Bản án số 120/2018/DS-PT ngày 08/06/2018 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 120/2018/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 120/2018/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 120/2018/DS-PT ngày 08/06/2018 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 120/2018/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/06/2018 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 120/2018/DS-PT
Ngày 08 - 6 - 2018
V/v Tranh chấp quyền sở hữu nhà.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thu Thủy;
Các thẩm phán: Ông Đặng Văn Ý;
Ông Hoàng Thanh Dũng.
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Tấn Duy Minh – Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Hà Văn Hừng - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
175/2017/TLPT-DS ngày 09 tháng 8 năm 2017 về việc “Tranh chấp quyền sở
hữu nhà”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 791/2017/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2017
của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 570/2017/QĐ - PT
ngày 12 tháng 9 năm 2017, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Hoàng Ngọc H, sinh năm 1961, (có mặt).
Địa chỉ: cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Ông Trần Hoàng Ngọc T, sinh năm 1963 (có mặt).
Địa chỉ: cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Hoàng Th, sinh năm 1964 (có
mặt).
Địa chỉ: đường L, Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Thùy Ng, sinh năm 1957.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Hoàng Th, sinh năm 1964.
Địa chỉ: đường L, Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.
2
2. Bà Trần Hoàng Phượng Kh, sinh năm 1987.
3. Bà Trần Hoàng Phương Kh1, sinh năm 1994.
4. Ông Trần Hoàng Minh Kh2, sinh năm 1998.
Cùng địa chỉ: cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Bà Đàm Mỹ Q, sinh năm 1959.
6. Bà Trần Ngọc Mỹ H1, sinh năm 1986.
7. Ông Trần Hoàng Nhật Kh3, sinh năm 1993.
Cùng địa chỉ: cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của các ông (bà) Đàm Mỹ Q, Trần Ngọc
Mỹ H1, Trần Hoàng Nhật Kh3: Ông Trần Hoàng Ngọc H.
8. Ông Trần Hoàng Ngọc B, sinh năm 1951.
Địa chỉ: đường Ng, Phường 11, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
9. Bà Trần Thúy Ngọc T1, sinh năm 1955.
Địa chỉ: R St, Ch, C 91311 USA.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Hoàng Ngọc H.
10. Bà Trần Thúy Ngọc H2, sinh năm 1957.
Địa chỉ: Đường L56, phường B, Quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh.
11. Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1955.
12. Ông Trần Hoàng Trung Q1, sinh năm 1983.
13. Bà Trần Thụy Trúc Q2, sinh năm 1988.
Cùng địa chỉ: Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của các ông bà Nguyễn Thị Kim O, Trần
Hoàng Trung Q1, Trần Thụy Trúc Q2: Ông Trần Hoàng Ngọc H.
14. Ông Trần Hoàng Ngọc C; sinh năm 1968 (chết ngày 27/3/2016),
không vợ con.
- Người kháng cáo: Ông Trần Hoàng Ngọc T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Trần Hoàng Ngọc H trình bày:
Nguồn gốc căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh là tài sản chung của ông Trần Văn Th1 (chết năm 1981) và bà Trần Thị
H3 (chết năm 1994) được nhà nước chế độ cũ cấp.
Trong quá trình chung sống, ông Th1, bà H3 có 07 người con chung:
1. Ông Trần Hoàng Ngọc B, sinh năm 1951.
3
2. Bà Trần Thúy Ngọc T, sinh năm 1955.
3. Bà Trần Thúy Ngọc H2, sinh năm 1957.
4. Ông Trần Hoàng Ngọc Q3, sinh năm 1959 (chết năm 2010). Có vợ và
con là:
4.1 Bà Nguyễn Thị Kim O, sinh năm 1955.
4.2 Ông Trần Hoàng Trung Q1, sinh năm 1983.
4.3 Bà Trần Thụy Trúc Q2
5. Ông Trần Hoàng Ngọc H, sinh năm 1961.
6. Ông Trần Hoàng Ngọc T, sinh năm 1963.
7. Ông Trần Hoàng Ngọc C (chết ngày 27/3/2016), không có vợ con.
Sau khi ông Th1 chết, bà H3 đứng tên thuê nhà và đóng thuế nhà đất theo
Hợp đồng thuê nhà số 2201/CNTP91 ngày 20/7/1991 của Xí nghiệp quản lý nhà
Quận 3. Ngày 20/6/1991, bà H3 lập giấy ủy quyền số 12727 tại Phòng Công
chứng nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh, với nội dung ủy quyền cho ông T
được toàn quyền thay mặt bà để hoàn tất hồ sơ, thủ tục mua hóa giá căn nhà tại
Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Vào thời điểm hợp thức hóa, trong hộ khẩu căn nhà tại Cư xá Đ, Phường
4, Quận 3 có 08 người cư trú gồm: Bà Trần Thị H3, gia đình ông Trần Hoàng
Ngọc H (03 người), gia đình ông Trần Hoàng Ngọc T (03 người) và ông Trần
Hoàng Ngọc C.
Đối với phần diện tích nhà ông H đang ở (12m
2
) có nguồn gốc nguyên
trước đây là thuộc phần sân của căn nhà, khoảng năm 1979 – 1980, ông H đã
xây dựng phần diện tích nói trên để ở, sau khi giải tỏa mở hẻm, thì ông có cơ nới
thêm để có diện tích như hiện nay, không có giấy phép xây dựng.
Đến năm 2011, ông mới phát hiện vợ chồng ông T đã tự ý sang tên và
đứng tên sở hữu căn nhà nói trên từ 1993.
Nay, ông Trần Hoàng Ngọc H yêu cầu Tòa án công nhận căn nhà nói trên
là di sản của các đồng thừa kế bao gồm ông Bửu, bà Hồng, bà Tiên, vợ con ông
Quí, ông T, ông H và giữ nguyên hiện trạng, nếu bán thì phải chia đều cho các
đồng thừa kế.
Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Trần Hoàng Ngọc H xác định lại
yêu cầu khởi kiện: Đề nghị Toà án công nhận căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4,
Quận 3 là tài sản chung của 02 anh em Trần Hoàng Ngọc H – Trần Hoàng Ngọc
T và giữ nguyên hiện trạng.
Bị đơn ông Trần Hoàng Ngọc T có đại diện theo ủy quyền là ông Trương
Hoàng Th trình bày:
4
Về quan hệ gia đình và các anh em trong nhà, ông thống nhất với lời trình
bày của nguyên đơn.
Về nguồn gốc căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh không phải của cha mẹ để lại mà do vợ chồng ông T, bà Ng bỏ tiền ra mua
lại của Nhà nước (Theo hợp đồng số 1379/HĐBHGN ngày 27/12/1991). Vợ
chồng ông đã hoàn tất thủ tục và đóng thuế đầy đủ. Vào thời điểm hợp thức hóa
căn nhà trên, có gia đình ông T, gia đình ông H, ông C và bà H3 cư trú, có hộ
khẩu thường trú tại đây và chưa có phần xây dựng phía trước là căn nhà 12m
2
hiện nay mà ông H đang ở, đến năm 1995 ông H mới xây nhà trên phần sân
trước của căn nhà này.
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông không đồng ý vì ông H
không có bất cứ giấy tờ nào có giá trị pháp lý chứng minh căn nhà tại Cư xá Đ
của cha mẹ để lại.
Đồng thời, ông có yêu cầu phản tố: Yêu cầu ông H trả lại sân trước của
căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh cho gia đình
ông, diện tích là 3m x 4m mà vợ chồng ông đã cho gia đình ông H cư trú. Do
ông H tự ý xây dựng phần sân, nên bị đơn yêu cầu ông H phải trả lại phần diện
tích này và phía ông sẽ không trả lại cho ông H phần giá trị xây dựng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T xác định lại ông yêu cầu Tòa án bác toàn bộ
yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, công nhận căn
nhà trên thuộc sở hữu của vợ chồng ông T, bà Ng đồng thời yêu cầu gia đình
ông H di dời ngay ra khỏi căn nhà, trả lại phần diện tích 12m
2
cho ông gia đình
ông T, ông T đồng ý hỗ trợ ông H 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng) cho
việc di chuyển nơi ở.
Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Hoàng Ngọc B
và bà Trần Thuý Ngọc Hồng trình bày:
Căn nhà đang tranh chấp là tài sản của cha mẹ để lại, khi mua hóa giá, ông
T chỉ thay mặt anh chị em trong nhà đứng tên, làm thủ tục hợp thức hóa. Nay
ông bà không có yêu cầu gì đối với vụ kiện này nhưng nếu ông T bán nhà thì
phải chia cho ông H phần đất mà trước giờ ông H vẫn sinh sống.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 791/2017/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm
2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều
38, Điều 273, Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Căn cứ Pháp lệnh Nhà ở
1991; Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án 2009; Căn cứ điểm a khoản 2 Điều
17 Nghị quyết 01/2012/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh án phí, lệ phí
Toà án; Căn cứ Luật thi hành án dân sự.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn – ông Trần Hoàng Ngọc
H:
5
Xác định căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3 có diện tích khuôn viên
76,25m
2
, diện tích xây dựng 67,43m
2
do ông Trần Hoàng Ngọc T và bà Nguyễn
Thị Thuỳ Ng đứng tên theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà số 201/CN-UB
do Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/01/1993 là tài sản
thuộc sở hữu chung của các ông bà Trần Hoàng Ngọc T, Nguyễn Thị Thuỳ Ng,
Trần Hoàng Ngọc H, Đàm Mỹ Q.
2. Bác yêu cầu của ông Trần Hoàng Ngọc T về việc buộc gia đình ông H
phải di dời ra khỏi nhà để trả lại phần mặt bằng diện tích 12m
2
của căn nhà tại
Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, việc thi hành án và quyền
kháng cáo vụ án theo luật định.
Ngày 03/7/2017, bị đơn ông Trần Hoàng Ngọc T có đơn kháng cáo đề
nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Hoàng Ngọc T vẫn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm với lý do: Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm thủ
tục tố tụng do nguyên đơn không thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu công nhận
quyền sở hữu chung nhưng Hội đồng xét xử sơ thẩm lại xem xét yêu cầu công
nhận quyền sở hữu chung. Cấp sơ thẩm căn cứ vào phiếu phúc tra công văn ngày
17/2/1992 của Phòng Thương binh xã hội Quận 3 để xem xét chấp nhận một phần
kháng cáo của ông H là không khách quan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử phúc thẩm tuân thủ đúng các quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự từ giai đoạn thụ lý đến khi giải quyết vụ án. Các đương sự
chấp hành đầy đủ các quy định pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng.
- Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, ông Trần Hoàng Ngọc T
không cung cấp thêm được tài liệu, chứng cứ gì mới. Cấp sơ thẩm đã xét xử đúng
quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của ông T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị đơn ông Trần Hoàng Ngọc T nằm
trong hạn luật định và được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày
của các đương sự tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét đơn kháng cáo của
ông Trần Hoàng Ngọc T như sau:
[2.1] Nguyên đơn Trần Hoàng Ngọc H khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận
căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh là di sản thừa
kế. Trong quá trình xét xử sơ thẩm, ông H thay đổi yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa
6
án công nhận căn nhà nói trên là tài sản chung của gia đình ông và gia đình ông
Trần Hoàng Ngọc T, đồng thời yêu cầu giữ nguyên hiện trạng sử dụng căn nhà.
Bị đơn ông Trần Hoàng Ngọc T không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
và có yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn phải di dời và trả lại phần diện tích 12m
2
mà nguyên đơn đang sử dụng cho gia đình ông.
[2.2] Xét nguồn gốc căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ
Chí Minh có nguồn gốc do ông Trần Văn Th1 (cha của ông H và ông T) được Đô
trưởng Đ Sài Gòn cấp năm 1960. Sau khi ông Th1 mất, vợ ông Th1 là bà Trần
Thị H3 cùng các con trong đó có ông H và ông T vẫn tiếp tục ở trong căn nhà nêu
trên. Thực hiện quản lý nhà ở, ngày 10/7/1990, UBND Quận 3 đã ra Quyết định
hợp thức hóa sử dụng căn nhà nêu trên cho bà Trần Thị H3 và các thành viên
trong gia đình gồm 07 nhân khẩu (BL106). Sau đó, ngày 20/7/1991, căn cứ vào
sự ủy quyền của bà H3, Xí nghiệp quản lý nhà Quận 3 đã ký hợp đồng thuê nhà
số 2201/CNTP91 với ông Trần Hoàng Ngọc T.
Để mua hóa giá căn nhà, bà Trần Thị H3, ông Trần Hoàng Ngọc H, bà
Đàm Mỹ Q và tất cả những người con khác của ông Th1, bà H3 như ông Trần
Hoàng Ngọc B, Trần Hoàng Ngọc Q3, Trần Thúy Ngọc T, Trần Thúy Ngọc H2
đều làm tờ ủy quyền để ông Trần Hoàng Ngọc T đứng tên mua hóa giá nhà
(BL108-109). Riêng ông Trần Hoàng Ngọc C do bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự nên không lập tờ ủy quyền. Căn cứ vào các tờ ủy quyền trên, ông Trần Hoàng
Ngọc T và bà Nguyễn Thị Thùy Ng đứng ra lập các thủ tục mua hóa giá căn nhà.
Tại tờ Xác nhận ngày 13/2/1993 của Hội đồng hóa giá nhà Quận 3 (BL226)
xác định căn nhà số 82 Cư xá Đ do chế độ cũ cấp cho ông Th1, sau đó giao cho
bà H3, bà H3 ủy quyền cho con ruột là Trần Hoàng Ngọc T. Giấy xác nhận này
xác định về chính sách mua hóa giá “đối tượng được hóa giá (công nhân viên,
gia đình liệt sĩ..” và căn nhà nêu trên hiện có 08 nhân khẩu, có 04 công nhân
viên. Hồ sơ mua hóa giá căn nhà thể hiện Hội đồng hóa giá nhà Quận 3 dựa trên
thời gian công tác, mức lương của 04 công nhân viên trong hộ gồm ông T, bà Tr,
ông H và bà Đàm Mỹ Q (vợ ông H) để tính tỷ lệ % được miễn giảm khi mua hóa
giá nhà (BL221).
Kể từ thời điểm trước và sau khi mua hóa giá nhà, hộ gia đình ông Nguyễn
Hoàng Ngọc H và ông T vẫn ở chung trong căn nhà này. Cả nguyên đơn và bị
đơn đều thừa nhận gia đình ông H đã sử dụng phần diện tích 12m
2
đất phía trước
căn nhà tại Cư xá Đ từ năm 1981 đến nay; gia đình ông H là người bỏ tiền ra xây
dựng phần nhà trên diện tích 12m
2
này. Khi mua hóa giá nhà, phần này cũng
được tính luôn vào diện tích hóa giá và ông T không có khiếu nại gì.
[2.3] Như vậy, có cơ sở xác định nhà nước bán hóa giá căn nhà cho các
thành viên trong gia đình mà ông T là người đại diện đứng tên mua nhà. Ông T
kháng cáo cho rằng vợ chồng ông là người đứng tên mua nhà, thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ tài chính nên đây là tài sản riêng của vợ chồng ông là không có căn cứ.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác
7
định căn nhà tại Cư xá Đ là tài sản chung của các ông bà Trần Hoàng Ngọc T,
Nguyễn Thị Thùy Ng, Trần Hoàng Ngọc H, Đàm Mỹ Q và bác yêu cầu phản tố
của bị đơn về việc buộc gia đình ông H di dời để trả lại diện tích 12m
2
là có cơ
sở, đúng quy định của pháp luật.
[3] Ông Trần Hoàng Ngọc T kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ
nào mới nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông. Bản
án sơ thẩm cần được giữ nguyên như quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát.
[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Trần Hoàng Ngọc T phải
chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Trần Hoàng Ngọc T. Giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số 791/2017/DSST ngày 28/6/2017 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ Pháp lệnh Nhà ở năm 1991; Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án
năm 2009; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án; Căn cứ Luật Thi hành án Dân sự.
Tuyên xử:
1/. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn ông Trần Hoàng Ngọc H.
Xác định căn nhà tại Cư xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh
có diện tích khuôn viên 76,25m
2
, diện tích xây dựng 67,43m
2
do ông Trần Hoàng
Ngọc T và bà Nguyễn Thị Thùy Ng đứng tên theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà số 201/CN-UB do UBND Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 01/01/1993 là
tài sản thuộc sở hữu chung của các ông bà Trần Hoàng Ngọc T, Nguyễn Thị Thùy
Ng, Trần Hoàng Ngọc H, Đàm Mỹ Q.
2/. Bác yêu cầu của ông Trần Hoàng Ngọc T về việc buộc gia đình ông H
phải di dời ra khỏi nhà để trả lại phần mặt bằng diện tích 12m
2
của căn nhà tại Cư
xá Đ, Phường 4, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/. Về án phí:
- Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Trần Hoàng Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 400.000 đồng,
được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 10.000.000 đồng theo biên lai thu số
06862 ngày 07/5/2014 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, ông
T được nhận lại 9.600.000 đồng.
8
Ông Trần Hoàng Ngọc H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, trả lại cho
ông H tiền tạm ứng án phí đã nộp là 36.000.000 đồng theo biên lai thu số 06642
ngày 24/3/2014 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
- Án phí phúc thẩm: Ông Trần Hoàng Ngọc T phải chịu 300.000 đồng án
phí phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 theo biên lai thu
số 0047215 ngày 17/7/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí
Minh.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao tại Tp. Hồ Chí Minh;
- TAND Tp. Hồ Chí Minh;
- VKSND Tp. Hồ Chí Minh;
- Cục THADS Tp. Hồ Chí Minh;
- NĐ (1);
- BĐ (1);
- NLQ (14);
- Lưu VP(3), HS (2).26b.NTDM.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Thu Thủy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 16/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 15/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 07/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm