Bản án số 06/2025/HC-ST ngày 02/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 06/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 06/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2025/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 06/2025/HC-ST ngày 02/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Bình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Quảng Bình |
Số hiệu: | 06/2025/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 06/2025/HC-ST
Ngày: 02/4/2025
V/v: yêu cầu hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Từ Thị Hải Dương
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Hòe và Bà Hoàng Thị Thoan
- Thư ký phiên tòa: ông Lê Anh Tuấn - Thư ký Toà án nhân dân tỉnh Quảng
Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa:
bà Lê Thị Phương Nhung - Kiểm sát viên.
Ngày 02/4/2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm
công khai vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số: 21/2024/TLST-HC ngày
04/11/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình về yêu cầu “Hủy quyết định
hành hành chính là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 147/2024/QĐXXST-HC ngày 27/8/2024 của Toà án nhân dân tỉnh
Quảng Bình giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: ông Dương Văn D, bà Lê Thị N, địa chỉ: Tổ dân phố A,
phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình do ông
Hoàng Ngọc Đ, Chủ tịch UBND thành phố Đ dâị diện theo pháp luật, vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện: Ông Trần Văn
H, Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ, có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình do ông Hoàng Minh N1, Chủ tịch UBND phường N,
thành phố Đ, có đơn đề nghị xử vắng mặt.
+ Ông Hoàng Văn M, địa chỉ: số B đường T, phường N, thành phố Đ, tỉnh
Quảng Bình, vắng mặt.
+ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ do ông Nguyễn Minh
Đ1 Giám đốc chi nhánh đại diện theo pháp luật, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:

Người khởi kiện ông Dương Văn D, bà Lê Thị N trình bày
:
Ông bà được UBND
thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 25/9/2015 đối với thửa đất
số 7, tờ bản đồ số 58, diện tích 107,0m2 tại phường N, thành phố Đ (Nguồn gốc được
nhận tặng cho từ ông Lê Mậu M1 – bố của ông D. Ông M1 được UBND thành phố Đ
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/9/2006).
Năm 2023, gia đình ông D, bà N làm thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Ngày 03/11/2023, gia đình nhận được Công văn số 899/CNVPĐK
ngày 29/8/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ về việc
trả hồ sơ không đủ điều kiện cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trường
hợp ranh giới không thay đổi). Từ đây gia đình mới phát hiện Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của gia đình được UBND thành phố Đ cấp thuộc thửa đất số
07, tờ bản đồ số 58, diện tích 107,0m
2
cấp sai vị trí so với hiện trạng sử dụng đất,
cụ thể:
Thửa đất số 7, tờ bản đồ số 58, diện tích 107,0m
2
được UBND thành phố
cấp Giấy chứng nhận QSD đất cho ông, bà Dương Văn D - Lê Thị N và thửa đất
số 11, tờ bản đồ số 58, diện tích 101,7m
2
được UBND thành phố cấp Giấy chứng
nhận QSD đất cho hộ ông Hoàng Văn M. Đối chiếu theo bản đồ địa chính và các
tài liệu liên quan thì thửa đất gia đình ông D, bà N đang sử dụng thuộc thửa đất
số 11, tờ bản đồ 58 chứ không phải thửa đất số 7, tờ bản đồ 58 như Giấy chứng
nhận QSD đất đã được UBND thành phố Đ cấp ngày 25/9/2015.
Hiện trạng sử dụng đất: Trên thửa đất số 11, tờ bản đồ 58 (thửa đất đã được
cấp giấy chứng nhận cho ông M) gia đình ông D, bà N đã xây dựng nhà ở từ năm
1991, sử dụng ổn định từ đó đến nay, không tranh chấp. Thửa đất số 07, tờ bản đồ
58 (thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận cho ông D, bà N) gia đình ông M đã
xây dựng nhà ở từ năm 2002, sử dụng ổn định từ đó đến nay không tranh chấp.
Vì vậy chúng tôi đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình huỷ Giấy chứng
nhận QSD đất số phát hành CB 093619, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH04213
ngày 25/9/2015 cấp cho ông, bà Dương Văn D - Lê Thị N để cấp lại đúng vị trí
theo hiện trạng sử dụng đất của gia đình.
- Người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố Đ trình bày (tại Công văn số
2313/UBND-TNMT ngày 03/12/2024): Ngày 10/9/2015, ông, bà Dương Văn D -
Lê Thị N nộp hồ sơ đăng ký biến động và xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa số 07, tờ bản đồ số 58, phường N (đã được UBND thành
phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/9/2006 cho ông Lê Mậu
M1) được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Đ đính chính biến
động mang tên ông, bà Dương Văn D - Lê Thị N ngày 05/12/2006 tại Trung tâm
một cửa liên thông thành phố. Căn cứ hồ sơ do ông D, bà N đã lập và được Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất thành phố kiểm tra, xác nhận ngày 15/9/2015,
ngày 25/9/2015 UBND thành phố đã cấp đổi Giấy chứng quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số phát hành CB 093619, số
vào số cấp GCN CH04213 cho ông, bà Dương Văn D - Lê Thị N đối với thửa đất
nói trên theo quy định. Theo Giấy chứng nhận đã cấp đổi cho ông D, bà N, đất
được cấp Giấy chứng nhận thuộc thửa số 07, tờ bản đồ địa chính số 58, phường

N, đúng với hồ sơ đăng ký biến động ông D, bà N. Trình tự, thủ tục cấp đổi Giấy
chứng nhận được thực theo đúng quy định tại Điều 76 Nghị định số 43/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai.
Mặt khác, số hiệu thửa đất được cấp Giấy chứng nhận đúng với thửa đất đã
được UBND thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 26/9/2006
mang tên ông Lê Mậu M1 và đúng với Hợp đồng cho tặng quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất giữa ông M1 với ông D, bà N được Phòng C tỉnh Quảng
Bình chứng nhận ngày 23/11/2006, số 76, quyển số 02 TP/CC-SCC/HĐGD. Ủy
ban nhân dân thành phố Đ đề nghị Toà án nhân dân tỉnh giải quyết theo đúng quy
định.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân phường N
trình bày (tại Công văn số 23/UBND ngày 03/01/2025):
+ Đối với thửa đất của ông Hoàng Văn M: Theo bản đồ đo đạc năm 1996
thửa đất ông Hoàng Văn M được đo đạc thành thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58,
diện tích 120,7 m
2
, vị trí tiếp giáp như sau: Phía Bắc giáp thửa đất số 7 (tên chủ
sử dụng đất theo sổ mục kê đất đai năm 1996 là ông Lê Mậu M1), phía Nam giáp
thửa đất số 12 (tên chủ sử dụng đất theo sổ mục kê đất đai năm 1996 là Dương
Văn D). Sổ mục kê đất đai năm 1996 thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58 thì chủ sử
dụng đất là ông Hoàng M.
Theo biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất năm 1996 thì thửa đất
của ông Hoàng Văn M phía Bắc giáp đất ông H1, phía Nam giáp đất ông M1.
Theo bản đồ địa chính phường N được Sở T công nhận năm 2021 được đo
đạc thành thửa đất số 56, tờ bản đồ số 43 diện tích là 115,7 m
2
chủ sử dụng đất là
ông Hoàng Văn M.
Thửa đất ông M đang sử dụng có vị trí như sau: Phía Bắc giáp đất ông H1;
phía Nam giáp đất ông D; phía Đông giáp đường Phạm Văn Đ2; phía Tây giáp
đường T. Vị trí thửa đất này trùng với thửa đất số 7, tờ bản đồ số 58, phường N
(nay thuộc thửa đất số 56, tờ bản đồ số 43).
+ Đối với thửa đất của ông Dương Văn D: Đất ông Dương Văn D nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Lê Mậu M1, theo bản đồ đo đạc năm
1996 thửa đất ông Dương Văn D đo đạc thành thửa đất số 7, tờ bản đồ số 58, diện
tích 115,8 m
2
, vị trí tiếp giáp theo bản đồ đo đạc năm 1996 như sau: Phía Bắc giáp
thửa đất số 54 (tên chủ sử dụng đất theo sổ mục kê đất đai năm 1996 là ông
Nguyễn Quốc H1), phía Nam giáp thửa đất số 11 (tên chủ sử dụng đất theo sổ
mục kê đất đai năm 1996 là ông Hoàng M), Sổ mục kê đất đai năm 1996 thửa đất
số 7, tờ bản đồ số 58 thì chủ sử dụng đất là ông Lê Mậu M1.
Theo biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất năm 1996 thì thửa đất
của ông Lê Mậu M1 (ông Dương Văn D nhận chuyển nhượng) phía Bắc giáp đất
ông M, phía Nam giáp đất ông D.
Theo bản địa chính phường N được Sở T công nhận năm 2021 được đo đạc
thành thửa đất số 57, tờ bản đồ số 43 diện tích là 113,3 m
2
chủ sử dụng đất là ông
Dương Văn D.
Thực tế sử dụng thửa đất của ông Dương Văn D: Phía Nam giáp thửa đất
số 12, tờ bản đồ số 58 (nay là thửa 58, tờ bản đồ số 44) của ông D, phía Đông giáp

đường Phạm Văn Đ2, phía Tây giáp đường T. Vị trí thửa đất này trùng với thửa
đất số 11, tờ bản đồ số 58, phường N (nay thuộc thửa đất số 57, tờ bản đồ số 43).
Qua xem xét thì thực tế sử dụng của các hộ có sai khác so với giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất nhưng đúng với biên bản xác định ranh giới, mốc giới
thửa đất năm 1996 của ông Dương Văn D và ông Hoàng Văn M.
Quá trình giải quyết vụ án ông Hoàng Văn M, Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thành phố Đ không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của người khởi
kiện
Tại phiên toà sơ thẩm: Người khởi kiện đề nghị Tòa án xem xét chấp nhận
yêu cầu khởi kiện. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện đề
nghị Tòa án xem xét giải quyết theo đúng quy định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình trình bày quan điểm:
+ Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định.
+ Về nội dung: Đề nghị Tòa án xử chấp nhận đơn khởi kiện của người khởi
kiện, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông D, bà N và buộc UBND
thành phố Đ cấp lại giấy chứng nhận cho ông D, bà N đúng số hiệu thửa đất và
đúng hiện trạng sử dụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án
đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thời hiệu khởi kiện:
Năm 2006, ông Lê Mậu M1 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
tại thửa đất số số 07, tờ bản đồ số 58 phường N, thành phố Đ, diện tích 107,0m
2
.
Ngày 23/11/2006, ông Lê Mậu M1 chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
Dương Văn D, bà Lê Thị N. Ngày 25/6/2015, ông D, bà N được Ủy ban nhân dân
thành phố Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 093619 tại thửa đất
số số 07, tờ bản đồ số 58 phường N, thành phố Đ, diện tích 107,0 m
2
. Năm 2023,
khi làm thủ tục cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CB 093619 thì
ông D, bà N mới phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng nói trên bị cấp sai vị
trí so với hiện trạng sử dụng đất theo Công văn số 899/CNVPĐK ngày 29/8/2023
của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ.
Tại điểm a Khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính quy định thời hiệu
khởi kiện như sau: “01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành
chính, hành vi hành chính, ...”.
Theo trình bày của người khởi kiện thì ngày 03/11/2023, người khởi kiện
mới nhận được Công văn số 899/CNVPĐK ngày 29/8/2023 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Đ. Ngày 29/10/2024, Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Bình nhận được đơn khởi kiện của người khởi kiện. Do đó thời hiệu khởi
kiện vụ án vẫn còn.

[1.2]. Về thẩm quyền thụ lý vụ án: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do
Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp cho ông Dương Văn D, bà Lê Thị N là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Bình theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 3, khoản 4 Điều
32 Luật Tố tụng hành chính
[2] Về nội dung:
Theo trình bày của Ủy ban nhân dân phường N thì thực tế thửa đất ông M
đang sử dụng có vị trí trùng với thửa đất số 7, tờ bản đồ số 58, phường N (nay
thuộc thửa đất số 56, tờ bản đồ số 43), còn thửa đất của ông Dương Văn D đang
sử dụng trùng với thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58, phường N (nay thuộc thửa đất
số 57, tờ bản đồ số 43). Ủy ban nhân dân phường N cũng thừa nhận: “Qua xem
xét thì thực tế sử dụng của các hộ có sai khác so với giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng đúng với biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất năm 1996
của ông Dương Văn D và ông Hoàng Văn M.”
Ngoài ra, tại Công văn số 899/CNVPĐK ngày 29/8/2023 về việc trả hồ sơ
không đủ điều kiện cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trường hợp ranh
giới thửa đất không thay đổi) của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố
Đ có nội dung: qua kiểm tra, rà soát lại hồ sơ, tài liệu liên quan, bản đồ địa chính,
hồ sơ địa chính qua các thời kỳ và đối chiếu hiện trạng sử dụng đất, Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đ nhận thấy thửa đất số 07, tờ bản đồ số 58
của ông Dương Văn D - bà Lê Thị N cấp sai vị trí so với hiện trạng sử dụng đất
của ông D, bà N.
Tại đơn xin giao quyền sử dụng đất của ông Hoàng M ngày 09/3/1993 về
vị trí ông xin cấp đất: Phía Đông giáp ao rau muống, phía Nam giáp nhà anh M1,
Tây giáp đường vào HTX nam L và B giáp nhà anh H1. Tuy nhiên, tại quyết định
số 1094/QĐ-UB ngày 19/9/2002 Quyết định của UBND thị xã Đ lại cấp cho ông
M thửa đất phía bắc giáp thửa 07 (thửa đất cấp cho ông M1), phía nam giáp thửa
số 12…. Như vậy ngay từ Quyết định giao đất của UBND thị xã Đ (cơ sở cho việc
cấp giấy chứng nhận cho ông M) đã không đúng vị trí ông M xin cấp cũng như
không đúng với vị trí sử dụng đất của ông M1 (sau này chuyển cho ông D, bà N)
và vị trí sử dụng đất của ông M.
Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 7, tờ bản đồ số 58 phường N, thành phố Đ
và thửa đất số 11, tờ bản đồ số 58 phường N, thành phố Đ là không đúng thực tế,
không đúng đối tượng sử dụng đất, sai vị trí nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn để huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 7, tờ
bản đồ số 58 phường N, thành phố Đ để cấp lại cho đúng vị trí thực tế, đúng với
vị trí trên bản đồ. Theo đó thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông M cũng
không đúng số thửa ghi trên giấy chứng nhận nên ông M cần liên hệ đến cơ quan
nhà nước có thẩm quyền để cấp đổi lại giấy chứng nhận theo quy định.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên người khởi kiện
không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Người bị kiện Ủy ban nhân dân thành
phố Đ phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo luật định.
[4] Quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 3, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2
Điều 116, điểm b khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính;
Điều 106 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Dương Văn D, bà Lê Thị N: Huỷ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành CB 093619, số vào sổ cấp Giấy
chứng nhận CH 04213, thửa đất số 07, tờ bản đồ số 58 phường N, thành phố Đ,
tỉnh Quảng Bình do UBND thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cấp ngày 25/6/2015
mang tên ông Dương Văn D, bà Lê Thị N. Buộc UBND thành phố Đ, tỉnh Quảng
Bình cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D, bà N theo đúng hiện
trạng, phù hợp với số hiệu thửa đất ghi trên bản đồ địa chính.
2. Về án phí: Ủy ban nhân dân thành phố Đ phải chịu 300.000 đồng án phí
hành chính sơ thẩm.
3. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có mặt tại
phiên tòa có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa cấp cao tại Đà Nẵng xét xử
phúc thẩm. Những người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Các đương sự;
- Lưu: Toà HC; Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Từ Thị Hải Dương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm