Bản án số 09/2022/DS-ST ngày 01/04/2022 của TAND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng tín dụng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 09/2022/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 09/2022/DS-ST ngày 01/04/2022 của TAND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tín dụng
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Mang Yang (TAND tỉnh Gia Lai)
Số hiệu: 09/2022/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/04/2022
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyên đơn Ngân hàng TMCP Đông Á bị đơn Phạm Văn Bảy và bà Đăng Thị Luyến
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG YANG, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2022/DS-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 01 tháng 04 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 05/2021/TLST-DS ngày 02 tháng 02 năm 2021, về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 2 năm 2022 giữa các đương sự

1. Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á.

Địa chỉ: 130, Phan Đăng L, quận Phú N, thành phố Hồ Chí Minh.

Đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Văn M – Giám đốc Ngân hàng TMCP Đông Á.

Đại diện ủy quyền lại: ông Hà Nguyễn Nam Kh – Nhân viên phòng phát triển kinh doanh.

Địa chỉ: 01 Phạm Văn Đ, phường Tây S, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai, (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Phạm Văn B– Sinh năm: 1967 Bà Đặng Thị L – Sinh năm 1971 Địa chỉ: Thôn Mỹ Y, xã Đăk Y, Mang Y, Gia Lai (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

- Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 27/02/2022, biên bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa hôm nay của nguyên đơn.

Theo Hợp đồng tín dụng số N0511/118 ngày 13/06/2018 chi tiết bao gồm những khoản như sau:

Hợp đồng tín dụng số: N0511/118 ngày 13/06/2018. Số tiền vay 1.300.000.000 VND (Bằng chữ: Một tỷ ba trăm triệu đồng. Lãi suất 10,50%/năm (lãi quá hạn 15,75%/năm). Thời hạn vay: 12 tháng. Mục đích vay: bổ sung vốn đầu tư nông nghiệp.

Ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L thế chấp cho DongA Bank tài sản gồm:

1. Bất động sản tọa lạc tại Thôn Mỹ Y – Xã Đăk Y– Huyện Mang Y - Tỉnh Gia Lai. Thửa số 00; Tờ bản đồ 00, diện tích: 16.797m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 179572 do UBND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai cấp ngày 15/05/2006, chủ sở hữu/sử dụng là Ông Phạm Văn B và Bà Đặng Thị L.

2. Bất động sản tọa lạc tại Thôn Mỹ Y – Xã Đăk Y– Huyện Mang Y - Tỉnh Gia Lai. Thửa số 14; Tờ bản đồ 44, diện tích 18.489m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BĐ 491703 do UBND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai cấp ngày 04/04/2011, chủ sở hữu/sử dụng là ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L.

Chi tiết tài sản theo Hợp đồng thế chấp số N8199/HĐTC ngày 28/06/2017 và Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng số N8199/HĐTC-01/2018/PLHĐ ngày 13/06/2018.

Trong quá trình vay, từ ngày 13/06/2018 đến ngày 20/10/2020 ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L trả được tổng số tiền như sau: Tổng cộng: Lãi trong hạn:

68.500.000 VND (Bằng chữ: Sáu mươi tám triệu năm trăm ngàn đồng).

Do ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên từ ngày 14/06/2019 DongA Bank đã chuyển toàn bộ số nợ vay còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến ngày 20/10/2020 ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L còn nợ các khoản sau. Vốn: 1.300.000.000 VND. Lãi trong hạn: 68.000.000 VND. Lãi quá hạn: 277.674.658 VND. Tổng cộng: 1.645.674.658 VNĐ (Bằng chữ: Một tỷ, sáu trăm bốn mươi lăm triệu, sáu trăm bảy mươi tư ngàn, sáu trăm năm mươi tám đồng).

Nay yêu cầu ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L trả ngay cho DongA Bank tổng số nợ còn thiếu (gồm lãi trong hạn, lãi quá hạn, vốn) tính đến ngày 20/10/2020 là 1.645.674.658 VNĐ (Bằng chữ: Một tỷ, sáu trăm bốn mươi lăm triệu, sáu trăm bảy mươi tư ngàn, sáu trăm năm mươi tám đồng) và tiền lãi phát sinh từ ngày 21/10/2020 đến ngày ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L trả hết nợ cho DongA Bank theo lãi suất quá hạn (theo hợp đồng tín dụng N0511/118 ngày 13/06/2018) đã ký.

Nếu ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L không thực hiện theo yêu cầu tại điểm 1 nêu trên thì DongA Bank được quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho DongA Bank, chi tiết cụ thể ở trên:

Chi tiết tài sản theo Hợp đồng thế chấp số N8199/HĐTC ngày 28/06/2017 và Văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng số N8199/HĐTC-01/2018/PLHĐ ngày 13/06/2018 Trường hợp tài sản đảm bảo không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L tại DongA Bank thì ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho DongA Bank.

Ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L phải chịu mọi chi phí phát sinh (án phí, lệ phí) nếu có.

Kính đề nghị Quý Tòa xem xét, tạo điều kiện để Ngân hàng TMCP Đông Á bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và thu hồi nợ theo đúng quy định của pháp luật.

Về chứng cứ: Không bổ sung chứng cứ gì thêm.

*Bị đơn ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L vắng mặt tại phiên họp nên không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn vẫn yêu cầu bị đơn ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L trả ngay cho Ngân hàng TMCP Đông Á. Tổng số nợ còn thiếu Tính đến ngày 01/04/2022 là: Vốn:1.300.000.000 đồng. Lãi trong hạn: 68.000.000 đồng. Lãi qúa hạn: 573.860.959 đồng. Tổng cộng:1.941.860.959 đồng. (một tỷ, chín trăm bốn mươi mốt triệu, tám trăm sáu mươi nghìn, chín trăm năm mươi chín đồng).

Ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L tiếp tục trả tiền lãi, phạt chậm trả lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại Hợp đồng cấp tín dụng và Khế ước nhận nợ, tính kể từ ngày 01/4/2022 đến ngày trả dứt nợ.

Thứ tự trả nợ như sau: vốn gốc, phạt chậm trả lãi, lãi quá hạn, lãi trong hạn.

Nếu ông Phạm Văn Bẩy và Bà Đặng Thị Luyến không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ thì tài sản bảo đảm được cơ quan có thẩm quyền xử lý để thu hồi nợ là tài sản trên.

Nay nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện buộc bị đơn phải trả ngay số tiền trên.

Kể từ ngày xét xử sơ thẩm, bị đơn còn tiếp tục phải trả tiền lãi trên số tiền nợ gốc chưa trả theo mức lãi suất hai bên đã thỏa thuận ký kết trong hợp đồng tín dụng tại thời điểm thanh toán cho đến khi trả hết nợ gốc. Trường hợp bị đơn không trả được nợ thì nguyên đơn có quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện VKSND huyện Mang Yang tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa của thẩm phán. Hội thẩm nhân dân, thư ký, nguyên đơn là đúng với quy định của pháp luật. Về hướng giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tổng số tiền nợ tính đến ngày 01/04/ 2022 là: Vốn: 1.300.000.000 đồng. Lãi trong hạn: 68.000.000 đồng. Lãi qúa hạn: 573.860.959 đồng. Tổng cộng: 1.941.860.959 đồng. (một tỷ, chín trăm bốn mươi mốt triệu, tám trăm sáu mươi nghìn, chín trăm năm mươi chín đồng).

Trường hợp bị đơn không trả được thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, bị đơn còn phải tiếp tục trả tiền lãi trên số tiền nợ gốc chưa trả theo mức lãi suất trong hợp tín dụng cho đến khi trả xong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nôi dung vụ án căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

-Về thủ tục tố tụng:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Trong vụ án này nguyên đơn là tổ chức tín dụng; nội dung hợp đồng giữa nguyên đơn và bị đơn là vay tiền, mục đích vay của bị đơn để bổ sung vốn đầu tư nông nghiệp. Đây là vụ án dân sự về “tranh chấp hợp đồng tín dụng”, bị đơn là ông Phạm Văn B và Bà Đặng Thị L, có địa chỉ cư trú tại: Thôn Mỹ Yang, xã Đăk Yă, huyện Mang Yang, Gia lai, nên vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai. Theo khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Quyết định xét xử, Quyết định hõan phiên tòa của Tòa án đã được tống đạt cho bị đơn đúng theo quy định, nhưng bị đơn đều vắng mặt không có lý do chính đáng, nên HĐXX quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo khoản 2 điều 227 và khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

-Về nội dung tranh chấp:

[3]. Hợp đồng tín dụng số: N0511/118 ngày 13/06/2018. Số tiền vay 1.300.000.000VND (Bằng chữ: Một tỷ ba trăm triệu đồng. Lãi suất 10,50%/năm (lãi quá hạn 15,75%/năm). Thời hạn vay: 12 tháng. Mục đích vay: Bổ sung vốn đầu tư nông nghiệp.

Đảm bảo khoản vay trên bị đơn đã dùng.

-Bất động sản tọa lạc tại Thôn Mỹ Y – Xã Đăk Y– Huyện Mang Y - Tỉnh Gia Lai. Thửa số 00; Tờ bản đồ 00 . Diện tích: 16.797m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 179572 do UBND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai cấp ngày 15/05/2006, chủ sở hữu/sử dụng là ông Phạm Văn Bẩy và bà Đặng Thị Luyến.

-Bất động sản tọa lạc tại Thôn Mỹ Y – Xã Đăk Y– Huyện Mang Y - Tỉnh Gia Lai. Thửa số 14; Tờ bản đồ 44. Diện tích 18.489m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BĐ 491703 do UBND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai cấp ngày 04/04/2011, chủ sở hữu/sử dụng là ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L.

Sau khi hợp đồng ký kết. Nguyên đơn đã giải ngân cho bị đơn đầy đủ số tiền trên. Hợp đồng tín dụng này nói chung và điều khoản về mức lãi suất nói riêng được các bên ký kết trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nội dung không trái đạo đức xã hội, không trái pháp luật dân sự. Luật các tổ chức tín dụng, phù hợp với hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo tại điều 7, Nghị quyết số 01/2019HĐTPTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi suất cũng như tuân thủ đầy đủ các quy định về hình thức hợp đồng nên có giá trị pháp lý ràng buộc với các bên.

[4]. Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ cam kết theo nghĩa vụ của hợp đồng, giải ngân đầy đủ số tiền vay là 1.300.000.000VND (Bằng chữ: Một tỷ ba trăm triệu đồng) cho bị đơn. Bị đơn đã nhận đủ số tiền vay và sử dụng đúng mục đích. Thời gian đầu bị đơn thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo cam kết. Tổng cộng: Lãi trong hạn:

68.500.000 VND (Bằng chữ: Sáu mươi tám triệu năm trăm ngàn đồng) Đến thời điểm hiện tại; giữa nguyên đơn và bị đơn cũng không có bất kỳ sự thỏa thuận nào khác về nghĩa vụ thanh toán của bị đơn.

Tính đến ngày 01/04/ 2022 là: Vốn: 1.300.000.000 đồng. Lãi trong hạn:

68.000.000 đồng. Lãi qúa hạn: 573.860.959 đồng.Tổng cộng: 1.941.860.959 đồng. (một tỷ, chín trăm bốn mươi mốt triệu, tám trăm sáu mươi nghìn, chín trăm năm mươi chín đồng).

Do vậy, HĐXX đủ cơ sở nhận định: lỗi vi phạm hợp đồng hoàn toàn thuộc về bị đơn, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có cơ sở được chấp nhận. HĐXX có đủ căn cứ để buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn theo cam kết trong hợp đồng tín dụng.

[5]. Nguyên đơn cũng yêu cầu bị đơn phải tiếp tục thanh toán tiền lãi trên số tiền gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất hai bên đã thỏa thuận, ký kết trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án sơ thẩm cho đến khi thanh toán xong. Xét yêu cầu này của nguyên đơn đối với bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật và các điều khoản đã ký kết trong hợp đồng tín dụng nên được chấp nhận.

[6]. Về xử lý tài sản bảo đảm: Nguyên đơn cũng yêu cầu trong trường hợp bị đơn không trả được nợ thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp chi tiết cụ thể ở trên.

Qua xem xét thẩm định tại chỗ ngày 07 và ngày 08/6/2021, Hội đồng xem xét thẩm định tại chỗ xét thấy hiện tại diện tích đất sử dụng thực tế không có tranh chấp với ai và vẫn thuộc quyền sản xuất của bị đơn là ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L.

Trường hợp bị đơn không trả được nợ thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp đã ghi trong hợp đồng thế chấp để thu hồi nợ là phù hợp với quy định của pháp luật về giải quyết tài sản bảo đảm khi tranh chấp hợp đồng tín dụng.

- Về án phí:

[7]. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc bị đơn ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L phải trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á. Số tiền là 8.400.000 đồng.

[8]. Buộc: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1 điều 35; điểm a, khoản 1 điều 39; Điều 144; Điều 147; khoản 2 Điều 184; khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 322; Điều 323; khoản 2, Điều 324; khoản 1. Điều 351; Điều 357; khoản 1, khoản 5, Điều 466 và khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Điều 90, 91, Điều 94, Điều 95, Điều 98 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2018; Điều 1 Thông tư 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam về việc hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á.

Buộc ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á tổng số tiền Tính đến ngày 01/04/ 2022 là: Vốn:1.300.000000 đồng.

Lãi trong hạn: 68.000.000 đồng. Lãi qúa hạn: 573.860.959 đồng. Tổng cộng:1.941.860.959 đồng. (một tỷ, chín trăm bốn mươi mốt triệu, tám trăm sáu mươi nghìn, chín trăm năm mươi chín đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày tuyên án sơ thẩm, ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L còn tiếp tục phải thanh toán tiền lãi trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất đã ký kết trong hợp đồng tín dụng tại thời điểm thanh toán cho đến khi thanh toán xong.

2.Về xử lý tài sản bảo đảm:

Trường hợp ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L không trả được nợ cho Ngân hàng TMCP Đông Á thì yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp là:

-Bất động sản tọa lạc tại Thôn Mỹ Y – Xã Đăk Y– Huyện Mang Y - Tỉnh Gia Lai. Thửa số 00; Tờ bản đồ 00 , diện tích: 16.797m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 179572 do UBND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai cấp ngày 15/05/2006, chủ sở hữu/sử dụng là ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L.

-Bất động sản tọa lạc tại Thôn Mỹ Y – Xã Đăk Y– Huyện Mang Y - Tỉnh Gia Lai. Thửa số 14; Tờ bản đồ 44, diện tích 18.489m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BĐ 491703 do UBND huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai cấp ngày 04/04/2011, chủ sở hữu/sử dụng là ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L.

Ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L có nghĩa vụ bàn giao tài sản thế chấp nêu trên cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á để phát mãi theo quy định của pháp luật.

Trường hợp số tiền sau khi phát mãi tài sản không đủ để trả nợ thì ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L có nghĩa vụ tiếp tục trả nợ số tiền còn thiếu cho đến khi trả xong. Nếu số tiền phát mãi tài sản còn thừa ra sau khi đã trả hết nợ thì ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L được nhận lại.

3. Về án phí:

Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Buộc bị đơn ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L phải trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á. Số tiền là 8.400.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 Bộ luật dân sự.

Buộc ông Phạm Văn B và bà Đặng Thị L phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm là: 70.255.829 đồng. .

Trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là: 30.685.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008610 ngày 01 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai.

4. Thời hạn kháng cáo:

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 01/4/2022), các đương sự có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 09/2022/DS-ST Bản án số 09/2022/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất