ranh với nhà máy mỳ
chưa được cấp bìa, phần chưa cấp bìa nằm trong phần đất thuộc quyền sử dụng
đất của ông Vũ Đức H3.
Dựa trên một số bìa đỏ đã sẵn nên ông đi làm thủ tục chuyển
nhượng đồng thời khai đăng để được cấp Giấy chứng nhận đối với phn
diện tích đất chưa giấy chứng nhận mà ông Vũ Đức H3 chuyển nhượng bằng
miệng cho ông bà, diện tích phần chưa được cấp giấy chứng nhận thì ông
không xác định cụ thể, chỉ đứng từ xa chỉ ranh, không cắm mốc, không cắm cọc
xác định ranh giới và ông H3 nói với ông H1 đất có ranh giáp nhà máy mỳ và
ranh giới là các con mương. Hiện nay các con mương vẫn còn nguyên hiện
trạng. Tại thời điểm ông H3 ra chỉ đất thì đất bỏ hoang, cây cối mọc um m,
không có ranh giới cụ thể.
Sau đó do quá trình đo đạc, chỉ ranh, chỉ mốc nhầm lẫn nhưng ông
không biết đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
23.815,3m
2
, thuộc thửa đất số 247 tờ bản đồ số 38, đất trồng cây lâu năm, toạ lạc
tại Buôn C, D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Đất đã được UBND huyện K cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn
liền với đất số CP 201153 ngày 11/4/2019 cho ông Lê Ánh H1. Đất có tứ cận:
- Phía Đông giáp đất ông Lê Ánh H1;
- Phía Tây giáp đất nhà máy M1 (sắn);
- Phía Nam giáp đất rừng của Lâm T2;
- Phía Bắc giáp hồ nước của nhà máy M1 (sắn).
Đến năm 2018, ông bà chuyển nhượng cho ông Đặng Anh S Trần
Thị H tổng diện tích hơn 9ha trong đó bao gồm cả 23.815,3m
2
, thuộc thửa đất số
247 tờ bản đồ số 38. Ông ký kết Hợp đồng chuyển nhượng vào tháng
7
02/2022 và được công chứng tại Văn phòng C3. Ông S, bà H tự làm thủ tục sang
tên. Khi chuyển nhượng ông bà căn cứ diện tích theo giấy chứng nhận để
chuyển nhượng, ông đứng từ xa chỉ ranh chỉ mốc cho ông S, H chứ
không cắm mốc, không cắm cọc xác định ranh giới cụ thể. Ông S, H không
yêu cầu đo đạc lại chỉ nói đất đã có Giấy chứng nhận nên ông bà không tiến
hành đo đạc lại.
Do từ khi nhận chuyển nhượng của ông Đức H3 (năm 2018) cho đến
khi chuyển nhượng lại cho ông Đặng Anh S Trần Thị H (năm 2022) thì
ông không sử dụng đất nên hoàn toàn không biết việc ông Trần Anh T sử
dụng một phần diện tích đất (qua đo đạc là 8.689,5m
2
) được cấp trong Giấy
chứng nhận của ông bà và ông bà cũng không nghe ai nói gì, không thấy ai tranh
chấp. Đến khi ông S và ông T tranh chấp khởi kiện ra Toà án huyện K thì ông bà
mới biết sự việc nói trên.
Khi giao đất cho ông S, H thì đất mọc cỏ và cây dại um tùm nên không
thấy trụ tông rào lưới B40 nằm sâu trong đất, không thấy phần diện tích
đất ông Trần Anh T sử dụng. Trên đất chỉ cây dại mọc, không tài sản
khác của ông bà. Trụ bê tông rào lưới B40 do ai xây dựng, xây dựng từ thời gian
nào thì ông bà không biết.
Nay ông H1 có ý kiến như sau: Ông đồng ý với yêu cầu của ông Trần Anh
T về việc tuyên bố hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa ông Lê Ánh H1 và bà Nguyễn Thị Mộng T1 với ông Đặng Anh S và bà
Trần Thị H được công chứng ngày 21/01/2022, đối với diện tích đất 8689,5m
2
thuộc thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 tại Buôn C, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Về hậu quả của hợp đồng hiệu thì ông đã được Toà án giải thích nhưng
ông không yêu cầu giải quyết trong ván này. Trường hợp ông không
thương lượng được thì ông bà sẽ khởi kiện vụ án khác để giải quyết.
Ông đồng ý với yêu cầu của ông Trần Anh T huỷ một phần Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CP 201153 được UBND huyện K cấp ngày
11/4/2019 cho ông Ánh H1 (cập nhật biến động chuyển nhượng cho ông
Đặng Anh S Trần Thị H ngày 25/02/2022) đối với 8689,5m
2
thuộc thửa
đất số 247, tờ bản đồ số 38 tại Buôn C, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Đối với yêu cầu của ông S về việc yêu cầu ông T, bà H phải trả lại đất thì
đất thuộc quyền sử dụng của ông T nên ông bà sẽ thương lượng với ông T để
mua lại đất giao lại cho ông S, bà H hoặc trường hợp ông T không bán thì ông
sẽ thương lượng với ông S để trả lại tiền cho ông S với số tiền phù hợp, tuy
8
nhiên ông không yêu cầu Toà án ghi nhận hoặc giải quyết trong vụ này này
mà ông bà sẽ thương lượng riêng với nhau.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Mộng T1 trình
bày: hoàn toàn nhất t và đồng ý với lời trình bày của chồng ông
Ánh H1.
* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 25/10/2025, ông Phan Thanh C1 chủ
tịch UBND xã D (trước thời điểm 01/7/2025) trình bày:
Về nguồn gốc đất: Theo Đơn đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền s
dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất ngày 11/01/2019,
ông Lê Ánh H1 khai: Nguồn gốc sử dụng do hộ ông Vũ Đức H3 khai hoang năm
1993, sử dụng đến m 2003 thì chuyển nhượng cho ông Văn H4 (Lê Ánh
H1). Vào tháng 01 năm 2019, ông Lê Ánh H1 đăng ký kê khai và được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 201153 ngày 11/4/2019 cho ông Ánh
H1, đối với thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 tại Buôn C, D, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk. Đến năm 2022, ông Lê Ánh H1 chuyển nhượng lại cho ông Đặng Anh
S và bà Trần Thị H.
Về trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 201153
ngày 11/4/2019 cho ông Ánh H1 thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
thửa đất số 247 giữa ông Ánh H1 với ông Đặng Anh S, Trần Thị H
đúng trình tự thủ tục, đúng quy định của pháp luật. Hồ đăng cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 201153 không bao gồm Hợp đồng chuyển
nhượng giữa ông Đức H3 ông Ánh H1 (do quy định của pháp luật
không bắt buộc).
Thửa đất được chuyển nhượng qua nhiều chủ sử dụng nhưng các bên liên
quan tự chuyển nhượng với nhau, không mời chính quyền địa phương chứng
kiến để xác định lại ranh giới, mốc giới với các hộ liền kề.
Qua xác minh, kiểm tra trên thực địa thì phần diện tích khoảng 8.000m
2
hiện nay ông Đặng Anh S, bà Trần Thị H đang tranh chấp với Trần Anh T thuộc
một phần của thửa đất số 247, tbản đồ số 38 tại Buôn C, D, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk.
Đối với yêu cầu của ông Đặng Anh S yêu cầu ông Trần Anh T phải trả lại
cho ông S Trần Thị H phần diện tích đất đang lấn chiếm khoảng 8.000m
2
thuộc thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 thì UBND xã D không ý kiến gì, đề
nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND D (đại diện: Ông
9
Nguyễn Hồng D) trình bày: Không ý kiến đối với nội dung vụ án, đề nghị
Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C3 (đại diện: ông
Chè Nại K) văn bản trình bày: Văn phòng C3 đã soát, kiểm tra lại toàn bộ
hồ lưu trữ tại văn phòng nhận thấy rằng: Việc Văn phòng C3 đã thực hiện
công chứng hợp đồng giao dịch liên quan đến vụ án nêu trên hoàn toàn đúng
theo quy định của pháp luật. Do đặc thù của công việc, Văn phòng C3 đề nghị
Toà án giải quyết vắng mặt trong quá trình tố tụng.
* Người làm chứng ông Vũ Đức H3 trình bày:
Vào cuối năm 1975 đầu năm 1976, gia đình ông, gia đình ông T một
số hộ gia đình khác cùng đi kinh tế mới vào thôn F, K, huyện K, tỉnh Đắk
Lắk. Các hộ gia đình đều tham gia khai hoang tại thôn E, C, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk và mỗi hộ gia đình đều có từ một đến vài mảnh đất.
Tuy nhiên do đất xấu, trồng cây không lên được nên nhiều hộ gia đình đã
bán đất cho ông Hà Văn X. Do đó, vào khoảng năm 2006 2007, ông X đã gom
mua của tất cả 15 hộ gia đình (không nhớ tên các hộ, không biết họ đâu đã
quá lâu) với tổng diện tích khoảng 5,8 ha, đất chưa được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Sau đó ông X đi đăng kê khai được cấp 03 Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. nhà nước quy định mỗi người không được đứng tên trên Giấy
chứng nhận quá 2 ha nên ông X nhờ ông đứng tên dùm 01 diện tích
khoảng 1,8 1,9 ha. Ông được ông X thuê làm công, cùng với vợ chồng ông X
phơi bã mỳ trên toàn bộ 5,8 ha đất trên cho đến năm 2019, ông X chuyển
nhượng toàn bộ 5,8 ha đất cho ông Ánh H1. Sau đó ông H1 sang nhượng lại
cho ai thì ông không biết.
Phần diện tích đất vợ chồng ông S, H ông T hiện đang tranh
chấp (hôm hoà giải tại xã thì ông xuống thực địa 02 lần) giáp với đất của ông
X, không nằm trong 5,8 ha mà ông X nhận chuyển nhượng của 15 hộ dân (15 hộ
này đất giáp nhau giáp với đất ông T). Khi ông X mua đất vào năm 2006,
ông đã thấy ông T nhận phần đất có tranh chấp đất của ông T, mỗi khi xe của
ông X chở mỳ đi ngang qua lún đất tông T chửi bới không cho xe đi. Ông
X đặt vấn đề mua lại khu đất đó nhưng ông T không đồng ý bán, do đó phần
đất đó không được ông X kê khai để cấp Giấy chứng nhận.
Do mỗi khi trời mưa to thì mỳ trôi vào lúa của dân nên ông X đã thuê
máy múc múc con mương chạy bao quanh ranh giới toàn bộ 5,8 ha, con mương
10
đó có một phần nằm giữa ranh đất của ông X và ông T.
Ông khẳng định phần diện tích đất mà vchồng ông S, H ông T
đang tranh chấp kể từ năm 2006 ông đã thấy ông T sử dụng không có tranh chấp
với ai, ông T để đất trống không trồng cây trên đất, cho đến gần đây khi xảy
ra tranh chấp thì ông thấy trụ tông rào lưới B40 giáp mương làm ranh đất,
là phù hợp với ranh đất thực tế trước đây của ông T và ông X.
* Người làm chứng ông Đào Văn T4 trình bày:
Khoảng năm 1990, ông T4 khai hoang diện tích đất giáp ranh với đất
của ông Đặng Anh S Trần Thị H đang đứng tên, hiện nay một người
tên T5 (không rõ họ tên, địa chỉ) đang sử dụng trồng sầu riêng. Khu đất này ông
T4 thấy bỏ hoang rất nhiều năm, không ai canh tác. Ông T4 chỉ thấy vợ chồng
ông X H5 (không rõ họ tên, địa chỉ) phơi mỳ vài năm, sau này ông
X và bà H6 đi thì đất lại bỏ hoang cho đến khi ông T5 đến trồng sầu riêng.
Đối với phần đất ông T ông S, H đang tranh chấp (hiện nay ông T
đang sử dụng) thì ông T4 thấy trồng mỳ trên đất nhưng không biết ai
trồng, khu đất đó được rào lại bằng lưới B40 không ai ra vào được, đất được rào
từ năm nào thì ông T4 không nhớ.
Gần khu đất tranh chấp thời điểm đó còn có một số người dân khai hoang,
canh tác đất gồm: ông B1 (không họ tên), ông L (không htên), ông T3
(không họ n), ông C2 (không họ n), những người này hiện nay đều đã
chết.
Thửa đất của ông T4 (không nhớ số thửa, số tờ bản đồ) giáp với thửa đất
số 247 tờ bản đồ số 38 của ông Đặng Anh S Trần Thị H thì vừa qua Toà
án có về đo đạc, ông T4 không có ý kiến gì đối với kết quả đo đạc. Ranh giới đất
của gia đình ông T4 nhà ông Đặng Anh S Trần Thị H từ trước đến nay
không thay đổi, ông T4 không biết do sao 81,8m
2
đất của ông T4 lại
nằm trong Giấy chứng nhận của ông Đặng Anh S cũng không biết sao
55m
2
đất ông S, bà H đang sử dụng lại nằm trong Giấy chứng nhận của gia đình
ông T4. Tuy nhiên, gia đình ông T4 không tranh chấp với ông S, bà H cũng
như ông T5 (người hiện đang sử dụng đất) ông T4 sthương lượng với ông
S, bà H và ông T5. Nếu có tranh chấp thì ông T4 sẽ khởi kiện vụ án khác để giải
quyết.
* Người làm chứng bà Trần Thị N trình bày: Bà hoàn toàn nhất trí và đồng
ý với lời trình bày của chồng bà là ông Đào Văn T4.
* Người làm chứng ông Nguyễn Thanh H2 trình bày:
11
Vào khoảng năm 1992-1993 ông có khai hoang 3000m
2
đất rừng tại Buôn
C, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
Vào thời điểm ông khai hoang thì còn ông Trần Anh T ông Trần
Anh C cùng khai hoang gần ông. Các ông xác định quyền sử dụng đất bằng cách
tự khai hoang hoặc đổi công để khai hoang, hạ cây cối xuống, dọn dẹp đất rồi tự
nhận đất với nhau.
Sau đó ông đã chuyển nhượng lại đất cho ông Văn X (không nhớ
thời gian chuyển nhượng, không biết địa chỉ ông X), do đất chưa giấy tờ n
lúc chuyển nhượng các ông không làm giấy tờ mua bán chỉ trao đổi bằng
miệng giao dịch tiền mặt. Từ khi bán đất xong ông không quay lại mảnh đất
trên và cũng không liên lạc gì đến ông Hà Văn X.
* Người làm chứng ông Trần Anh C trình bày:
Vào khoảng năm 1995-1996 ông khai hoang 01 đất cách thửa đất
hiện nay ông Trần Anh T đang tranh chấp với ông Đặng Anh S Trần
Thị H khoảng 2-3 lô.
Về nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp như sau: Khoảng năm 1994
1995, ông T vào phát ranh để giành đất rồi để đó. Đến khoảng năm
2003 2004 thì ông T mới phát dọn hoàn chỉnh trồng mỳ trên đất. Khoảng
năm 2005 2006 ông n đất tại khu vực đó nên không biết sau này ai sử dụng
đất ông T ông S hiện đang tranh chấp. Trong thời gian ông còn canh tác
đất gần khu đất tranh chấp thì ông chỉ thấy ông T sử dụng đất, ngoài ra ông
không thấy ai khác canh tác.
Gần khu đất tranh chấp thời điểm đó còn có một số người dân khai hoang,
canh tác đất gồm: ông B1 (không họ tên), ông L (không họ tên), ông
Nguyễn Văn T3, ông Khuôn C2, những người này hiện nay đã chết. Còn một số
người khác nhưng ông không biết họ tên.
* Tại Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ (kèm kết quả đo đạc) thể hiện:
Phần diện tích đất ông Đặng Anh S, bà Trần Thị H sử dụng không có tranh chấp
15.247,5m
2
(trong đó 55m
2
nằm trong Giấy chứng nhận của ông Đào Văn
T4; 179,3m
2
nằm ngoài Giấy chứng nhận cấp cho ông S). Như vậy thực tế diện
tích còn lại ông S, H đang sử dụng 15.013,5m
2
thuộc thửa đất số 247, tờ
bản đồ số 38.
Phần diện tích đất tranh chấp là 8689,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 247,
tờ bản đồ s38 được Ủy ban nhân dân huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số CP 201153
12
ngày 11/4/2019 cho ông Ánh H1 (chuyển nhượng cho bà Trần Thị H ông
Đặng Anh S ngày 25/02/2022). Đất tranh chấp có tứ cận:
- Phía Đông: giáp đất ông Đặng Anh S, hàng rào trụ bê tông rào lưới B40
do ông Trần Anh T xây dựng.
- Phía Tây: giáp đất nhà máy chế biến tinh bột sắn rào lưới B40 trụ
bê tông do ông T xây dựng;
- Phía Nam: giáp đất nhà máy chế biến tinh bột sắn;
- Phía Bắc: giáp đất ông Đặng Anh S, ranh giới phía Bắc được tính từ
giữa mương nước (do ông Vũ Đức H3 đào), ông T làm hàng rào lưới B40 cọc bê
tông bao quanh đường mương (có một đoạn để trống).
Xung quanh ranh đất tranh chấp đều mương đào. Trên đất cỏ mọc
hoang cao trên 2m.
Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn (ông Đặng Anh T6) nhất trí với
kết quả thẩm định.
Bị đơn ông Trần Anh T nhất trí với kết quả thẩm định và cho rằng hàng
rào lưới B40 được xây dựng năm 2019, mương nước của ông Đức H3 được
đào năm 2012.
Ông Đức H3 cho rằng: thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 được ông sử
dụng từ năm 2006 ông đã thấy ông Trần Anh T sử dụng phần đất đang tranh
chấp nên ông đào mương để xác định ranh giới với ông đất của ông Trần Anh T.
Ông chuyển nhượng thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 cho ông Đặng Anh S, tuy
nhiên không bao gồm phần đất tranh chấp giữa ông Đặng Anh S ông Trần
Anh T.
Ông Đào Văn T4 Trần Thị N (có đất liền kề thửa đất số 247) trình
bày: Phần đất tranh chấp cách đây vài năm, ông thấy ông Trần Anh T
trồng sắn (mì), trước khi ông T trồng sắn thì thấy phơi mì nhưng không
biết chính xác là ai.
* Tại Đơn đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà tài sản khác gắn liền với đất ngày 11/01/2019 thể hiện: Ông Ánh
H1 khai đăng cấp Giấy chứng nhận đối với 23.815,3m
2
thuộc thửa đất s
247, tờ bản đồ số 38 nguồn gốc hộ ông Đức H3 khai hoang năm 1993, sử
dụng đến năm 2003 chuyển nhượng cho ông Lê Ánh H1.
* Tại Biên bản xác minh thực địa về nguồn gốc sdụng đất qua trình
sử dụng đất ngày 13/5/2024 của UBND xã D thể hiện:
Ông Đặng Anh S Trần Thị H xác nhận nhận chuyển nhượng thửa
13
đất số 247, tờ bản đồ số 38 từ ông Ánh H1 được chỉnh biến động ngày
25/02/2022, bàn giao thực địa, hiện trạng đất không cây trồng, trụ
tông lưới B40 dài 287,5m
2
, từ khi bàn giao đến thời điểm ngày 13/5/2024 không
canh tác thửa đất nêu trên. Khi ông thuê xe giới vào cải tạo đất mới phát
hiện tranh chấp đất với ông T.
Ông Trần Anh T xác nhận: Thửa đất diện tích khoảng 8000m
2
do gia
đình ông khai hoang năm 2003 và trồng mỳ được 2 3 năm thì cho ông X mượn
khoảng 5000m
2
để phơi mỳ, đến năm 2017 ttrả cho ông để ông trồng mỳ.
Hàng rào lưới B40 trụ tông được ông rào năm 2019 còn mương phân chia
ranh giới đất được ông H3 đào năm 2008.
Ông Đức H3 xác nhận: Ông một số hộ khác nhận chuyển
nhượng của 15 hộ dân C với tổng diện tích 15 ha gồm 03 giấy chứng nhận.
Sau đó mới chuyển nhượng lại cho ông Ánh H1. Phần diện tích ông chuyển
nhượng cho ông H1 không diện tích đất của ông T trong đó, mương phân
chia ranh giới đất đồng thời để thoát nước được ông đào năm 2008.
Tại phiên tòa hôm nay: Nguyên đơn Đặng Anh S và bị đơn Trần Anh T
có mặt, các đương sự còn lại đều có đơn xin xét xử vắng mặt.
Nguyên đơn Đặng Anh S trình bày: Ông nhận chuyển nhượng 23.815,3m
2
đất từ ông Ánh H1 và Nguyễn Thị Mộng T1 thì các bên có ra chỉ ranh, có
chôn trụ tông làm mốc bàn giao đất trên thực địa, sau đó ông còn thuê
công ty Đ (không nhớ tên công ty) đo đạc 02 lần. Ông không cần biết nguồn
gốc cũng như quá trình sử dụng đất, căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất căn cứ pháp cao nhất ông yêu cầu ông Trần Anh T phải trả cho
ông 8.689,5m
2
đất đang tranh chấp.
Bị đơn Trần Anh T trình bày: Ông vẫn giữ nguyên các lời trình bày, ý
kiến trước đây không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn. Ông yêu cầu
tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H1, bà T1 với ông
S, bà H đối với 8.689,5m
2
đất đang tranh chấp là vô hiệu, yêu cầu huỷ một phần
Giấy chứng nhận đã cấp cho ông H1, bà T1 ã đăng ký biến động sang tên cho
ông S, bà H) đối với diện tích 8.689,5m
2
.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa của người tham gia ttụng
trong qtrình giải quyết vụ án kể từ khi thụ cho đến trước thời điểm Hội
đồng xét xử nghị án phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đã tuân thủ
đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
14
Đối với đương sự: Nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đã được đảm bảo đầy đcác quyền lời ích hợp pháp theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 26, Điều 34, Điều 35, Điều 39, Điều 91, Điều 92; Điều
157; Điều 165; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 117, 122, 123 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều Điều 100, 101, Điều 105, Điều 106, Điều 188, Điều 203
Luật Đất đai năm 2013;
Đề nghị Hội đồng xét xử: Bác đơn yêu cầu khởi kiện của Trần ThH
và ông Đặng Anh S, chấp nhận đơn yêu cầu của ông Trần Anh T, đề nghị tuyên
hiệu một phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
8.689,5m
2
, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên huỷ Giấy chứng nhận đã cấp cho ông
Lê Ánh H1 (biến động sang tên cho ông Đặng Anh STrần Thị H.
Về án phí, chi phí tố tụng: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, kết quả làm việc tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết “Tranh
chấp quyền sử dụng đất”, bị đơn yêu cầu “tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất vô hiệu, yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất””.
Đất tranh chấp toạ lạc tại Buôn C, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (nay là Buôn C,
D, tỉnh Đắk Lắk), bị đơn cũng địa chỉ như trên. Do đó vụ án thuộc thẩm
quyền của TAND khu vực 6 Đắk Lắk theo Điều 26, 34, 35, 39 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét
xử giải quyết vắng mặt một số đương sự do đơn xin xét xvắng mặt là phù
hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất: căn cứ xác định diện tích
8.689,5m² đất tranh chấp hiện nay không do ông Đức H3 khai hoang, quản
để chuyển nhượng cho ông Ánh H1, thực tế từ năm 2003 ông Trần
Anh T đã khai hoang, sử dụng. Nội dung này khẳng định bởi chính ông Vũ Đức
H3 khai rằng diện tích tranh chấp không nằm trong phần đất ông đã mua của
các hộ dân và cũng không chuyển nhượng cho ông H1. Ông H3 còn cho biết đã
15
trực tiếp đào mương ranh giới giữa đất của ông và đất ông T từ trước năm 2008.
Các nhân chứng (ông Trần Anh C, ông Nguyễn Thanh H2, ông Đào Văn T4…)
đều xác nhận ông T khai hoang, canh tác trên diện tích đất này từ nhiều năm,
không có ai tranh chấp.
[4] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Nguyên đơn yêu cầu buộc ông T trả lại diện tích đất 8.689,5m² với căn cứ
duy nhất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được cấp. Tuy nhiên, Giấy
chứng nhận này đã cấp bao gồm cả phần đất không thuộc quyền quản lý, sử
dụng của ông H1, T1. Ông S, H cũng không chứng minh được việc mình
đã từng quản lý, sử dụng thực tế diện tích đất này. Do đó, yêu cầu của nguyên
đơn không sở pháp luật, cần bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
[5] Về yêu cầu của bị đơn về việc tuyên hiệu một phần Hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ ngày 21/01/2022 (giữa ông H1, T1 ông S, H)
đối với diện tích 8.689,5m².
Khi chuyển nhượng các bên chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; giữa hai bên cũng không tiến hành đo đạc lại diện tích đất chuyển
nhượng nên cả hai bên đều nhầm tưởng diện tích thửa đất 23.815,3m
2
trong
khi thực tế 8689,5m
2
không thuộc quyền sử dụng của ông Ánh H1. Như
vậy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên đã chuyển nhượng
một phần diện tích đất không thuộc quyền sử dụng thực tế của bên chuyển
nhượng (ông H1), ông H1 và bà T1 đồng ý với yêu cầu của bị đơn. Xét thấy hợp
đồng đã vi phạm điều cấm của pháp luật theo quy định tại Điều 117, 122, 123
Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 188 Luật Đất đai năm 2013. vậy, hợp đồng
vô hiệu một phần là có căn cứ nên cần chấp nhận yêu cầu của bị đơn.
[6] Về hậu quả của hợp đồng hiệu: Các bên không yêu cầu giải quyết
hậu quả của hợp đồng hiệu nên không xem xét, giải quyết trong ván này.
Trường hợp có yêu cầu thì các bên có quyền khởi kiện vụ án khác để giải quyết.
[7] Về yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo hồ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 201153 ngày
11/4/2019 cho ông Ánh H1, diện tích được cấp 23.815,3m², trong đó bao
gồm cả 8.689,5m² đất thực tế do ông T sử dụng. Việc này sai sót trong quá
trình kê khai đo đạc, vì: UBND xác nhận thủ tục cấp giấy “đúng quy
trình” nhưng không tiến hành xác định ranh giới, mốc giới với hộ liền kề. Ông
H1, T1 thừa nhận chỉ đứng từ xa chỉ ranh, không cắm mốc, không đo đạc cụ
16
thể khi khai. Ông S, H khi nhận chuyển nhượng từ ông H1 năm 2022
cũng không đo đạc lại, chỉ căn cứ vào giấy tờ có sẵn.
Thực địa thể hiện có hàng rào lưới B40 và trụtông do ông T xây dựng
từ năm 2019 để bảo vệ ranh đất. Đây là dấu hiệu cho thấy ông T sử dụng đất ổn
định, công khai, liên tục. Như vậy, diện tích 8.689,5m² không thuộc quyền quản
lý, sử dụng của ông H3, do đó việc ông H1 khai nguồn gốc đất nhận chuyển
nhượng từ ông H3 để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không
đúng thực tế sử dụng đất.
Do đó, việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 201153 ghi nhận
diện tích 23.815,3m², bao gồm cả phần đất 8.689,5m² vốn do ông T quản lý,
không đúng chủ sử dụng đất thực tế, vi phạm Điều 100, 101, 105 Điều 106
Luật Đất đai năm 2013 (các trường hợp thu hồi, hủy bỏ Giấy chứng nhận đã cấp
sai).
Xét thấy Tòa án quyền hủy quyết định biệt trái pháp luật của
quan, tổ chức, người thẩm quyền m phạm quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án nhiệm vụ giải quyết mà không phụ
thuộc vào việc đương sự yêu cầu hay không, căn cứ Điều 34 BLTTDS 2015
mục II của giải đáp nghiệp vụ số 02/GĐ- TANDTC ngày 19/9/2016 thì yêu
cầu này không được xem là yêu cầu phản tố của bị đơn. Việc hủy một phần Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp đối với diện tích 8.689,5m² cần thiết,
nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất thực s(ông T), phù
hợp Điều 34 BLTTDS 2015 và Điều 106 Luật Đất đai 2013.
[8] Về chi phí tố tụng và án phí: Chi phí đo đạc, xem xét, thẩm định tại
chỗ 5.816.000 đồng (đã làm tròn). Án phí đối với tranh chấp quyền sdụng
đất là 300.000 đồng, án phí tuyên bố hợp đồng vô hiệu là 300.000 đồng.
Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận, nên ông Đặng Anh S
Trần Thị H phải chịu án phí dân sự thẩm toàn bộ chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ theo quy định.
Xét đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp nên cần chấp nhận.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ vào Điều 26, Điều 34, Điều 35, Điều 39, Điều 91, Điều 92; Điều
157; Điều 165; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- n cứ Điều 117, 122, 123 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều Điều 100, 101, Điều 105, Điều 106, Điều 188, Điều 203
17
Luật Đất đai năm 2013;
- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đặng Anh S
Trần Thị H về việc yêu cầu ông Trần Anh T trả lại diện tích 8.689,5m² đất thuộc
thuộc thửa đất số 247, tờ bản đồ số 38 tại Buôn C, D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk
(nay là Buôn C, xã D, tỉnh Đắk Lắk.
2. Chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Trần Anh T: Tuyên bố hiệu một
phần Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/01/2022 tại Văn
phòng C3 giữa ông Ánh H1, Nguyễn Thị Mộng T1 với ông Đặng Anh S,
Trần Thị H, đối với diện tích 8.689,5m² nêu trên.
3. T7 hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 201153
ngày 11/4/2019 của UBND huyện K ã chỉnh sang tên ông Đặng Anh S, bà
Trần Thị H ngày 25/02/2022), đối với diện tích 8.689,5m² thuộc thửa đất số 247,
tờ bản đồ số 38 tại Buôn C, D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Nay là Buôn C, D,
tỉnh Đắk Lắk - có sơ đồ kèm theo).
4. Về chi phí tố tụng: Ông Đặng Anh S, Trần Thị H phải chịu
5.736.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ (đã nộp và chi phí xong).
5. Về án phí: Nguyên đơn ông Đặng Anh S, Trần Thị H phải chịu án
phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch 600.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 2.500.000 đồng, trả lại cho ông Đặng Anh S và bà Trần
Thị H số tiền 1.900.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số
AA/2023/0007119 ngày 11/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông
Bông, tỉnh Đắk Lắk (nay là Phòng thi hành án dân sự khu vực 6 – Đắk Lắk).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều
6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6. Đương sự mặt quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt quyền kháng cáo bản án trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết
18
công khai.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
-TANDTC; Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa
-TAND tỉnh Đắk Lắk;
- VKSND khu vực 6 – Đắk Lắk;
- THADS tỉnh Đắk Lắk;
-Các đương sự;
- VPĐKDĐ tỉnh Đắk Lắk –
Chi nhánh khu vực K;
- Lưu Hồ sơ. Nguyễn Thị Tâm
Tải về
Bản án số 13/2025/DS-ST Bản án số 13/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 13/2025/DS-ST Bản án số 13/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất