Bản án số 04/2025/HC-PT ngày 28/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 04/2025/HC-PT ngày 28/04/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 04/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/04/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Kết quả phúc thẩm Nguyễn Thị X - Chủ tịch UBND thị trấn L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 04/2025/HC-PT
Ngày: 28-4-2025
V khiếu kiện quyết định hành
chính về việc giải quyết khiếu nại.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Hưng
Các Thẩm phán: Ông Ngô Thanh Sỹ
Ông Đỗ Minh Nhựt
- Thư phiên tòa: Bà Võ Thị Ngọc Linh Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân n tỉnh Đồng Nai: Nguyễn Thị Bình
- Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 28 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 07/2025/TLPT-HC ngày 10 tháng 02
năm 2025 về Khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết khiếu nại”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 30 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số 05/2025/QĐHC-PT
ngày 21 tháng 3 năm 2025 Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2025/QĐ-PT
ngày 15 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1947.
Địa chỉ: Khu C, thị trấn L, huyện T, tnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Tuấn N, sinh năm 1973.
Địa chỉ: Khu P, thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai (Theo văn bản ủy
quyền ngày 14/4/2025) vắng mặt.
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn L.
Địa chỉ: Khu P, thị trấn L, huyện T, tnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tất Đ Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị trấn L vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân thị trấn L.
2
Địa chỉ: Khu P, thị trấn L, huyện T, tnh Đồng Nai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Hồng H Chức vụ: Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thị trấn L.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tất Đ Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thị trấn L – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung án sơ thẩm:
* Tại đơn khởi kiện trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn trình bày:
Nguyễn Thị X đang quản sử dụng diện tích đất 1.253 m
2
số thửa
09, tờ bản đồ số 82, địa chỉ tại tổ 35, khu C, thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nguồn gốc đất là do bà X tự khai phá và cất nhà ở trên đất từ năm 1968 đến nay.
Ban đầu đây đất gò, địa thế cao nên người dân địa phương chôn cất người đã
khuất đây, đến lúc giải phóng năm 1975 thì còn khoảng 20 cái mồ mả. Sau
giải phóng, chính quyền địa phương không cho người dân sử dụng đất đó để
chôn cất nữa và kêu gọi di dời. Sau đó, không ai chôn cất ở đó nữa. Những ngôi
mộ đó đã được di dời xong từ tháng 4 năm 2022. Hiện nay trên đất không còn
ngôi mộ nào. Việc di dời do thân nhân của những người đã khuất thực hiện.
Khoảng năm 2018, X ủy quyền cho T đến Ủy ban nhân dân (sau
đây gọi tắt UBND) thị trấn L nộp đơn xin đo đạc để cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là GCNQSDĐ), được tiếp nhận nhưng không
thấy giải quyết. Sau đó, X làm đơn khiếu nại cán bộ địa chính UBND thị
trấn (bà T không nhớ gửi đơn khiếu nại đến quan nào), sau đó cán bộ địa
chính nói bà X rút đơn khởi kiện đi thì sẽ giải quyết cho bà. X rút đơn khởi
kiện nhưng hồ vẫn không được giải quyết, Xuân đến UBND thị trấn hỏi
thì được trả lời hồ bị thất lạc. Việc tiếp nhận hồ không được làm biên
nhận, và việc không giải quyết hồ sơ cũng trả lời miệng chứ không làm văn bản.
Năm 2021, bà X lại ủy quyền choT đến UBND thị trấn L nộp đơn xin
đo đạc. Cán bộ địa chính nhìn thấy đơn, thấy số tờ số thửa trên đơn liền nói đây
là đất nghĩa địa, kêu bà T đem đơn về. Sau đó, bà T làm đơn khiếu nại gửi nhiều
nơi như: Thanh tra tỉnh, Thanh tra huyện, UBND tỉnh, UBND huyện, UBND th
trấn L. Sau đó T nhận được công văn trả lời phải khiếu nại UBND thị
trấn. Lúc đó cán bđịa chính UBND thị trấn tại thời điểm đó gọi T nói với
T “Nhà X cứ trên đất đi, vài năm sau chính sách thay đổi nếu làm
GCNQSDĐ được thì làm”, rồi cho T xem bản photo sổ mục năm 2011,
trên đó thể hiện diện tích đất X đang quản lý, sử dụng đất nghĩa địa rồi
thuyết phục bà T rút hồ sơ khiếu nại nên bà T đã rút hồ sơ khiếu nại.
Đến năm 2022, X lại y quyền cho T đi làm thủ tục đăng cấp
GCNQSDĐ cho bà. T đến bộ phận một cửa Văn phòng đăng đất đai
tỉnh Đồng Nai chi nhánh L để nộp hồ đăng cấp giấy nhưng bộ phận
một cửa hướng dẫn T về UBND thtrấn nộp đơn đề nghị đo đạc trước. Sau
3
đó lại đến UBND thị trấn để nộp đơn xin đo đạc, cán bộ địa chính nhận đơn xin
đo đạc không làm biên nhận. Khoảng 01 tháng sau, cán bộ địa chính trả lời
miệng là “Không được” rồi trả lại đơn cho bà T.
Sau đó, X nộp đơn khiếu nại UBND thị trấn về hành vi không tiếp
nhận đơn xin đo đạc. UBND thị trấn ban hành Văn bản số 100/UBND ngày
31/5/2022 về việc trả lời đơn của bà Nguyễn Thị X.
Bà Nguyễn Thị X đã khởi kiện Văn bản số 100/UBND ngày 31/5/2022 tại
Tòa án nhân dân huyện Long Thành. Đến ngày 17/7/2023, UBND thị trấn L ban
hành văn bản số 44/TB-UBND ngày 17/7/2023 thu hồi Văn bản số 100/UBND
ngày 31/5/2022 tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành. Sau đó, bà X đã rút đơn
khởi kiện vụ án hành chính và Tòa án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
Sau đó, vào ngày 26/7/2023, Nguyễn Thị X lại ủy quyền cho T đến
UBND thtrấn L nộp đơn xin đo đạc đề nghị UBND thị trấn L xác nhận
Nguyễn Thị X người đang quản lý, sử dụng diện tích đất 1.253m
2
thuộc thửa
đất số 09, tờ bản đồ số 82, địa chỉ tại tổ 35, khu C thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng
Nai, đX hợp đồng đo đạc làm thủ tục đăng cấp GCNQSDĐ đối
với thửa đất này.
Ngày 28/7/2023, cán bộ địa chính bộ phận tiếp nhận trả kết quả gọi
T đến lấy kết quả. Khi T đến thì được cán bộ địa chính giao cho 01 Phiếu
từ chối tiếp nhận giải quyết hồ số 01/BPTNKQ ngày 26/7/2023. Theo đó thể
hiện do không tiếp nhận, giải quyết hồ là: “Căn cứ sổ mục kê đất đai thị
trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai ban hành ngày 11/10/2011 thì thửa đất số 09, tờ
bản đồ số 82, thị trấn L mục đích sử dụng NTD (đất nghĩa trang, nghĩa địa
thuộc đất công)”.
Sau đó, Xuân khiếu nại UBND thị trấn L về việc không giải quyết hồ
đề nghị đo đạc cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82, thị
trấn L. Đến ngày 31/10/2023, Chủ tịch UBND thị trấn L hành Quyết định giải
quyết khiếu nại số 185/QĐ-UBND ngày 31/10/2023 về việc giải quyết khiếu nại
của bà Nguyễn Thị X.
Nhận thấy, Quyết định này đã xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
X, nên X khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Long Thành hủy bỏ
Quyết định giải quyết khiếu nại nêu trên với những căn cứ sau:
- Việc Chủ tịch UBND thị trấn L ban hành Quyết định số 185/QĐ-UBND
ngày 31/10/2023 chưa phù hợp, chưa đúng trình tự, thủ tục nhằm đảm bảo
thành phần hồ sơ để xét cấp GCNQSDĐ. Bởi lẽ, toàn bộ diện tích đất tại thửa số
9, tờ bản đồ số 82 do bà X người trực tiếp sinh sống trên đất quản sử
dụng, không bị hạn chế quyền sử dụng đất ở bất kỳ một quyết định, một văn bản
nào của Nhà nước, không nằm trong diện đất công, bản đồ hiện trạng thửa đất số
470/2023 do Văn phòng đăng đất đai tỉnh Đồng Nai chi nhánh L thực hiện
cũng thể hiện rất đất được quy hoạch chi tiết thửa số 9, tờ bản đồ số 82,
diện tích đất 1.253 m
2
là loại đất ODT+CLN.
4
- Thẩm quyền xem xét cấp GCNQSDĐ lần đầu là thẩm quyền của UBND
huyện, do Giám đốc Văn phòng đăng đất đai, Trưởng phòng Tài nguyên
Môi trường xem xét trình tự thành phần hồ thủ tục chuyển giao tham mưu
UBND huyện cấp GCNQSDĐ.
- Việc xác nhận X đang sử dụng thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82,
đồng thời xác nhận X phải người địa phương hay không trách nhiệm
của UBND thị trấn để X hợp đồng đo đạc với Văn phòng đăng đất đai
tỉnh Đồng Nai chi nhánh L đo đạc, đây sban đầu, chưa liên quan
đến việc cấp GCNQSDĐ.
- Việc thực hiện đo đạc, xác nhận quy hoạch sử dụng đất, hiện trạng s
dụng đất là trách nhiệm của Văn phòng đăng ký đất đai.
- Tại Quyết định công bố quy hoạch số 4628/QĐ-UBND ngày 22/12/2017
gần đây Quyết định số 5366/QĐ-UBND ngày 31/12/2021 của UBND tỉnh
Đồng Nai quy hoạch chi tiết thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82, diện tích 1.253
m
2
loại đất ODT + CLN.
Từ những sở trên, X cho rằng việc Chủ tịch UBND thị trấn L ban
hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 185/QĐ-UBND ngày 31/10/2023
xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của bà, nên yêu cầu khởi kiện yêu
cầu hủy Quyết định này.
* Trong quá trình tố tụng, người bị kiện Chủ tịch UBND thị trấn L ý
kiến trình bày:
Ngày 26/7/2023 Nguyễn Thị X ủy quyền cho Đoàn Thị Thu T nộp
đơn xin đo đạc đề nghị cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 82, tờ bản đồ số 09
thị trấn L. Ngoài đơn đnghị, T không cung cấp được giấy tờ, tài liệu chứng
minh nguồn gốc sử dụng đất làm cơ sở cho việc cấp giấy.
Việc UBND thị trấn L từ chối tiếp nhận hđăng cấp GCNQSDĐ
của X được thực hiện bằng “Phiếu từ chối tiếp nhận giải quyết hồ sơ” số
01/BPTNTKQ ngày 26/7/2023. Căn cứ pháp lý: căn cứ vào Sổ mục đất đai
thị trấn L, huyện T, tỉnh Đồng Nai do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đồng
Nai ban hành ngày 11/10/2011, thửa đất số 09, tờ bản đồ số 09, tbản đồ số 82
thị trấn L mục đích sử dụng NTD ất nghĩa trang, nghĩa địa thuộc đất
công).
Sau đó bà Nguyễn Thị X đã khiếu nại hành vi từ chối tiếp nhận giải quyết
hồ sơ. Ngày 11/8/2023, Chủ tịch UBND thị trấn L đã ban hành Quyết định số
124/QĐ-UBND ngày 11/8/2023 về việc xác minh nội dung khiếu nại. Ngày
23/10/2023, UBND thị trấn L tổ chức đối thoại với người khiếu nại báo kết
quả xác minh cho bà Đoàn Thị Thu T biết.
Ngày 31/10/2023, Chủ tịch UBND thị trấn L đã ban hành Quyết định giải
quyết khiếu nại số 185/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của
Nguyễn Thị X. Nội dung quyết định: Không công nhận toàn bnội dung đơn
khiếu nại.
5
Căn cứ ban hành Quyết định:
- Bản đồ địa chính tờ s29-3 (82) đo vẽ tháng 7/1998 được UBND tỉnh
Đồng Nai phê duyệt ngày 17/3/2022, loại đất theo bản đồ địa chính của thửa số
09 là NĐ.
- Bản đồ địa chính tờ số 82 thành lập năm 1998 chỉnh sửa sau đăng
năm 2006, loại đất theo bản đồ địa chính của thửa số 09 là NĐ.
- Sổ mục do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đồng Nai lập ngày
11/10/2011 ghi nhận thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82, mục đích sử dụng là NTD.
- Ngoài ra, ngày 08/3/2022 UBND thị trấn L phối hợp cùng đại diện
Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Long Thành, Đại diện VPĐK đất đai
tỉnh Đồng Nai chi nhánh L; Đại diện UBND thị trấn L; các chủ sử dụng đất lâu
năm tại vị trí nơi thửa số 09, tờ bản đồ s82, tiến hành làm việc, ghi nhận ý
kiến, xác minh nguồn gốc, hiện trạng sử dụng đất của Nguyễn Thị X tại thửa
đất số 09, tờ bản đồ số 82. Kết quả ghi nhận: Thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82
nguồn gốc đất là đất nghĩa địa, không đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ.
Từ những căn cứ trên, Chủ tịch UBND thị trấn L không đồng ý với yêu
cầu hủy Quyết định giải quyết khiếu nại số 185/QĐ-UBND về việc giải quyết
khiếu nại lần đầu của bà Nguyễn Thị X.
3. Trong quá trình tố tụng, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND
thị trấn L có ý kiến trình bày:
UBND thị trấn L thống nhất với lời trình bày của Chủ tịch UBND thị trấn
L. UBND thị trấn L cho rằng hành vi không xác nhận Nguyễn Thị X đang
quản sử dụng diện tích đất 1.253m
2
thuộc thửa đất số 09 tờ bản đồ số 82 thị
trấn L đúng quy định pháp luật, dựa trên những tài liệu, hồ về đất đai được
lưu trữ tại UBND thị trấn L thì đây đất nghĩa địa thuộc đất công, do UBND
thị trấn quản lý.
* Tại bản án thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024, Tòa
án nhân thị trấn L đã tuyên xử bác yêu cầu của khởi kiện tuyên hủy Quyết định
hành chính về việc giải quyết khiếu nại của người khởi kiện Nguyễn Thị X
đối với người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn L. Ngoài ra, bản án còn
tuyên về nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của đương sự.
* Tại đơn kháng cáo đề ngày 30/9/2024, Nguyễn Thị X đề nghị sửa
bản án thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của X do cấp sơ
thẩm trong quá trình giải quyết vụ án chỉ dựa vào một số chứng cứ do Chủ tịch
UBND thị trấn L cung cấp dấu hiệu dàn dựng, không khách quan, đây
chứng cứ quan trọng để làm sáng tnguồn gốc đất, thời gian sinh sống quản
sử dụng đất của người khởi kiện, trong khi người bị kiện vắng mặt trong suốt
quá trình giải quyết vụ án.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
6
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Tkhi thụ vụ án đến khi xét xử
tại phiên tòa, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Các đương sự thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định.
Về việc giải quyết vụ án: Chủ tịch UBND thị trấn L không đồng ý với
việc rút đơn khởi kiện của người khởi kiện nên kháng cáo vẫn được theo quy
định điểm a khoản 1 Điều 234 của Luật Tố tụng hành chính.
- Về hành vi hành chính và tính hợp pháp của hành vi hành chính có liên
quan Quyết định giải quyết khiếu nại bị khởi kiện: Theo các tài liệu, chứng cứ
do người bị kiện cung cấp và Tòa án thu thập được thể hiện diện tích đất 1.253
m
2
số thửa 09, tờ bản đồ số 82, địa chỉ tại tổ 35, khu C thị trấn L, huyện T
nguồn gốc đất nghĩa địa, đất công nên UBND thị trấn L không xác nhận.
- Về tính hợp pháp của Quyết định hành chính bị khởi kiện.
Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành: Được thực hiện phù hợp với
quy định tại Điều 17 Luật Khiếu nại 2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày
19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều biện pháp thi hành
Luật Khiếu nại 2011. Về thời hạn giải quyết khiếu nại là vượt quá thời hạn quy
định tại Điều 28 Luật khiếu nại 2011, tuy nhiên vi phạm này không ảnh hưởng
đến kết quả giải quyết khiếu nại.
Về nội dung: Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thị
trấn L giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính của UBND thị trấn L.
Hành vi hành chính của UBND thị trấn Lhợp pháp, đúng quy định của pháp
luật nên Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thị trấn L không
công nhận đơn khiếu nại của Nguyễn Thị X đối với hành vi hành chính của
UBND thị trấn L là có căn cứ. Đề nghị không chấp nhận kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được
xem xét tại phiên tòa kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thủ tục kháng cáo: Người khởi kiện gửi đơn kháng cáo trong thời
hạn và được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét theo trình tự phúc
thẩm.
[1.2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và người tham gia tố tụng: Cấp
thẩm xác định đúng và đầy đủ.
[1.3] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng: Tòa án triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai, các bên đương sự vắng mặt tại phiên tòa đơn đnghị xét xử
vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại
khoản 2 Điều 255 của Luật Tố tụng hành chính.
[1.4] Ngày 17/4/2025, Tòa án nhận được Đơn xin rút toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của người khởi kiện là bà Nguyễn Thị X. Ngày 22/4/2025, Tòa án ban
7
hành Thông báo số 523/TB-TA về việc người khởi kiện rút yêu cầu khởi kiện
cho người bị kiện. Tại văn bản số 145/UBND ngày 26/4/2025, người bị kiện
ý kiến không đồng ý với việc rút yêu cầu khởi kiện. Do vậy, căn cứ điểm a
khoản 1 Điều 234 của Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử không chấp
nhận việc rút đơn khởi kiện của người khởi kiện tiếp tục xét xử vụ án theo
trình tự phúc thẩm.
[2] Về kháng cáo:
[2.1] Diễn biến hành vi hành chính tính hợp pháp của hành vi hành
chính có liên quan Quyết định giải quyết khiếu nại bị khởi kiện:
Ngày 26/7/2023, Nguyễn Thị X nộp đơn xin đo đạc tại Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả của UBND thị trấn L để yêu cầu UBND thị trấn L xác nhận
việc X đang quản lý, sử dụng thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82 thị trấn L vào
đơn xin đo đạc. Mục đích xin xác nhận để X kết hợp đồng đo đạc lập
bản vẽ nhằm đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất.
UBND thị trấn L đã hành vi không thực hiện xác nhận theo yêu cầu của bà
X, thể hiện bằng Phiếu từ chối tiếp nhận giải quyết hồ sơ” của Bộ phận tiếp
nhận trả kết quả, với do: “Căn cứ sổ mục kê đất đai thị trấn L, huyện T,
tỉnh Đồng Nai ban hành ngày 11/10/2011 thì thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82,
thị trấn L mục đích sử dụng là NTD (đất nghĩa trang, nghĩa địa thuộc đất
công)”.
Theo hồ sơ, tài liệu lưu giữ tại UBND thị trấn L, thể hiện: Bản đồ địa
chính tờ số 29-3 (82) đo vẽ tháng 7/1998 được UBND tỉnh Đồng Nai phê duyệt
ngày 17/3/2002, loại đất theo bản đồ địa chính của thửa số 09 ; Bản đồ
địa chính tờ số 82 thành lập năm 1998 chỉnh sửa sau đăng m 2006, loại
đất theo bản đồ địa chính của thửa số 09 ; Sổ mục do Sở Tài nguyên
Môi trường tỉnh Đồng Nai lập ngày 11/10/2011 ghi nhận thửa đất số 09, t
bản đồ số 82, mục đích sdụng NTD. Ngoài ra, ngày 08/3/2022 UBND thị
trấn L phối hợp cùng đại diện Phòng Tài nguyên Môi trường huyện T,
VPĐK đất đai tỉnh Đồng Nai chi nhánh L, UBND thị trấn L các chủ sử dụng
đất lâu năm tại vị trí nơi có thửa số 09, tờ bản đồ số 82, tiến hành làm việc, ghi
nhận ý kiến, xác minh nguồn gốc, hiện trạng sử dụng đất của bà Nguyễn Thị X
tại thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82, kết quả ghi nhận thửa đất số 09, tờ bản đồ
số 82 nguồn gốc đất đất nghĩa địa, không đủ điều kiện cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, theo tài liệu, chứng cứ người khởi kiện
cung cấp và thông tin tại bản đồ hiện trạng thửa đất số 2343/2024 ngày
25/4/2024 thì thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82 thị trấn Long Thành theo bản đồ
địa chính thị trấn L, huyện T đo vẽ tháng 7/1998 được Trung tâm kỹ thuật địa
chính nhà đất Đồng Nai biên vđo chỉnh biến động hoàn thành tháng 6
năm 2016 là đất ODT+CLN.
Theo quy định tại Điều 11 Luật đất đai năm 2013 Điều 3 Nghị định số
43/2014/NĐ-CP, Tòa án cấp thẩm đã yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T
quan thẩm quyền xác định về loại đất. Tại văn bản số 7204/UBND-NC
8
ngày 25/6/2024, Ủy ban nhân dân huyện T đã căn cứ vào khoản 2 Điều 3 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP “2. Trường hợp sử dụng đất do lấn, chiếm, chuyển
mục đích sử dụng đất trái phép thì căn cứ vào nguồn gốc, quá trình quản lý, sử
dụng đất để xác định loại đất.”, xác định thửa đất số 09 tờ bản đồ số 82 thị trấn
L nguồn gốc đất nghĩa địa; căn cứ khoản 2 Điều 7 Luật đất đai năm 2013
thì đất thuộc sự quản của UBND thị trấn L. Quá trình giải quyết vụ án, đại
diện người khởi kiện cũng khai nhận khi bà X đến trên thửa đất số 09, tờ bản
đồ số 82 thị trấn L thì hiện trạng đất đất gò, nhiều mồ mả, người dân địa
phương chôn cất người đã khuất đây. Lời khai này của người khởi kiện
phù hợp với lời khai của những người dân sống lâu năm tại vị trí đất vviệc
đất nguồn gốc nghĩa địa. Tại thời điểm UBND thị trấn L xuống thực địa
để xác minh chụp ảnh vào tháng 3 năm 2022 thì trên đất còn tồn tại 06 ngôi
mộ. Theo lời T trình bày thì đến thời điểm tháng 4 năm 2022 những ngôi
mộ mới được di dời. Do đó, lời trình bày của UBND thị trấn L ý kiến cung
cấp thông tin của UBND huyện T xác định đây đất nghĩa địa do sự
khác biệt về loại đất trên tờ bản đồ địa chính thị trấn L, huyện T đo vtháng
7/1998 được Trung tâm kỹ thuật địa chính nhà đất Đồng Nai biên vẽ đo
chỉnh biến động hoàn thành tháng 6 năm 2016 là do “đơn vị thi công thực
hiện đo vẽ sai sót do không nhìn thấy mộ và không rà soát kỹ hiện trạng”
có cơ sở.
Các Biên lai thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp do người khởi kiện
cung cấp không ghi số tờ, số thửa đất. UBND thị trấn L cung cấp tài liệu thể
hiện biên lai thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp do Nguyễn Thị X giao
nộp là đóng cho các thửa 39, 25 tờ bản đồ số 75 thị trấn L. Mã số thuế trên biên
lai của bà Nguyễn Thị X nộp là 3600676268 tng khớp với mã số thuế trên sổ
bộ thuế của UBND thị trấn L. Tuy nhiên, trên sổ bthuế của UBND thị trấn L
thể hiện tên người nộp thuế Trần Thị X, qua xác minh tại Chi cục thuế
khu vực Long Thành Nhơn Trạch thì số thuế 3600676268 được cấp cho
Trần Thị X. Đây thiếu sót, nhầm lẫn của UBND thị trấn L trong việc xác
định người nộp thuế. Theo kết quả xác minh của Tòa án cấp thẩm tại Chi
cục thuế khu vực Long Thành Nhơn Trạch thì thửa đất số 09 tờ bản đồ số 82
không thông tin trên sổ thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Đối với các văn
bản xác nhận của công an huyện, công an thị trấn L bà X thường trú tại Tổ
35, khu C, thị trấn L, nhưng trên văn bản không xác định được nơi thường trú
của X phải tại thửa đất số 09, tờ bản đồ số 82 hay không. Tòa án cấp
thẩm và đại diện chính quyền địa phương đã đến nơi đăng ký thường trú của bà
Xuân tại tổ 35, khu C cán bộ địa chính xác nhận nơi đăng ký thường trú của
bà X thuộc thửa đất số 115, tờ bản đồ số 82 thị trấn L.
Như vậy, việc UBND thị trấn L dựa vào những thông tin, tài liệu về quản
đất đai tại địa phương, không thực hiện hành vi xác nhận Nguyễn Thị X
người đang quản lý, sdụng đất được thể hiện bằng Phiếu từ chối tiếp nhận
giải quyết hồ của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả phù hợp với quy định
của pháp luật.
9
[2.2] Về tính hợp pháp của Quyết định hành chính bị khởi kiện.
[2.2.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành: Ngày 03/8/2023,
UBND thị trấn L nhận được đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị X, ngày
06/8/2023, UBND thị trấn L thông báo thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu.
Sau đó, UBND thị trấn L ban hành Quyết định về việc xác minh nội dung
khiếu nại, tổ xác minh khiếu nại của UBND thị trấn L lập biên bản làm việc về
việc xác minh nội dung khiếu nại. Sau khi kết quả xác minh nội dung khiếu
nại, UBND thị trấn L đã tổ chức đối thoại với người khiếu nại. Ngày
31/10/2023, Chủ tịch UBND thị trấn L ban hành Quyết định giải quyết khiếu
nại số 185/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của Nguyễn Thị
X. Như vậy trình tự, thủ tục ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ
tịch UBND thị trấn L là phù hợp với quy định tại Điều 17 Luật Khiếu nại 2011;
Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều biện pháp thi hành Luật Khiếu nại 2011. Về thời hạn giải
quyết khiếu nại là vượt quá thời hạn quy định tại Điều 28 Luật khiếu nại 2011,
tuy nhiên vi phạm này không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết khiếu nại.
[2.2.2] Về nội dung: Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch
UBND thị trấn L giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính của UBND
thị trấn L. Như đã phân tích nhận định trên, hành vi hành chính của
UBND thị trấn L sở, phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó,
Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND thị trấn L không công
nhận đơn khiếu nại của Nguyễn Thị X đối với hành vi hành chính của
UBND thị trấn L là có căn cứ.
Tại phần kết quả xác minh nội dung khiếu nại, Chủ tịch UBND thị trấn L
viện dẫn quy định tại khoản 5, Điều 19, Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ để nhận định X không đủ điều kiện cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nên UBND thị trấn L tchối tiếp nhận giải
quyết chưa phù hợp vì X không nộp hồ xin cấp GCNQSDĐ, chỉ
nộp đơn xin xác nhận hiện trạng quản lý, sử dung đất, việc xét đủ điều kiện hay
không đủ điều kiện sử dụng đất sẽ do quan thẩm quyền thực hiện theo
quy định của pháp luật khi xét hồ sơ xin cấp GCNQSDĐ. Tuy nhiên, sai sót
này không ảnh hưởng đến bản chất kết quả giải quyết khiếu nại.
Từ nhận định trên thấy rằng cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà X
là có căn cứ nên không chấp nhận kháng cáo.
[3] Về chi phí tố tụng: Nguyễn Thị X phải chịu chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ, đo đạc là 2.799.000 đồng. Bà X đã nộp xong.
[4] Về án phí: Nguyễn Thị X người cao tuổi đơn xin miễn tạm
ứng án phí, án phí nên được miễn nộp án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham
gia phiên tòa bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp
nhận.
10
Vì các lẽ trên,
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính;
QUYẾT ĐỊNH:
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị X. Giữ nguyên bản án
thẩm số 03/2024/HC-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024 Quyết định sửa chữa, bổ
sung bản án số 26/2024/QĐ-TA ngày 15 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân
dân huyện Long Thành.
Căn cứ Luật Khiếu nại 2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày
19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều biện pháp thi hành
Luật Khiếu nại 2011; các Điều 23, khoản 2 Điều 7, Điều 11 của Luật Đất đai
2013; Điều 3 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai năm 2013; Căn cứ Nghị
định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ quy định về công tác
văn thư; Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ vthực
hiện chế một cửa, một cửa liên thông trong thủ tục hành chính; Thông
01/2018/TT-VPCP ngày 23/11/2018 của Văn phòng chính phủ Hướng dẫn thi
hành một số quy định của Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23 tháng 4 năm
2018 của Chính phủ vthực hiện chế một cửa, một cửa liên thông trong giải
quyết thủ tục hành chính; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vQuốc hội về án phí lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện tuyên hủy Quyết định hành chính về việc giải
quyết khiếu nại của người khởi kiện Nguyễn Thị X (Quyết định số 185/QĐ-
UBND ngày 31/10/2023) đối với người bị kiện Chủ tịch UBND thị trấn L.
2. Về chi phí tố tụng: Nguyễn Thị X phải chịu chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ, đo đạc là 2.799.000 đồng. Bà X đã nộp xong.
3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị X được miễn nộp án phí hành chính sơ thẩm
và phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND huyện Long Thành;
- Cục THADS tỉnh Đồng Nai;
- Chi cục THADS huyện Long Thành;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Trung Hưng
Tải về
Bản án số 04/2025/HC-PT Bản án số 04/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 04/2025/HC-PT Bản án số 04/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất