Bản án số 233/2025/HC-PT ngày 26/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 233/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 233/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 233/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 233/2025/HC-PT ngày 26/04/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 233/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B. Giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 11/9/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 233/2025/HC-PT
Ngày: 26/4/2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính về
quản lý đất đai trong trường hợp thu hồi,
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có
:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Trần Đức Kiên
Các thẩm phán: ông Nguyễn Cường
ông Võ Ngọc Thông
- Thư ký phiên tòa: ông Trương Quốc Lập, Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: ông Phạm Tấn Ánh, Kiểm sát viên
Ngày 26 tháng 4 năm 2025, tại Trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở
phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 48/2025/TLPT-HC
ngày 13 tháng 01 năm 2025 về “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai
trong trường hợp thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 11 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1034/2025/QĐ-PT ngày 08
tháng 4 năm 2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện:
1. Ông Lê Sỹ C; sinh năm 1973.
2. Bà Lê Thị B; sinh năm 1975.
Cùng địa chỉ: tổ A B, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa;
Người đại diện theo ủy quyền: bà Phạm Bảo T; sinh năm: 1986; địa chỉ: B N,
Phường D, thành phố T, tỉnh Phú Yên; có mặt.
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
2
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Sỹ K - Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố N.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh Hoà.
Người đại diện theo ủy quyền của những người bị kiện: ông Lưu Thành N; chức
vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N (theo văn bản uỷ quyền số:
6418/UBND-TNMT ngày 09 tháng 8 năm 2023); vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
1. Bà Trương Thị Yến T1 - Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường thành
phố N; vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Duy T2 - Phó Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố
N; vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt.
3. Ông Nguyễn Khánh H - Nhân viên Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố N;
vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
Đại diện theo pháp luật: bà Nguyễn Thị H1 - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường
V.
Đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Văn L - Cán bộ Địa chính – Xây dựng Ủy
ban nhân dân phường V, thành phố N (theo văn bản uỷ quyền số 1034 ngày
12/6/2024); vắng mặt.
2. Công ty Cổ phần V1; địa chỉ: tổ A B, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh
Hòa;
Đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Thế V; Chức vụ: Tổng Giám đốc;
Đại diện theo ủy quyền: ông Trần Văn Đ; Chức vụ: Giám đốc Ban Phát triển Dự
án Công ty Cổ phần V1; địa chỉ: phòng B Tòa O, Mường Thanh Viễn T3, số C đường
P, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa (theo văn bản uỷ quyền ngày 26/01/2024);
vắng mặt.
3. Bà Nguyễn Thị B1; sinh năm: 1941; địa chỉ: E L, phường C, thành phố C, tỉnh
Khánh Hòa; vắng mặt.
4. Bà Nguyễn Thị Kiều O; sinh năm: 1987; địa chỉ: thôn P, xã P, thành phố N,
tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.
* Người kháng cáo: người khởi kiện ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai, biên bản đối thoại và tại
phiên tòa, người khởi kiện ông Lê Sỹ C, bà Lê Thị B – đại diện theo uỷ quyền bà Phạm
Bảo T trình bày:
3
Ngày 19/12/2022, ông Lê Sỹ B2 được thông báo Quyết định thu hồi đất số
3897/QĐ-UBND và Quyết định số 3907/QĐ-UBND đều ghi ngày 14/9/2022 của
UBND thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
Về nguồn gốc của thửa đất số 130 (tách từ thửa 46 tờ 1), tờ bản đồ địa chính số
2 có tổng diện tích 400m² có mục đích sử dụng đất ở đô thị là của ông Lê Sỹ C và em
gái ông là bà Lê Thị B mua lại của vợ chồng ông Hoàng Nam H2 và bà Nguyễn Thị
Thu T4. Vào năm 2005, gia đình ông có đăng ký tạm trú trên khu đất này tổng cộng
09 nhân khẩu và ở trong 02 căn nhà cấp 4 trên lô đất này và 02 căn nhà này là chỗ ở
duy nhất của gia đình ông; để có chỗ ở và thuận lợi cho công việc, gia đình ông đăng
ký điện, nước và nhập hộ khẩu có xác nhận của Ủy ban nhân dân phường V (đơn xin
xác nhận có nhà ở năm 2012). Trong đó, căn nhà do ông Lê Sỹ C có diện tích 46m² và
01 căn nhà của bà Lê Thị B là chủ sở hữu có diện tích hơn 15m². Năm 2017, một trận
bão lớn (bão Con Voi) càn quét tại thành phố N đã làm cho căn nhà của bà Lê Thị B
bay mái nên không ở được, sau đó bà B có xin phép sửa chữa lại để ở nhưng chính
quyền địa phương lấy lý do là khu quy hoạch dự án không cho phép sửa chữa xây
dựng (hiện nay 01 phần căn nhà cấp 4 của bà B bị bão càn quét năm 2017 vẫn còn
nguyên hiện trạng), sau đó một số thành viên trong gia đình của ông phải đi thuê ở
nhiều nơi chờ dự án đền bù chứ không phải tự ý bỏ đi nơi khác sinh sống.
Năm 2021, ông B biết có dự án C sẽ xây dựng trên phần đất của gia đình ông và
những hộ dân xung quanh tại Tổ A, B, phường V, thành phố N. Gia đình ông B nhận
Quyết định số 3912/QĐUBND ngày 14/12/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố N
về việc bồi thường, hỗ trợ khi bị thu hồi toàn bộ diện tích 379m² nhà đất và cây trồng
trên đất tổng số tiền 476.166.025 đồng. Trong khi đó, theo Quyết định số 3907/QĐ-
UBND ngày 14/12/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố N gia đình ông B nhận được
01 lô tái định cư (lô số 43, ô số 9B) tại Khu tái định cư Đ, xã V, thành phố N, tỉnh
Khánh Hòa có diện tích 82,75m² nhưng gia đình ông phải đóng số tiền 754.059.375
đồng.
Ủy ban nhân dân thành phố N ra Quyết định số 3912 ngày 14/12/2022 về việc
thu hồi toàn bộ diện tích 379m² của gia đình tôi và bồi thường tổng số tiền 476.166.025
đồng để giao cho Công ty cổ phần V1 làm dự án C & Spa với mục đích kinh doanh
resort không phải Ủy ban nhân dân thành phố N thu hồi đất của gia đình tôi vì mục
đích quốc phòng, an ninh (theo Điều 61 Luật Đất đai 2013) hoặc thu hồi đất để phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia công cộng (theo Điều 62 Luật Đất đai 2013).
Theo gia đình ông C được biết hiện nay mỗi mét vuông đất tại khu vực B, phường V
là 15.000.000 đồng/m² nhưng nhà nước thu hồi 379 m² đất của ông C hiện nay chỉ bồi
thường 196.020.000 đồng/379m². Ban bồi thường và hỗ trợ tái định cư thành phố N
chi trả tiền bồi thường khi bị thu hồi đất của gia đình ông không phù hợp với giá thị
trường. Hơn nữa, căn cứ theo Điều 73 Luật Đất đai 2013 và Điều 16 Nghị định
43/2014/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 01/2017/NĐ-CP và Nghị
định 148/2020/NĐ-CP) thì trường hợp này, Công ty cổ phần V1 (chủ đầu tư dự án C
& S) phải thương lượng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất với hộ ông và bà B. Nếu hai bên đạt được thỏa thuận thì Nhà nước mới ra quyết
định thu hồi đất.
4
Tuy nhiên, từ khi được phê duyệt dự án đến nay, Công ty cổ phần V1 chưa bao
giờ mời ông C, bà B làm việc để thỏa thuận về việc nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất mà Ủy ban nhân dân thành phố N đã chủ động ban
hành quyết định thu hồi đất và quyết định chi trả tiền bồi thường cho ông C, bà B.
Thậm chí đến ngày 14/4/2023, Ủy ban nhân dân thành phố N tiếp tục ban hành Quyết
định số 1972/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất của hộ ông C và bà B. Hơn
nữa, diện tích đất của hộ ông C và bà B khi nhận chuyển nhượng là 400m² xây dựng
hàng rào ranh giới ổn định, không tranh chấp, khiếu nại với các hộ xung quanh nhưng
nay Ủy ban nhân dân thành phố N đo đạc kiểm đếm thu hồi đền bù chỉ 379m² là không
khách quan, minh bạch, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của hộ ông C và bà B.
Việc Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định
chi trả tiền bồi thường và Quyết định cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông C và bà B
là trái quy định pháp luật và Công ty cổ phần V2 ban hành chính sách hỗ trợ mà không
thực hiện đúng hình thức thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán
tài sản gắn liền với đất theo quy định pháp luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền
và lợi ích hợp pháp của hộ ông C và bà B.
Ngày 27/12/2022, ông C có nộp đơn khiếu nại Quyết định số 3912 đến Ủy ban
nhân dân thành phố N. Ngày 17/2/2023, Thanh tra thành phố N mời làm việc xác minh
nội dung khiếu nại. Nhưng từ đó đến nay Ủy ban nhân dân thành phố N không giải
quyết khiếu nại. Do đó, ông Lê Sỹ C, bà Lê Thị B khởi kiện yêu cầu Tòa án:
- Hủy các Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của Ủy ban nhân
dân thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C &
S, phường V, thành phố N; Quyết định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của Ủy
ban nhân dân thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực
hiện dự án C & S, phường V, thành phố N; Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày
14/4/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất;
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố N thực hiện thủ tục thu hồi đất và đền bù theo
đúng quy định của pháp luật và đền bù toàn bộ diện tích đất bị thu hồi theo giá thị
trường tương ứng 15.000.000đ/m
2
;
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố N bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất
theo giá của nhà nước không thông qua đấu giá; Hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển
chỗ ở (tiền thuê nhà ở) đối với bà Lê Thị B.
* Tại Văn bản số 6419/UBND-TNMT ngày 09/8/2023, số 9289/UBND-TNMT
ngày 07/11/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố N trình bày:
Yêu cầu của người khởi kiện: Hủy Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày
14/12/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê
Sỹ C để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N; Hủy Quyết định số 3912QĐ-
UBND ngày 14/12/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ
đối với hộ ông Lê Sỹ C; Hủy Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 14/4/2023 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất; Buộc Ủy ban nhân
dân thành phố N, tỉnh Khánh Hòa thực hiện thu hồi đất và đền bù theo quy định pháp
luật; Ủy ban nhân dân thành phố N có ý kiến như sau:
5
1. Về việc yêu cầu hủy Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của
UBND thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C
& S, phường V, thành phố N: Dự án Champarama Resort & Spa đã được UBND tỉnh
K cấp Giấy chứng nhận đầu tư số 37121000389 ngày 16/4/2013 chứng nhận Công ty
Cổ phần D thực hiện dự án đầu tư C3 tại khu đất liền ven biển B, phường V, thành
phố N với diện tích khoảng 46ha; Mục tiêu: đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng cao cấp
(đạt tiêu chuẩn 5 sao) với vốn đầu tư khoảng 1.200 tỷ đồng; nguồn vốn: 100% vốn
trong nước, từ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp và vốn huy động khác; thời hạn hoạt
động: 50 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Theo quy định của Luật
đất đai 2003, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và hướng dẫn của Bộ T6
tại khoản 2 Mục X Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 quy định về
việc thu hồi đất để thực hiện các dự án khu dân cư, trung tâm thương mại, khách sạn
cao cấp quy định tại khoản 2 Điều 34 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, cụ thể: “Các dự
án phát triển kinh tế trong khu đô thị hiện có gồm dự án xây dựng nhà ở để bán hoặc
cho thuê theo quy định của pháp luật về nhà ở và pháp luật về kinh doanh bất động
sản, dự án xây dựng nhà ở xã hội, dự án xây dựng nhà ở phục vụ tái định cư, dự án
xây dựng nhà ở công vụ, dự án xây dựng trung tâm thương mại, trung tâm H3; dự án
xây dựng khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn từ hạng 3 sao trở lên. Như vậy, dự án C &
S thuộc nhóm đối tượng Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Luật Đất đai năm 2003
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 99 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ về xử lý các trường hợp đang thực hiện thủ tục thu hồi đất trước ngày
01 tháng 7 năm 2014, cụ thể:
“1. Trường hợp đã có văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giới thiệu địa điểm
hoặc thông báo thu hồi đất gửi đến từng người có đất thu hồi hoặc văn bản cho phép
chủ đầu tư thỏa thuận với người sử dụng đất thuộc phạm vi dự án từ trước ngày 01
tháng 7 năm 2014 nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì xử lý như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép tiếp tục thực hiện dự án và áp dụng hình
thức thu hồi đất hoặc chủ đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận
góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai, nếu phù hợp với kế
hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê
duyệt;”.
Dự án C & Spa được UBND tỉnh K cấp chủ trương đầu tư trước khi Luật Đất đai
năm 2013 có hiệu lực. Thực hiện Luật Đất đai năm 2013 và Điều 99 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về xử lý các trường hợp
đang thực hiện thủ tục thu hồi đất trước ngày 01/7/2014, UBND tỉnh K đã thống nhất
cho phép tiếp tục thực hiện dự án và áp dụng hình thức thu hồi đất để thực hiện dự án,
trình Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa thông qua tại Nghị quyết số 13/NQ-HĐND
ngày 10/12/2014. Sau khi Hội đồng nhân dân tỉnh K thông qua Nghị quyết, UBND
thành phố N đã cập nhật phần diện tích thu hồi vào Kế hoạch sử dụng đất từ năm 2015
cho đến nay của thành phố N. Ngày 06/01/2016, Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy
chứng nhận đầu tư số 5488314111 cho Công ty Cổ phần K1 để thực hiện dự án C &
Spa. Ngày 24/02/2016, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 465/QĐ-UBND về việc
6
phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 Khu nghỉ dưỡng C, phường V, thành
phố N.
Ngày 27/10/2016, UBND thành phố N đã ban hành Thông báo số 826/TB-
UBND về việc thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N. Theo
quy định tại khoản 60 Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của
Chính phủ về bổ sung khoản 3, 4 vào Điều 99 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ, cụ thể:
“Đối với dự án đầu tư thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của
Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành nhưng không thuộc trường
hợp Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai năm 2013 mà đã lựa chọn
chủ đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, phù
hợp với kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
tổng hợp vào danh mục dự án cần thu hồi đất để trình Hội đồng nhân dân thông qua
trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thu hồi đất. Trình tự, thủ tục
thu hồi đất đối với trường hợp quy định tại khoản này thực hiện theo quy định tại Điều
69 của Luật đất đai.” (Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 quy định về trình tự, thủ tục thu
hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia
công cộng).
Ngày 28/12/2018, T7 có Văn bản số 329/CQHĐĐPGĐ gửi Sở T8 hướng dẫn
chuyên môn về việc thu hồi đất thực hiện dự án. Ngày 25/01/2019, Sở T8 có Văn bản
số 449/STNMTCCQLĐĐ báo cáo giải trình và làm rõ nội dung dự án C & Spa có
được tiếp tục thực hiện theo hình thức Nhà nước thu hồi đất đối với Khu B. Sở T8 kiến
nghị UBND tỉnh chỉ đạo UBND thành phố N, các đơn vị liên quan tiếp tục triển khai
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với phần diện tích còn lại của dự án là
phù hợp quy định. Theo đó, UBND tỉnh K có Văn bản số 1695/UBND-XDNĐ ngày
22/2/2019 và Văn bản số 1064/UBND-XDNĐ ngày 30/01/2019 đồng ý với nội dung
đề nghị của Sở T8; yêu cầu UBND thành phố N, chủ đầu tư tiếp tục thực hiện công
tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với phần diện tích còn lại của dự án C & Spa.
Như vậy, căn cứ các quy định nêu trên, UBND thành phố N ban hành Thông báo số
826/TB-UBND ngày 27/10/2016 về việc thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường
V, thành phố N là đúng theo quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện dự án,
hộ ông Lê Sỹ C đang sử dụng thửa đất số 130 tờ bản đồ số 02 thuộc Mảnh trích đo địa
chính số 88 – 2018 do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày 01/8/2018 và được Sở T8 xác
nhận 21/9/2018, trên cơ sở bản đồ cắm mốc ranh giới số 175 – 2016 được Sở T8 xác
nhận ngày 13/10/2016 có diện tích tương ứng 379,0m² do ông Lê Sỹ C kê khai đã
được UBND phường V xác nhận tại Giấy xác nhận số 1471/XN-UBND ngày
14/9/2022 nằm trong phạm vi thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành
phố N. Trước khi ban hành các Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt phương
án bồi thường hỗ trợ tái định cư, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng đã tiến hành việc khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, xây dựng phương á bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư, tổ chức niêm yết công khai, lấy ý kiến theo đúng trình tự quy định
pháp luật. Như vậy, việc UBND thành phố N ban hành Quyết định số 3897/QĐUBND
ngày 14/12/2022 về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C đang sử dụng để thực hiện
dự án C & S, phường V, thành phố N là đúng theo trình tự, thẩm quyền. Do đó, ông
7
Lê Sỹ C yêu cầu hủy Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND
thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C đang sử dụng để thực hiện dự
án C & S, phường V, thành phố N là không có cơ sở.
2. Về việc yêu cầu hủy Quyết định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của
UBND thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ C khi Nhà nước
thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N: Theo Giấy xác nhận số
1471/XN-UBND ngày 14/9/2022 của UBND phường V:
“Thửa đất số 130 (tách từ thửa 46 tờ 1) tờ bản đồ số 02 thuộc Mảnh trích đo địa
chính số 88 – 2018 do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày 01/8/2018 và được Sở T8 xác
nhận 21/9/2018, trên cơ sở bản đồ cắm mốc ranh giới số 175 – 2016 được Sở T8 xác
nhận ngày 13/10/2016 có diện tích 379,0m².
- Nguồn gốc: Theo Hồ sơ sổ dã ngoại năm 1996: Thuộc diện tích do UBND
phường V kê khai (thửa số 23; tờ bản đồ số 4F; diện tích: 3.404m²);
- Theo Phiếu ý kiến khu dân cư: Năm 1990, ông Hoàng Nam H2 và bà Nguyễn
Thị Thu T4 khai hoang diện tích khoảng 600m². Năm 1996, đoàn đo đạc đến vị trí đất
trên nhưng không ai kê khai đo đạc nên đoàn công tác đo đạc thửa đất tại vị trí này và
tiến hành xác lập loại đất là: Đất bằng chưa sử dụng và do UBND phường V kê khai
quản lý (thửa số 23, tờ số 4F; diện tích 3.404m²). Ngày 10/4/2001, bà Nguyễn Thị Thu
T4 có đơn xin xác nhận có đất và nhà tại B, nguồn gốc đất là gia đình khai hoang năm
1990 với diện tích 600m² và 200m² do mẹ là bà Nguyễn Thị C1 cho và đã được UBND
phường V xác nhận ngày 12/4/2001. Năm 2001, bà Nguyễn Thị Thu T4 có kê khai hồ
sơ kỹ thuật đền bù giải tỏa dự án Khu nghỉ mát cao cấp Rusalka thửa đất 110 với diện
tích 747.0m². Năm 2005, ông Hoàng Nam H2 và bà Nguyễn Thị Thu T4 trích một
phần chuyển nhượng cho ông L1 Sỹ Chung có chiều dài là 40m và chiều rộng là 10,2m
(khoảng diện tích 408m²). Theo Giấy tờ hộ dân cung cấp: Ngày 16/04/2001, ông
Hoàng Nam H2 và bà Nguyễn Thị Thu T4 chuyển nhượng cho ông Lê Sỹ C có chiều
dài là 40m và chiều rộng là 10,2m (khoảng diện tích 408m²) (bằng giấy viết tay không
có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền). Giấy tờ hộ dân cung cấp nêu trên không hợp
lệ về thời gian chuyển nhượng tháng 4/2001, dự án Khu N phường V, thành phố N
triển khai thực hiện không có hồ sơ tên Lê Sỹ C kê khai mà do bà Nguyễn Thị Thu T4
kê khai tại vị trí thửa đất. Diện tích thực tế đang sử dụng của ông Lê Sỹ C là 379,0m²
chênh lệch giảm 29,0m² so với giấy chuyển nhượng là do mua bán áng chừng. Toàn
bộ khuôn viên ranh giới thửa đất đã được xác định, không có tranh chấp với những
người sử dụng đất liền kề. Ông Lê Sỹ C tiếp tục sử dụng đất từ đó cho đến nay ổn
định, không lấn, chiếm và không có tranh chấp.
- Hộ gia đình không trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên thửa đất bị giải tỏa.
- Hộ gia đình ăn ở, sinh hoạt tại vị trí thửa đất bị giải tỏa.
- Thời điểm sử dụng đất: tiếp tục sử dụng từ ngày 16/04/2001 cho đến nay.
- Thời điểm xây dựng công trình và vật kiến trúc khác trên đất: năm 2000 do ông
Hoàng Nam H2 xây dựng. Đến năm 2005, ông Lê Sỹ C sữa chữa lại như hiện nay
không có giấy phép xây dựng.
8
- Thời điểm chuyển đến cư trú: năm 2005 có đăng ký tạm trú đến năm 2012 mới
đăng ký thường trú.
- Số nhân khẩu đang cư trú tại vị trí giải tỏa: 04 khẩu.
- Loại đất: Đất trồng cây lâu năm (không phải đất công, đất công ích do UBND
phường quản lý).
- Tổng diện tích đất: 379,0m².”.
Theo nội dung xác minh của UBND phường V, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư đã họp xét thông qua Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của hộ
ông Lê Sỹ C vào ngày 30/9/2022 và được niêm yết Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư tại Thông báo số 267/TB-HĐBT ngày 07/10/2022. Theo đó, Ủy ban nhân dân
thành phố N phê duyệt phương án bồi thường, hổ trợ và tái định cư như sau:
+ Về đất:
Trường hợp hộ ông Lê Sỹ C sử dụng đất trước ngày 01/07/2004, loại đất: Đất
trồng cây lâu năm, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định, không trực
tiếp sản xuất nông nghiệp trên thửa đất này, không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định.
Do vậy không được bồi thường về đất theo khoản 4 Điều 82 Luật Đất đai năm 2013.
Căn cứ điểm a khoản 8 Điều 22 Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021
của UBND tỉnh K ban hành quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa được sửa đổi, bổ
sung tại khoản 4 Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của
UBND tỉnh K sửa đổi bổ sung một số điều tại quy định chi tiết một số nội dung về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa ban
hành kèm theo Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K.
Căn cứ Quyết định số 2062/QĐ-UBND ngày 27/07/2022 của UBND tỉnh K về việc
phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường, tính tiền sử dụng đất tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất thực hiện dự án C, phường V, thành phố N.
Trường hợp hộ ông Lê Sỹ C bị thu hồi toàn bộ diện tích thửa đất 379,0m², thuộc
vị trí 4, do đó việc UBND thành phố hỗ trợ về đất: hỗ trợ về đất ở được xác định theo
phần diện tích xây dựng công trình nhà ở với diện tích 46,0m², loại đất: đất ở đô thị:
1.260.000 đồng/m² x 90% x 46,0m²= 52.164.000 đồng và hỗ trợ về đất trồng cây lâu
năm: 333,0m² loại đất trồng cây lâu năm: 480.000 đồng/m²x 90% x 333,0m²=
143.856.000 đồng là phù hợp theo quy định.
+ Về tài sản gắn liền trên đất:
Công trình vật kiến trúc xây dựng không có giấy phép xây dựng. Do vậy, không
được bồi thường theo khoản 2 Điều 92 Luật Đất đai năm 2013, chỉ được hỗ trợ theo
điểm 7 khoản 4 Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của UBND
tỉnh K. Về cây trồng: Căn cứ theo Quyết định số 2179/QĐ-UBND ngày 05/8/2022 và
Quyết định 2985/QĐ-UBND ngày 02/11/2022 của UBND tỉnh K của UBND tỉnh K,
UBND thành phố N đã phê duyệt bồi thường cây trồng theo quy định.
+ Về chính sách hỗ trợ:
9
Căn cứ Điều 83 Luật Đất đai 2013, Điều 19, Điều 20 Nghị định số 47/2014/NĐ-
CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất thì hộ ông Lê Sỹ C không trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên thửa
đất này, không đủ điều kiện bồi thường về đất nên không đủ điều kiện hỗ trợ thửa đất
này.
+ Về chính sách tái định cư:
Nhà nước thu hồi đất thì trường hợp hộ ông Lê Sỹ C bị thu hồi toàn bộ diện tích
đất, được hỗ trợ về đất, ăn ở, sinh hoạt tại vị trí giải tỏa trước ngày 01/7/2014 và không
còn nhà ở đất ở nào trên địa bàn thành phố N.
Căn cứ khoản 5 Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của
UBND tỉnh K sửa đổi, bổ sung một số điều tại quy định chi tiết một số nội dung về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa
ban hành kèm theo Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND
tỉnh K thì trường hợp của hộ ông Lê Sỹ C đủ điều kiện để bố trí tái định cư theo quy
định khi nhà nước thu hồi đất. UBND thành phố N đã ban hành Quyết định số
3907/QĐ-UBND ngày 14/12/202 về việc giao đất cho hộ ông Lê Sỹ C để xây dựng
nhà ở gia đình do bị giải tỏa để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N. Cụ
thể được bố trí tái định cư tại Lô S Ô số I, diện tích 82,75m², tiếp giáp đường rộng
13,0m, Khu tái định cư Đ, xã V, thành phố N.
Từ những nội dung nêu trên, Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của hộ
ông Lê Sỹ C đã được xét duyệt là có căn cứ pháp luật. Như vậy, ông Lê Sỹ C yêu cầu
hủy Quyết định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành phố N về việc
bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ C khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự
án C & S, phường V, thành phố N là không có cơ sở.
3. Về việc yêu cầu hủy Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 14/04/2023 của
Chủ tịch UBND thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C
(thửa đất số 130, tờ bản đồ số 02) tại Tổ A B, Đường Đ, phường V, thành phố N:
Thực hiện theo Quyết định thu hồi đất số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022;
Quyết định bồi thường số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành phố
N, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố đã phối hợp với UBND phường V mời ông
Lê Sỹ C chi trả tiền bồi thường hỗ trợ và bàn giao mặt bằng vào ngày 23/12/2022 và
ngày 16/01/2023. Tuy nhiên, hộ gia đình không tham dự nhận tiền bồi thường (Giấy
mời nhận tiền và Quyết định thu hồi đất, Quyết định bồi thường đã được tống đạt cho
hộ dân theo quy định). Thực hiện theo Quyết định số 3907/QĐ-UBND ngày
14/12/2022 giao đất tái định cư của UBND thành phố N, Phòng T đã phối hợp với
Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố, UBND xã V mời hộ dân bàn giao đất tái định
cư ngoài thực địa vào ngày 23/12/2022 (Giấy mời đã gửi cho hộ dân hộ dân theo quy
định). Tuy nhiên, hộ ông Lê Sỹ C không tham dự. Tiếp đó ngày 11/01/2023, UBND
phường V đã phối hợp các Mặt trận Đoàn thể phường, Trung Tâm Phát triển quỹ đất
thành phố, đại diện tổ dân phố, đại diện hộ dân, đại diện Công ty Cổ phần V1 tiến hành
mời hộ ông Lê Sỹ C đến để vận động nhận tiền và bàn giao mặt bằng. Tại buổi vận
động, đại diện UBND phường cùng các đơn vị liên quan đã giải thích, phổ biến các
chính sách của Nhà nước liên quan đến công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư,
10
đồng thời vận động hộ ông Lê Sỹ C nhận tiền và sớm bàn giao mặt bằng cho dự án.
Theo đó ông Nguyễn Chí C2 (đại diện cho ông Lê Sỹ C – đi thay không có giấy ủy
quyền) kiến nghị yêu cầu chủ đầu tư thỏa thuận, đề nghị bố trí thêm 01 lô tái định cư.
Trước kiến nghị của hộ dân, tổ công tác đã giải thích các chính sách, quy định của Nhà
nước nhưng hộ dân vẫn chưa đồng ý nhận tiền và bàn giao mặt bằng.
Ngày 18/01/2023, UBND phường V tiếp tục phối hợp các Mặt trận Đoàn thể
phường, Trung Tâm Phát triển quỹ đất thành phố, đại diện tổ dân phố, đại diện hộ dân,
đại diện Công ty Cổ phần V1 tiến hành mời hộ ông Lê Sỹ C đến để vận động nhận
tiền và bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên, hộ dân vắng mặt không tham dự (Giấy mời vận
động đã được gửi cho hộ dân theo quy định). Ngày 07/02/2023, UBND phường V đã
có Văn bản số 144/UBND về việc báo cáo kết quả vận động nhận tiền và bàn giao mặt
bằng liên quan đến 60 trường hợp liên quan dự án Champarama Resort & S, phường
V, thành phố N (trong đó có trường hợp ông Lê Sỹ C). Thực hiện theo Văn bản số
4996/UBND-TNMT ngày 30/10/2015 của UBND thành phố N về việc xây dựng cụ
thể trình tự các bước tổ chức cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất theo quy định
của Luật Đất đai năm 2013. Ngày 20/02/2023, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố
có Văn bản số 240/TTQĐ gửi Phòng T về việc rà soát và tham mưu UBND thành phố
xin chủ trương cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất. Ngày 22/02/2023, Phòng
T đã có Văn bản số 903/TNMT về việc lấy ý kiến đối với các trường hợp xin chủ
trương cưỡng chế thu hồi đất dự án C & Spa (trong đó có trường hợp ông Lê Sỹ C).
Thực hiện theo Văn bản số 4996/UBND-TNMT ngày 30/10/2015 của UBND
thành phố N về việc xây dựng cụ thể trình tự các bước tổ chức cưỡng chế thực hiện
quyết định thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai năm 2013. Ngày 20/02/2023,
Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố có Văn bản số 240/TTQĐ gửi Phòng T về việc
rà soát và tham mưu UBND thành phố xin chủ trương cưỡng chế thực hiện quyết định
thu hồi đất. Ngày 22/02/2023, Phòng T đã có Văn bản số 903/TNMT về việc lấy ý kiến
đối với các trường hợp xin chủ trương cưỡng chế thu hồi đất dự án C & Spa (trong
đó có trường hợp ông Lê Sỹ C tại số T).
Theo đó, Thanh tra thành phố có Văn bản số 128/TTra-KNTC ngày 28/02/2023,
Phòng Kinh tế có Văn bản số 203/KT ngày 28/02/2023, Phòng Quản lý Đô thị có Văn
bản số 643/QLĐT-TTXD ngày 03/03/2023, Phòng Tư pháp có Văn bản số 709/TP
với nội dung thống nhất đủ điều kiện trình UBND thành phố N ban hành Quyết định
cưỡng chế.
Căn cứ theo điểm d khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013, Chủ tịch UBND
thành phố N đã ban hành Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 14/04/2023 về việc
cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C (thửa đất số 130, tờ bản đồ số 02) tại Tổ
A B, V, thành phố N. Việc Chủ tịch UBND thành phố N ban hành Quyết định nêu
trên là đúng quy định pháp luật. Ngày 21/04/2023, 04/5/2023, 18/5/2023, Ban thực
hiện cưỡng chế thu hồi đất dự án C & Spa đã phối hợp các Mặt trận Đoàn thể phường
tiếp tục vận động thuyết phục ông Lê Sỹ C chấp hành bàn giao mặt bằng. Tuy nhiên
tại 03 buổi vận động, hộ dân không tham dự (Giấy mời vận động đã được gửi cho hộ
dân theo quy định). Ngày 24/05/2023, Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất dự án C &
11
S đã tổ chức cưỡng chế thu hồi đất của hộ gia đình và bàn giao mặt bằng cho Chủ đầu
tư (Công ty Cổ phần V1) để thực hiện dự án.
Như vậy, ông Lê Sỹ C yêu cầu hủy Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày
14/04/2023 của Chủ tịch UBND thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ
ông Lê Sỹ C (thửa đất số 130, tờ bản đồ số 02) tại Tổ A B, Đường Đ, phường V, thành
phố N là không có cơ sở.
Về việc yêu cầu buộc UBND thành phố N, tỉnh Khánh Hòa thực hiện thu hồi đất
và đền bù theo quy định pháp luật: Căn cứ các nội dung trên, UBND thành phố N đã
thực hiện thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Lê Sỹ C
theo đúng quy định của pháp luật.
Buộc người bị kiện thực hiện hành vi hành chính về thu hồi đất, bồi thường giá
đất theo giá thị trường tương ứng 15.000.000đ/m² đối với diện tích được công nhận
theo hạn mức đất ở tại thành phố N; Bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất theo
giá của nhà nước đồng thời hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển chỗ ở đối với bà Lê
Thị B.
Về nội dung buộc người bị kiện thực hiện hành vi hành chính về thu hồi đất, bồi
thường giá đất theo giá thị trường tương ứng 15.000.000đ/m² đối với diện tích được
công nhận theo hạn mức đất ở tại thành phố N: Ngày 16/4/2013, UBND tỉnh K cấp
Giấy chứng nhận đầu tư số 37121000389 chứng nhận Công ty Cổ phần D thực hiện
dự án đầu tư C3 tại khu đất liền ven biển B, phường V, thành phố N với diện tích
khoảng 46ha; Mục tiêu: đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng cao cấp (đạt tiêu chuẩn 5
sao) với vốn đầu tư khoảng 1.200 tỷ đồng; nguồn vốn: 100% vốn trong nước, từ nguồn
vốn tự có của Doanh nghiệp và vốn huy động khác; thời hạn hoạt động: 50 năm kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Theo quy định của Luật Đất đai 2003, Nghị
định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và hướng dẫn của Bộ T6 tại khoản 2 Mục X
Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 quy định về việc thu hồi đất để thực
hiện các dự án khu dân cư, trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp quy định tại
khoản 2 Điều 34 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, cụ thể: “Các dự án phát triển kinh tế
trong khu đô thị hiện có gồm dự án xây dựng nhà ở để bán hoặc cho thuê theo quy
định của pháp luật về nhà ở và pháp luật về kinh doanh bất động sản, dự án xây dựng
nhà ở xã hội, dự án xây dựng nhà ở phục vụ tái định cư, dự án xây dựng nhà ở công
vụ, dự án xây dựng trung tâm thương mại, trung tâm H3; dự án xây dựng khách sạn
cao cấp đạt tiêu chuẩn từ hạng 3 sao trở lên”. Như vậy, dự án C & S thuộc nhóm đối
tượng Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Sau khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực, dự án được chuyển
tiếp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 99 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 Chính phủ và được UBND tỉnh K thống nhất cho phép tiếp tục thực hiện
trình Hội đồng nhân dân. Do đó, chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực
hiện theo quy định của Nhà nước áp dụng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa. Giá đất bồi
thường, hỗ trợ áp dụng theo Quyết định số 2062/QĐ-UBND ngày 27/07/2022 của
UBND tỉnh K về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường, tính tiền sử dụng
đất tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố
N. Cụ thể: ngày 01/07/2004, loại đất: “Trường hợp hộ ông Lê Sỹ C sử dụng đất trước
12
ngày không trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên thửa đất này, không đủ điều kiện cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất theo quy định. Do vậy, không được bồi thường về đất theo quy định tại khoản 4
Điều 82 Luật Đất đai năm 2013. Căn cứ điểm a khoản 8 Điều 22 Quyết định số
10/2021/QĐ-UBND 26/8/2021 của UBND tỉnh K ban hành quy định chi tiết một số
nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 4 Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-
UBND ngày 09/3/2022 của UBND tỉnh K sửa đổi bổ sung một số điều tại quy định
chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa ban hành kèm theo Quyết định số 10/2021/QĐ-UBND
ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K. Căn cứ Quyết định số 2062/QĐ-UBND ngày
27/07/2022 của UBND tỉnh K về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường, tính
tiền sử dụng đất tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án C & S, phường
V, thành phố N. Trường hợp hộ ông Lê Sỹ C bị thu hồi toàn bộ diện tích thửa đất
379,0m², thuộc vị trí 4, do đó việc UBND thành phố hỗ trợ về đất: hỗ trợ về đất ở được
xác định theo phần diện tích xây dựng công trình nhà ở với diện tích 46,0m² loại đất:
đất ở đô thị: 1.260.000 đồng/m² x 90% x 46,0m²= 52.164.000 đồng và hỗ trợ về đất
trồng cây lâu năm: 333,0m² loại đất trồng cây lâu năm: 480.000 đồng/m² x 0% x
333,0m² = 143.856.000 đồng là phù hợp theo quy định.
Về nội dung bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất theo giá của nhà nước
không thông qua đấu giá cho bà Lê Thị B: Căn cứ Giấy xác nhận số 1471/XN-UBND
ngày 14/9/2022 của UBND phường V:“...Số nhân khẩu đang cư trú tại vị trí giải tỏa:
04 khẩu”. Căn cứ Văn bản số 28/XN-UBND ngày 14/9/2022 của Công an phường V:
“Các nhân khẩu thường trú tại vị trí thửa đất bị giải tỏa của hộ gia đình ông Lê Sỹ C
là: 1. Ông Lê Sỹ C, 2. Bà Nguyễn Thị B1, 3. Bà Lê Thị B, 4. Bà Nguyễn Thị Kiều
O”. Căn cứ khoản 5 Điều 1 Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của
UBND tỉnh K sửa đổi, bổ sung một số điều tại quy định chi tiết một về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ban hành kèm theo Quyết định số
10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư dự án đã họp xét thông qua phương án, trong đó: hộ gia đình ông Lê Sỹ
C đủ điều kiện tái định cư và đã được UBND thành phố N giải quyết 01 lô tái định cư
tại Lô S Ô số I, diện tích 82,75m², tiếp giáp đường rộng 13,0m, Khu tái định cư Đ, xã
V theo Quyết định số 3907/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành phố N v/v
giao đất cho hộ ông Lê Sỹ C để xây dựng nhà ở gia đình do bị giải tỏa để thực hiện dự
án Champarama V, thành phố N. Do đó, việc đề nghị bán hoặc giao thêm lô đất ở có
thu tiền sử dụng giá của nhà nước cho bà Lê Thị B là không có cơ sở giải quyết.
Về nội dung hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển chỗ ở đối với bà Lê Thị B: Hộ
gia đình không trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên thửa đất này, không đủ điều kiện
bồi thường về đất nên không đủ điều kiện hỗ trợ theo quy định. Nội dung này đã được
UBND thành phố N có ý kiến tại Văn bản số 6419/UBND TNMT ngày 09/8/2023.
Do vậy, việc ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B buộc người bị kiện thực hiện hành vi
hành chính về thu hồi đất, bồi thường giá đất theo giá thị trường tương ứng
15.000.000đ/m² đối với diện tích được công nhận theo hạn mức đất ở tại thành phố N;
Bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất theo giá của nhà nước đồng thời hỗ trợ ổn
13
định đời sống và di chuyển chỗ ở (tiền thuê nhà ở) đối với bà Lê Thị B không có cơ
sở.
* Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 26/01/2024, Đại diện theo ủy quyền cho
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần V1 là ông Trần Văn Đ trình
bày:
Đối với yêu cầu của ông Lê Sỹ C khởi kiện các Quyết định hành chính của
UBND thành phố N về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất
và Chủ tịch UBND thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất để thực hiện dự án, tôi
không có ý kiến gì. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật.
Công ty luôn tuân thủ và nghiêm chỉnh thực hiện theo quy định pháp luật và các
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình triển khai dự án. Cụ thể:
Dự án C & Spa là dự án đã được UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận đầu tư số
37121000389 ngày 16/04/2013 chứng nhận Công ty Cổ phần D với diện tích khoảng
46ha. Theo quy định tại Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25/05/2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi
đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai và Thông tư số 06/2007/TT-
BTNMT ngày 02/07/2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số
84/2007/NĐ-CP thì dự án C & Spa thuộc nhóm đối tượng Nhà nước thu hồi đất.
Dự án cũng đã được Hội đồng nhân dân tỉnh K thông qua tại Nghị quyết số
13/NQ-HĐND ngày 10/12/2014 về việc thông qua danh mục các dự án thu hồ đất để
phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trong năm 2015 trên địa bàn
tỉnh Khánh Hòa. Dự án đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp Giấy chứng nhận đầu tư
số 5488314111 ngày 06/01/2016 cho Công ty Cổ phần K1 (tên Công ty hiện đã thay
đổi là Công ty Cổ phần V1) để thực hiện dự án.
Ngày 24/02/2016, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 465/QĐ-UBND về việc
phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 Khu nghỉ dưỡng C, phường V, thành phố
N. Ngày 27/10/2016, UBND thành phố N đã ban hành Thông báo số 826/TB-UBND
về việc thu hồi đất để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N. Công ty nhận
thấy quá trình triển khai công tác thu hồi đất của dự án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã thực hiện công khai, minh bạch và đúng quy định của pháp luật. Trong quá
trình thực hiện dự án, hộ ông Lê Sỹ C đang sử dụng thửa đất số 130 tờ bản đồ số 02
thuộc Mảnh trích đo địa chính số 88 – 2018 do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày
01/8/2018 và được Sở T8 xác nhận ngày 21/9/2018, trên cơ sở bản đồ cắm mốc ranh
giới số 175 – 2016 được Sở T8 xác nhận ngày 13/10/2016 có diện tích tương ứng
379,0m² do ông Lê Sỹ C kê khai đã được UBND phường V xác nhận tại Giấy xác
nhận số 1471/XN-UBND ngày 14/09/2022 nằm trong phạm vi thu hồi đất để thực hiện
dự án C & S, phường V, thành phố N. Trước khi ban hành các Quyết định thu hồi đất
và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư, tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã tiến hành việc khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, xây
dựng phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, tổ chức niêm yết công khai, lấy ý
kiến theo đúng trình tự quy định của pháp luật.
14
Ngoài phương án bồi thường, hỗ trợ của nhà nước, Công ty Cổ phần V1 còn có
chính sách hỗ trợ thêm đối với các hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi dự án, trong đó bao
gồm hộ ông Lê Sỹ C. UBND thành phố N phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tại
Quyết định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022. Công ty Cổ phần V1 đã ban hành
và công khai chính sách hỗ trợ của công ty tại Văn bản số 90/2022/VB-Vega ngày
29/11/2022 và Văn bản số 99/2022/VB-Vega ngày 23/12/2022 gửi đến hộ ông Lê Sỹ
C. Công ty Cổ phần V1 sẽ không hỗ trợ đối với các thửa đất mà Nhà nước đã áp dụng
biện pháp cưỡng chế thu hồi. Tại các buổi họp vận động nhận tiền và bàn giao mặt
bằng, đại diện UBND phường V cùng các đơn vị liên quan đã vận động hộ dân sớm
nhận tiền và bàn giao mặt bằng theo chính sách hỗ trợ của Công ty Cổ phần V1 nhưng
hộ ông Lê Sỹ C vẫn không đồng ý. Hiện tại, Công ty Cổ phần V1 không còn chính
sách hỗ trợ đối với trường hợp của ông C.
Ông Trần Văn Đ xin được vắng mặt tại các buổi làm việc, công khai chứng cứ,
xét xử liên quan đến nội dung khởi kiện của ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B. Đề nghị Tòa
án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
* Tại Công văn số 1034/UBND ngày 12/6/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N – Đại diện theo uỷ quyền ông
Nguyễn Văn L – Cán bộ Địa chính - Xây dựng phường V trình bày:
- Về việc niêm yết công khai xác nhận nguồn gốc đất:
Trong quá trình thực hiện dự án Champarama Resort & S, phường V, thành phố
N, hộ ông Lê Sỹ C kê khai và sử dụng thửa đất số 130 tờ bản đồ số 02 thuộc thuộc
Mảnh trích đo địa chính số 88 – 2018 do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày 01/8/2018
và được Sở T8 xác nhận ngày 21/9/2018, trên cơ sở bản đồ cắm mốc ranh giới số 175
– 2016 được Sở T8 xác nhận ngày 13/10/2016 có diện tích 379,0m².
Căn cứ vào kết quả đo đạc, giấy tờ nguồn gốc đất, UBND phường V đã tiến hành
tổ chức họp xét nguồn gốc đất và niêm yết nguồn gốc đất tại Thông báo số 1728/TB-
UBND ngày 26/11/2021 (Đợt 30-25 trường hợp) với nội dung như sau:
+ Nguồn gốc:
- Theo Hồ sơ sổ dã ngoại năm 1996: Thuộc diện tích do UBND phường V kê
khai (thửa số 23; tờ bản đồ số 4F; diện tích: 3.404m²).
- Theo Phiếu ý kiến khu dân cư:
Năm 1990, ông Hoàng Nam H2 và bà Nguyễn Thị Thu T4 khai hoang với diện
tích khoảng 600m².
Năm 1996, đoàn đo đạc đến vị trí đất trên nhưng không ai kê khai đo đạc nên
đoàn công tác đo đạc thửa đất tại vị trí này và tiến hành xác lập loại đất là: Đất bằng
chưa sử dụng và do UBND phường V kê khai quản lý (thửa số 23, tờ số 4F; diện tích
3.404m²).
Ngày 10/4/2001, bà Nguyễn Thị Thu T4 có đơn xin xác nhận có đất và nhà tại
B, nguồn gốc đất là gia đình khai hoang năm 1990 với diện tích 600m² và 200m² do
mẹ là bà Nguyễn Thị C1 cho và đã được UBND phường V xác nhận ngày 12/4/2001.
15
Năm 2001, bà Nguyễn Thị Thu T4 có kê khai hồ sơ kỹ thuật đền bù giải tỏa dự
án Khu nghỉ mát cao cấp Rusalka thửa đất 110 với diện tích 747,0m². Năm 2005, ông
Hoàng Nam H2 và bà Nguyễn Thị Thu T4 trích một phần chuyển nhượng cho ông Lê
Sỹ C có chiều dài là 40m và chiều rộng là 10,20m (khoảng diện tích 408m²).
- Theo Giấy tờ hộ dân cung cấp: Ngày 16/04/2001, ông Hoàng Nam H2 và bà
Nguyễn Thị Thu T4 chuyển nhượng cho ông Lê Sỹ C có chiều dài là 40m và chiều
rộng là 10,20m (khoảng diện tích 408m²) (bằng giấy viết tay không có xác nhận của
cơ quan có thẩm quyền). Giấy tờ hộ dân cung cấp nêu trên không hợp lệ về thời gian
chuyển nhượng do tháng 4/2001 dự án Khu N phường V, thành phố N triển khai thực
hiện không có hồ sơ tên Lê Sỹ C kê khai mà do bà Nguyễn Thị Thu T4 kê khai tại vị
trí thửa đất.
Diện tích thực tế đang sử dụng của ông Lê Sỹ C là 379,0m² chênh lệch giảm
29,0m so với giấy chuyển nhượng là do mua bán áng chừng. Toàn bộ khuôn viên ranh
giới thửa đất đã được xác định, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền
kề. Ông Lê Sỹ C tiếp tục sử dụng đất từ đó cho đến nay ổn định, không lấn, chiếm và
không có tranh chấp. Tại thời điểm kiểm kê khối lượng có 04 nhân khẩu gồm: Ông Lê
Sỹ C, bà Nguyễn Thị B1, bà Lê Thị B, bà Lê Thị Kiều O1 (theo xác nhận của Công
an phường V, thành phố N).
- Hộ gia đình không trực tiếp sản xuất nông nghiệp trên thửa đất bị giải tỏa;
- Hộ gia đình ăn ở, sinh hoạt tại vị trí thửa đất bị giải tỏa.
- Thời điểm sử dụng đất: tiếp tục sử dụng từ ngày 16/04/2001 cho đến nay.
- Thời điểm xây dựng công trình và vật kiến trúc khác trên đất: năm 2000 ông
Hoàng Nam H2 xây dựng. Đến năm 2005, ông Lê Sỹ C sửa chữa lại hiện nay không
có giấy phép xây dựng.
- Thời điểm chuyển đến cư trú: năm 2005 có đăng ký tạm trú đến năm 2012 mới
đăng ký thường trú.
- Số nhân khẩu đang cư trú tại vị trí giải tỏa: 04 khẩu.
- Loại đất: Đất trồng cây lâu năm (không phải đất công, đất công ích do UBND
phường quản lý).
+ Tổng diện tích đất: 379,0m².
Thời gian niêm yết nguồn gốc đất từ ngày 26/11/2021 đến ngày 11/12/2021 tại
trụ sở UBND phường V và khu dân cư T Đường Đ, B, phường V. Tuy nhiên, hộ ông
Lê Sỹ C không có ý kiến về nội dung xác minh nêu trên. Do đó, ngày 14/9/2022 UBND
phường V ban hành Giấy xác nhận số 1471/XN-UBND về thửa đất thu hồi để phục
vụ cho công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án C &
S, phường V, thành phố N.
Về việc niêm yết lấy ý kiến phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với
hộ ông Lê Sỹ C: Thực hiện Thông báo số 267/TB-HĐBT ngày 07/10/2022 của Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư dự án C & Spa, UBND phường V đã phối hợp
với Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố, Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam
16
phường V, Đại diện hộ dân, Tổ trưởng tổ dân phố niêm yết phương án dự kiến bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư tại UBND phường và khu dân cư T Đường Đ, B, phường
V. Đồng thời, đã tổ chức mời ông Lê Sỹ C họp lấy ý kiến phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư vào ngày 14/10/2022. Tuy nhiên, ông Lê Sỹ C vắng mặt và không
có ý kiến góp ý Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Quá trình niêm yết các
hồ sơ trên đều có đầy đủ biên bản niêm yết, biên bản kết thúc niêm yết và được niêm
yết tại trụ sở UBND phường và khu dân cư theo đúng quy định.
Vì vậy, UBND phường V đã thực hiện đầy đủ quy trình niêm yết nguồn gốc quá
trình sử dụng đất, phương án bồi thường hỗ trợ tái định cư của hộ dân và đảm bảo
việc lấy ý kiến phương án theo đúng quy định của pháp luật.
* Tại bản trình bày ý kiến ngày 01/7/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
bà Nguyễn Thị B1 tình bày:
Năm 2001, con trai bà là Lê Sỹ C có mua 01 lô đất có nhà ở cấp 4 thuộc khu vực
Tổ A, B, phường V, thành phố N. Gia đình bà vì điều kiện kinh tế thời điểm đó gặp
nhiều khó khăn và cũng vì để tiện cho công việc, sinh hoạt nên tôi có chuyển về đây
sinh sống cùng với các con của mình.
Đến cuối năm 2017, bão Con Voi gây thiệt hại nghiêm trọng làm sập nhà, con
gái là Lê Thị B có xin xây dựng, sửa chữa lại căn nhà nhưng chính quyền địa phương
không đồng ý vì họ nói rằng đã có thông báo thu hồi đất thực hiện dự án nên lúc này
phần nhà ở còn lại không đảm bảo nên gia đình tôi mới dọn đi nơi khác sinh sống.
Một phần nhà còn lại vẫn sử dụng được thì cháu gái bà là Nguyễn Thị Kiều O và ông
Nguyễn Chí C2 vẫn ở lại cho đến khi phường thông báo cưỡng chế thu hồi đất thì mới
rời đi.
Nay, Nhà nước đã cưỡng chế tháo dỡ nhà ở trên đất để thực hiện dự án, các con
bà là Lê Sỹ C và Lê Thị B khởi kiện yêu cầu UBND thành phố N thực hiện việc bồi
thường, hỗ trợ theo đúng quy định pháp luật thì tôi đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của các con bà. Tôi không yêu cầu đối thoại và xin vắng mặt trong suốt quá
trình giải quyết vụ án vì bà đã lớn tuổi, sức khỏe không đảm bảo để trực tiếp tham gia
tố tụng. Đề nghị quý Tòa xét xử vắng mặt tôi. Bà B1 cam kết lời khai và ý kiến trên
đây là hoàn toàn đúng sự thật, nếu có gì gian dối, tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp
luật.
* Tại bản trình bày ý kiến ngày 30/7/2024, bà Nguyễn Thị Kiều O, ông Nguyễn
Chí C2 trình bày:
Năm 2001, anh trai ông là Lê Sỹ C có mua một đám đất có nhà ở cấp 4 thuộc
khu vực Tổ A, B, phường V, thành phố N. Gia đình ông vì điều kiện kinh tế thời điểm
đó gặp nhiều khó khăn và cũng vì để tiện cho công việc, sinh hoạt nên ông có chuyển
về đây sinh sống cùng với các anh chị của mình. Năm 2012, ông cũng nhập khẩu vào
hộ của bà Lê Thị B. Đến tháng 10/2017, gia đình ông gồm có ông, vợ và con Nguyễn
Chí A tách hộ khẩu cùng nhà. Cuối năm 2017, bão Con Voi gây thiệt hại nghiêm trọng
làm sập nhà, chị ông là Lê Thị B có xin xây dựng, sửa chữa lại căn nhà nhưng chính
quyền địa phương không đồng ý vì họ nói rằng đã có thông báo thu hồi đất thực hiện
dự án nên lúc này phần nhà còn lại không đảm bảo nên một số người trong gia đình
17
phải dọn đi nơi khác sinh sống. Một phần nhà còn lại vẫn sử dụng được thì anh C, chị
B và bác của ông là bà Nguyễn Thị B1 đi ra ngoài thuê nhà ở còn căn nhà để cho vợ
chồng ông và con trai ở cho đến khi phường thông báo cưỡng chế thu hồi đất thì gia
đình ông mới rời đi.
Nay, Nhà nước đã cưỡng chế tháo dỡ nhà ở trên đất để thực hiện dự án, các anh
trai ông là ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B khởi kiện yêu cầu UBND thành phố N thực
hiện việc bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định pháp luật thì gia đình ông đề nghị Toà
án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của họ, gia đình ông không có ý kiến tranh chấp hoặc
khiếu nại gì. Ông và các con ông không yêu cầu đối thoại và xin vắng mặt trong suốt
quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị quý Tòa xét xử vắng mặt. Ông C2, bà O cam kết
lời khai và ý kiến trên đây là hoàn toàn đúng sự thật, nếu có gian dối, ông bà xin chịu
trách nhiệm trước pháp luật.
* Tại bản trình bày ý kiến ngày 09/7/2024, ông Lê Hoàng N1 và bà Nguyễn Thị
Diễm T5 trình bày:
Năm 2001, anh rể ông là Lê Sỹ C có mua 01 lô đất có nhà ở cấp 4 thuộc khu vực
Tổ A, B, phường V, thành phố N. Gia đình ông bà vì điều kiện kinh tế thời điểm đó
gặp nhiều khó khăn và cũng vì để tiện cho công việc, sinh hoạt nên ông bà có chuyển
về đây sinh sống cùng với anh chị của mình. Năm 2011, ông bà cũng nhập khẩu về
đây. Cuối năm 2017, bão Con Voi gây thiệt hại nghiêm trọng làm sập nhà, gia đình
anh C có xin xây dựng, sửa chữa lại căn nhà nhưng chính quyền địa phương không
đồng ý vì họ nói rằng đã có thông báo thu hồi đất thực hiện dự án nên lúc này phần
nhà ở còn lại không đảm bảo cho nhiều người cùng sinh sống nên một số người trong
gia đình chúng tôi phải dọn đi thuê ở nơi khác sinh sống. Một phần nhà còn lại vẫn
sử dụng được thì vợ chồng bà Nguyễn Thị Kiều O vẫn ở lại cho đến khi phường thông
báo cưỡng chế thu hồi đất thì họ mới rời đi.
Nay, Nhà nước đã cưỡng chế tháo dỡ nhà ở trên đất để thực hiện dự án, các anh
chị của tôi là ông Lê Sỹ C và em gái của ông C là bà Lê Thị B khởi kiện yêu cầu
UBND thành phố N thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ theo đúng quy định pháp luật
thì chúng tôi đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của họ, ông bà không có ý
kiến tranh chấp hoặc khiếu nại gì, vợ chồng ông bà đã có nhà riêng. Ông bà không
yêu cầu đối thoại và xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị quý
Tòa xét xử vắng mặt, cam kết lời khai và ý kiến trên đây là hoàn toàn đúng sự thật,
nếu có gì gian dối, tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Với nội dung trên, tại Bản án hành chính sơ thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 11
tháng 9 năm 2024, Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa quyết định: căn cứ vào điểm
a khoản 2 Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính; Điều 32 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Tuyên xử: bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Lê Sỹ C, bà
Lê Thị B về việc:
18
- Hủy các Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành
phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C & S, phường
V, thành phố N; Quyết định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành
phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C & S,
phường V, thành phố N; Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 14/4/2023 của Chủ tịch
UBND thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất.
- Buộc UBND thành phố N thực hiện thủ tục thu hồi đất và đền bù theo đúng quy
định của pháp luật và đền bù toàn bộ diện tích đất bị thu hồi theo giá thị trường tương
ứng 15.000.000 đồng/m²;
- Buộc UBND thành phố N thực hiện bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất
theo giá của Nhà nước không thông qua đấu giá; hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển
chỗ ở (tiền thuê nhà ở) đối với bà Lê Thị B.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí hành chính sơ
thẩm và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/9/2024, người khởi kiện ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B kháng cáo đề nghị
sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông C, bà B.
Tại phiên toà, bà Phạm Bảo T người đại diện theo uỷ quyền của những người
khởi kiện giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; đề nghị được thay đổi Thẩm phán Chủ toạ
phiên toà với lý do Thẩm phán Chủ toạ phiên toà đã xét xử một số vụ án có cùng tính
chất như vụ án mà ông Lê Sỹ Chung, bà Lê Thị Bình khởi kiện và đề nghị Hội đồng
xét xử hoãn phiên toà để triệu tập người bị kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về
giải quyết vụ án:
- Về việc chấp hành pháp luật: Chủ tọa phiên tòa, thành viên Hội đồng xét xử,
Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố
tụng hành chính; lý do bà T đưa ra để yêu cầu thay đổi Thẩm phán Chủ toạ phiên toà
không thuộc những trường hợp phải thay đổi Thẩm phán theo quy định tại Điều 45,
46 Luật Tố tụng hành chính. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận và tiếp tục
tiến hành xét xử vụ án.
- Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng
hành chính, bác kháng cáo của người khởi kiện ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B, giữ
nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; ý kiến trình bày,
tranh luận của đương sự và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử nhận định:
[1]. Ngày 24/9/2024, người khởi kiện kháng cáo bản án sơ thẩm, Đơn kháng cáo
của người khởi kiện là trong thời hạn quy định tại Điều 206 Luật Tố tụng hành chính,
do đó, Hội đồng xét xử quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
19
Tại phiên toà, mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng người bị
kiện vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2, khoản 4 Điều 225 Luật Tố
tụng hành chính tiến hành xét xử vụ án.
Đối với yêu cầu của người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện về việc
đề nghị thay đổi Thẩm phán Chủ toạ phiên toà: lý do bà T đưa ra để đề nghị thay đổi
Thẩm phán Chủ toạ phiên toà không thuộc các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi
người tiến hành tố tụng, Thẩm phán theo quy định tại các Điều 45, 46 Luật Tố tụng
hành chính nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Bảo T.
[2]. Xét kháng cáo của người khởi kiện ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B, Hội đồng
xét xử xem xét các vấn đề sau:
[2.1]. Về tố tụng:
Cùng ngày 14/12/2022, Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố N ban hành các
quyết định: Quyết định số 3897/QĐ-UBND về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ
C để thực hiện dự án C & S, phường V, thành phố N (Quyết định số 3897); Quyết
định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành phố N về việc bồi
thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C & S, phường V, thành
phố N (Quyết định số 3912). Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tổ
chức công tác bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi nhưng hộ ông Lê Sỹ C
không chịu nhận tiền và bàn giao mặt bằng, nên ngày 14/4/2023 Chủ tịch UBND thành
phố N ban hành Quyết định số 1972/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với
hộ ông Lê Sỹ C (Quyết định số 1972). Không đồng ý với nội dung tại các Quyết định
nêu trên, ngày 28/4/2023, ông Lê Sỹ C, bà Lê Thị B khởi kiện yêu cầu hủy các Quyết
định số 3897, số 3912 của UBND thành phố N, Quyết định số 1972 của Chủ tịch
UBND thành phố N; đồng thời buộc UBND thành phố N thực hiện thủ tục thu hồi đất
và đền bù theo đúng quy định của pháp luật, đền bù toàn bộ diện tích đất bị thu hồi
theo giá thị trường tương ứng 15.000.000 đồng/m² và buộc UBND thành phố N thực
hiện bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất theo giá của Nhà nước không thông
qua đấu giá; hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển chỗ ở (tiền thuê nhà ở) đối với bà
Lê Thị B. Hội đồng xét xử thấy rằng, các Quyết định mà người khởi kiện khiếu kiện
là quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 và khoản 1 Điều 30 của Luật Tố tụng
hành chính. Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm
quyền giải quyết và thời hiệu khởi kiện trong thời hạn được quy định tại khoản 4 Điều
32; điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính.
[2.2]. Về nội dung:
[2.2.1]. Đối với Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND
thành phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C & S,
phường V, thành phố N:
- Về đối tượng thu hồi: ngày 16/4/2013, UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận đầu
tư số 37121000389 cho Công ty cổ phần D để thực hiện dự án C & Spa với diện tích
khoảng 46ha, mục đích đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng cao cấp (đạt chuẩn 5 sao),
thời hạn hoạt động: 50 năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
20
Tại mục X khoản 2 Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 của Bộ
T6 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng
5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai quy định: “Dự
án khu dân cư, trung tâm thương mại, khách sạn cao cấp quy định tại khoản 2 Điều
34 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP bao gồm:
2.1. Các dự án phát triển kinh tế trong khu đô thị hiện có gồm dự án xây dựng
nhà ở để bán hoặc cho thuê theo quy định của pháp luật về nhà ở và pháp luật về kinh
doanh bất động sản, dự án xây dựng nhà ở xã hội, dự án xây dựng nhà ở phục vụ tái
định cư, dự án xây dựng nhà ở công vụ, dự án xây dựng trung tâm thương mại, trung
tâm H3; dự án xây dựng khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn từ hạng 3 sao trở lên”.
Như vậy, dự án C & S thuộc nhóm đối tượng Nhà nước thu hồi đất theo quy định
của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Về chủ thể bị thu hồi đất:
Trong quá trình thực hiện dự án Champarama Resort & S, phường V, thành phố
N, hộ ông Lê Sỹ C kê khai và sử dụng thửa đất số 130 tờ bản đồ số 02 thuộc thuộc
Mảnh trích đo địa chính số 88 – 2018 do Công ty TNHH D1 thiết lập ngày 01/8/2018
và được Sở T8 xác nhận ngày 21/9/2018, trên cơ sở bản đồ cắm mốc ranh giới số 175
- 2016 được Sở T8 xác nhận ngày 13/10/2016. Căn cứ vào kết quả đo đạc, giấy tờ
nguồn gốc đất, UBND phường V đã tiến hành tổ chức họp xét nguồn gốc đất và niêm
yết nguồn gốc đất tại Thông báo số 1728/TB-UBND ngày 26/11/2021 và ban hành
Giấy xác nhận số 1471/XN-UBND ngày 14/9/2022 (BL 137) về thửa đất thu hồi. Theo
đó, nguồn gốc đất do ông Lê Sỹ C nhận chuyển nhượng từ ông Hoàng Nam H2 và bà
Nguyễn Thị Thu T4 vào năm 2001 với diện tích thực tế đang sử dụng là 379,0m². Ông
C sử dụng đất ổn định từ đó cho đến nay, không lấn chiếm và không có tranh chấp.
Do đó, UBND thành phố N ban hành Quyết định số 3897 để thu hồi đất đối với hộ
ông Lê Sỹ C là đúng chủ thể, phù hợp với quy định pháp luật.
- Về trình tự, thủ tục và ranh giới thu hồi:
Dự án C & Spa được UBND tỉnh K cấp chủ trương đầu tư trước khi Luật Đất đai
năm 2013 và Luật Đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành. Tại điểm a khoản 1 Điều 99
của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về xử lý các trường
hợp đang thực hiện thủ tục thu hồi đất trước ngày 01/7/2014 quy định: “1. Trường hợp
đã có văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, giới thiệu địa điểm hoặc thông báo thu
hồi đất gửi đến từng người có đất thu hồi hoặc văn bản cho phép chủ đầu tư thỏa
thuận với người sử dụng đất thuộc phạm vi dự án từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2014
nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì xử lý như sau:
a) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép tiếp tục thực hiện dự án và áp dụng hình
thức thu hồi đất hoặc chủ đầu tư nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận
góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai, nếu phù hợp với kế
hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt;”.
21
Tại khoản 1 và khoản 2 Điều 74 Luật Đầu tư năm 2014 quy định về chuyển tiếp
thực hiện dự án đầu tư: “Nhà đầu tư đã được cấp Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận
đầu tư trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành thì được thực hiện dự án đầu tư theo
Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư đã được cấp…”
Như vậy, Champarama Resort & Spa là dự án chuyển tiếp theo quy định viện
dẫn trên. Việc UBND tỉnh K chủ trương thu hồi đất và giao cho Công ty cổ phần D
thuê đất để thực hiện dự án là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 38 Luật Đất đai
năm 2003, khoản 2 Điều 34 Nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính
phủ.
Trên cơ sở ý kiến chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ và đề xuất của Bộ K2 và
Đầu tư, UBND tỉnh K thống nhất xem xét, lựa chọn Công ty cổ phần D là nhà đầu tư
mới tiếp tục thực hiện dự án R. Do đó, UBND tỉnh K cấp Giấy chứng nhận đầu tư lần
đầu ngày 16/4/2013 cho Công ty cổ phần D để thực hiện Dự án với quy mô đầu tư
khoảng 46ha đất, trong đó Khu A khoảng 02ha, Khu B khoảng 30ha, Khu C khoảng
14 ha. Tại Thông báo số 351/TB-UBND ngày 22/8/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh K
về việc xử lý đất dự án R (cũ) và giải quyết hồ sơ thuê đất để xây dựng Khu C của dự
án C & Spa với nội dung: “Giao Sở T8 nghiên cứu, tham mưu xử lý phần diện tích
các khu A và B (đã được UBND tỉnh K cấp giấy chứng nhận đầu tư) theo hướng:
Điều chỉnh quyết định số 833/QĐ-TTg ngày 5/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ, giảm
diện tích các khu A và B đã cho công ty Đ1 (trước đây) thuê đất theo quyết định của
Thủ tướng Chính phủ. Cho phép các hộ dân có đất tại khu vực nêu trên được thực
hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đầu tư xây dựng theo quy
hoạch được phê duyệt”. Vì vậy, tại Giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh ngày
14/11/2014 thì UBND tỉnh K đã điều chỉnh quy mô đầu tư xuống còn khoảng 44ha
đất, trong đó Khu B khoảng 30ha, Khu C khoảng 04ha. Như vậy, mặc dù Dự án có
điều chỉnh giảm một phần diện tích nhưng các Khu của dự án vẫn nằm trong quy
hoạch và thuộc diện Nhà nước thu hồi đất.
Ngày 24/02/2016, UBND tỉnh K ban hành Quyết định số 465/QĐ-UBND về
việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 Khu nghỉ dưỡng C & Spa và ngày
27/10/2016, UBND thành phố N có Thông báo số 826/TB-UBND về việc thu hồi đất
để thực hiện Dự án, diện tích đất thu hồi Khu B (B1 + B2): 28,80ha. Trên cơ sở Tờ
trình số 7156/TTr-UBND ngày 11/11/2014 của UBND tỉnh K, Dự án được Hội đồng
nhân dân tỉnh K thông qua tại Nghị quyết số 13/NQ-HĐND ngày 10/12/2014; sau đó,
UBND thành phố N đã cập nhật phần diện tích thu hồi vào Kế hoạch sử dụng đất từ
năm 2015 cho đến nay của thành phố N đồng thời được UBND tỉnh K phê duyệt kế
hoạch sử dụng đất năm 2019 của thành phố N là loại đất thương mại, dịch vụ tại Quyết
định số 4108/QĐ-UBND ngày 28/12/2018 khi Nghị quyết được thông qua.
Quá trình triển khai dự án, UBND thành phố N đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ
tục thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai. Hộ ông Lê Sỹ C đang sử dụng thửa đất
số 30, tờ bản đồ số 02, địa chỉ: phường V, thành phố N, có diện tích 379,0m
2
nằm
trong phạm vi thu hồi đất để thực hiện Dự án C & S, phường V, thành phố N nên
UBND thành phố N ban hành Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 về
việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C & S, phường V, thành
22
phố N là đúng theo trình tự, thẩm quyền quy định tại Điều 69 Luật Đất đai năm 2013.
Ông Lê Sỹ C yêu cầu hủy Quyết định 3897 này là không có cơ sở để chấp nhận.
[2.2.2]. Đối với Quyết định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND
thành phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C
& S, phường V, thành phố N:
- Về thủ tục: Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành Quyết định số 3897/QĐ-
UBND ngày 14/12/2022 về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự
án C & S, phường V, thành phố N; cùng ngày Ủy ban nhân dân thành phố N ban hành
Quyết định số 3912/QĐ-UBND về việc bồi thường hỗ trợ, đối với hộ ông Lê Sỹ C có
đất bị thu hồi để thực hiện Dự án là đúng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 69 của
Luật Đất đai năm 2013.
- Về nội dung:
+ Bồi thường, hỗ trợ về đất: theo Giấy xác nhận số 1471/XN-UBND ngày
14/9/2022 của UBND phường V thì hộ ông Lê Sỹ C sử dụng đất trước ngày 01/7/2004,
loại đất: Đất trồng cây lâu năm, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định,
không trực tiếp sản xuất nông nghiệp nên không được bồi thường về đất theo quy định
tại Điều 82 Luật Đất đai năm 2013 mà chỉ được hỗ trợ về đất.
Tổng diện tích đất hộ ông C bị thu hồi là 379,0m
2
, trong đó có 46m
2
đất được
xác định theo phần diện tích xây dựng công trình nhà ở, đất ở đô thị và 333m
2
diện
tích đất trồng cây lâu năm nên được xem xét hỗ trợ với giá 1.260.000 đồng/m
2
x 90%
x 46m
2
= 52.164.000 đồng (đất ở) và 480.000 đồng/m
2
x 90% x 333m
2
= 143.856.000
đồng (đất trồng cây lâu năm) là phù hợp với quy định tại Quyết định số 04/2022/QĐ-
UBND ngày 09/3/2022 của UBND tỉnh K ban hành kèm theo Quyết định số
10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K; Quyết định số 4837/QĐ-
UBND ngày 24/12/2021 của UBND tỉnh K về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính
bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án Khu nghỉ dưỡng C,
phường V, thành phố N; Công văn số 846/UBND-XDNĐ ngày 25/01/2022 của Ủy
ban nhân dân tỉnh K về việc chủ trương áp dụng giá cụ thể tính bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư đối với các dự án đã phê duyệt giá đất cụ thể năm 2021 thuộc địa bàn thành
phố N và khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê Sỹ C về việc buộc
UBND thành phố N bồi thường giá đất theo giá thị trường tương ứng 15.000.000
đồng/m
2
là phù hợp, đúng quy định; Hội đồng xét xử phúc thẩm không có cơ sở chấp
nhận nội dung kháng cáo này của ông C.
+ Bồi thường, hỗ trợ về công trình, vật kiến trúc trên đất, cây trồng trên đất:
công trình và vật kiến trúc khác trên diện tích đất thu hồi không có giấy phép xây dựng
nên hộ ông Lê Sỹ C không được bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật
Đất đai năm 2013 mà chỉ được xem xét hỗ trợ theo điểm 7 khoản 4 Điều 1 Quyết định
số 04/2022/QĐ-UBND ngày 09/3/2022 của UBND tỉnh K với tổng số tiền
204.439.025 đồng; đồng thời hỗ trợ cây trồng trên đất với số tiền 64.707.000 đồng là
đúng với quy định pháp luật và đúng số lượng tại Biên bản kiểm kê khối lượng bồi
23
thường giải tỏa ngày 26/5/2021 của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (BL
140).
+ Về chính sách hỗ trợ ổn định đời sống và hỗ trợ tiền thuê nhà:
Căn cứ Điều 83 Luật Đất đai 2013, Điều 21 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất thì hộ ông C không trực tiếp sản xuất nông nghiệp và không đủ điều kiện bồi
thường về đất nên không đủ điều kiện hỗ trợ.
+ Về chính sách tái định cư: hộ ông Lê Sỹ C bị thu hồi toàn bộ diện tích đất,
được hỗ trợ về đất, ăn ở, sinh hoạt tại vị trí giải tỏa trước ngày 01/7/2014 và không còn
nhà ở, đất ở nào trên địa bàn thành phố N. Do đó, hộ ông C được giao 01 lô đất ở có
thu tiền sử dụng đất là đúng với quy định tại Điều 79 Luật Đất đai năm 2013; Quyết
định số 10/2021/QĐ-UBND ngày 26/8/2021 của UBND tỉnh K quy định chi tiết một
số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
tỉnh Khánh Hòa và khoản 5 Điều 1 tại Quyết định số 04/2022/QĐ-UBND ngày
09/3/2022 của UBND tỉnh K.
[2.2.3]. Đối với Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 14/4/2023 của Chủ tịch
UBND thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C tại Tổ A B,
Đường Đ, phường V, thành phố N để thực hiện dự án C & S, Hội đồng xét xử thấy
rằng:
Quá trình tổ chức thực hiện việc thu hồi, bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ
C, các cơ quan, đơn vị có liên quan đã tiến hành tống đạt cho ông C và niêm yết công
khai các Quyết định số 3897, 3912 theo quy định; đồng thời nhiều lần vận động gia
đình ông C đến nhận tiền bồi thường nhưng ông C không đồng ý nhận và bàn giao
mặt bằng.
Do hộ ông Lê Sỹ C không chấp hành việc bàn giao mặt bằng đất đã bị thu hồi tại
Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành phố N nên Chủ
tịch UBND thành phố N ban hành Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 14/4/2023 về
việc cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C là đúng quy định tại Điều 71 Luật
Đất đai năm 2013. Toà án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của ông C là có
căn cứ, đúng quy định.
[2.2.4]. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị B về việc buộc UBND thành
phố N bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất theo giá của Nhà nước không thông
qua đấu giá; hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển chỗ ở (tiền thuê nhà) đối với Bà:
Như đã phân tích ở trên, UBND thành phố N thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C
là đúng chủ thể, phù hợp với nguồn gốc thửa đất bị thu hồi. Theo đó, hộ ông C được
giao 01 lô đất tái định cư tại Đ, xã V, thành phố N; bà Lê Thị B không phải là chủ thể
có đất bị thu hồi, do đó không thuộc diện được giao đất tái định cư theo quy định.
Mặt khác, tại thời điểm thu hồi đất, bà Lê Thị B không trực tiếp sản xuất nông
nghiệp, không ăn ở, sinh hoạt tại thửa đất bị thu hồi nên bà B không thuộc đối tượng
để hỗ trợ ổn định đời sống, không thuộc đối tượng để bồi thường chi phí tiền thuê nhà
24
theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ và Điều 91 Luật Đất đai năm 2013.
[3]. Từ các nhận định, phân tích tại mục [2] nêu trên của bản án thấy rằng, Tòa
án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B là có
căn cứ, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của người
khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 11/9/2024 của
Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
[4]. Án phí hành chính phúc thẩm: do kháng cáo không được chấp nhận nên
người khởi kiện phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
[5]. Quyết định của bản án sơ thẩm về án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không
bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;
Bác kháng cáo của người khởi kiện ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B. Giữ nguyên
quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 45/2024/HC-ST ngày 11/9/2024 của
Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hòa.
2. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206 Luật Tố tụng hành chính;
Tuyên xử: bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện ông Lê Sỹ C, bà
Lê Thị B về việc:
- Hủy các Quyết định số 3897/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành
phố N về việc thu hồi đất đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C & S, phường
V, thành phố N; Quyết định số 3912/QĐ-UBND ngày 14/12/2022 của UBND thành
phố N về việc bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông Lê Sỹ C để thực hiện dự án C & S,
phường V, thành phố N; Quyết định số 1972/QĐ-UBND ngày 14/4/2023 của Chủ tịch
UBND thành phố N về việc cưỡng chế thu hồi đất;
- Buộc UBND thành phố N thực hiện thủ tục thu hồi đất và đền bù theo đúng quy
định của pháp luật và đền bù toàn bộ diện tích đất bị thu hồi theo giá thị trường tương
ứng 15.000.000 đồng/m²;
- Buộc UBND thành phố N thực hiện bán hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất
theo giá của Nhà nước không thông qua đấu giá; hỗ trợ ổn định đời sống và di chuyển
chỗ ở (tiền thuê nhà ở) đối với bà Lê Thị B.
3. Về án phí: căn cứ khoản 1 Điều 349 Luật Tố tụng hành chính; áp dụng khoản
1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án;
Ông Lê Sỹ C và bà Lê Thị B phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hành
chính phúc thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí
đã nộp theo Biên lai thu số 0000583 ngày 10/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Khánh Hòa. Ông C, bà B đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
25
4. Quyết định của bản án sơ thẩm về phần chi phí tố tụng, án phí không có kháng
cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Khánh Hòa;
- VKSND tỉnh Khánh Hòa;
- Cục THADS tỉnh Khánh Hòa;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Trần Đức Kiên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm