Bản án số 554/2025/HC-PT ngày 09/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 554/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 554/2025/HC-PT ngày 09/05/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 554/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/05/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 554/2025/HC-PT
Ngày 09 tháng 5 năm 2025
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Vương Minh Tâm
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Châu Loan - Thư Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Đỗ Phước Trung - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 5 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai ván thụ số: 982/2024/TLPT-HC
ngày 08 tháng 11 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số: 145/2024/HC-ST ngày 31 tháng 7 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3623/2024/QĐ-PT ngày
30 tháng 12 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tsố 34/2025/QĐ-PT ngày 15
tháng 01 năm 2025; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 49/2025/QĐ-
PT ngày 03 tháng 02 năm 2025, Quyết định hoãn phiên toà số: 87/2025/QĐ-PT
ngày 21 tháng 02 năm 2025; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
311/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng 02 năm 2024; Quyết định hoãn phiên toà số:
116/2025/QĐ-PT ngày 17 tháng 3 năm 2025; Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm số: 1211/2025/QĐ-PT ngày 18 tháng 4 năm 2025 giữa các đương sự:
- Người khi kin: Ông Mai Văn Đ, sinh năm 1956 (có mặt);
Địa ch: S B, p B, xã L, huyn N, Thành ph H Chí Minh.
Người đại din theo y quyn ca ông Mai Văn Đ:
2
+ Bà Võ Th Minh T, sinh năm 1978 (có mặt);
Địa ch: S B N, Phường G, qun P, Thành ph H Chí Minh;
Địa ch liên h: S C, đường T, Phường G, qun P, Thành ph H Chí Minh.
+ Ông Duy K, sinh năm 1996 (có mt);
Địa ch: T F, Q, thành ph Q, tnh Qung Ngãi;
Địa ch liên h: S C, đường T, Phường G, qun P, Thành ph H Chí Minh.
+ Ông Cao Hng N, sinh năm 1951 (có mặt);
Địa ch: T A, B, th trn K, huyn K, tnh Kiên Giang (theo Giy y quyn
ngày 31/3/2025).
Người bo v quyn và li ích hp pháp ca ông Đ: Ông Văn T1 là Lut
của Công ty L1, thuc Đoàn Luật sư Thành phố H; Địa ch: S B đưng T,
phưng P, Qun A, Thành ph H Chí Minh (có mt).
- Người b kin:
1. Ch tch y ban nhân dân huyn C, tnh Long An (vng mt);
2. y ban nhân dân huyn C, tnh Long An.
Người đại din theo y quyn: Ông Hunh Minh T2 - Chc v: Phó Ch tch
(có văn bản xin vng mt).
Người bo v quyn và li ích hp pháp của người b kin:
+ Ông Nguyễn Minh K1 - Chức vụ: Phó Trưởng phòng Phòng T4 (có mặt);
+ Ông Ngô Trung T3 - Chc vụ: Phó Giám đc Ban Qun d án đầu tư
xây dng huyn C (có mt);
+ Ông Võ Hoàng P - Chc v: Phó Ch tch y ban nhân dân L (có mt).
- Người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Lâm Th C, sinh năm 1958 (có mặt);
Địa ch: S B, p B, xã L, huyn N, Thành ph H Chí Minh.
Người đại din theo y quyn ca bà Lâm Th C:
+ Bà Võ Th Minh T, sinh năm 1978 (có mặt);
Địa ch: S B N, Phường G, qun P, Thành ph H Chí Minh;
Địa ch liên h: S C, đường T, Phường G, qun P, Thành ph H Chí Minh.
+ Ông Lê Duy K, sinh năm 1996 (có mặt);
Địa ch: T F, Q, thành ph Q, tnh Qung Ngãi;
Địa ch liên h: S C, đường T, Phường G, qun P, Thành ph H Chí Minh.
Người bo v quyn và li ích hp pháp ca bà C: Ông Văn T1 Lut
của Công ty L1, thuc Đoàn Luật sư Thành phố H; Địa ch: S B đường T,
phưng P, Qun A, Thành ph H Chí Minh (có mt).
3
2. Công ty C phn P2;
Địa ch: S C Đường s A, K2, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Người đại din theo pháp lut: Ông Phm Hoàng L - Chc v: Tng Giám
đốc (vng mt);
Người đại din theo y quyn: Ông Lê Hoài Â, sinh năm 1992 (có mặt);
Địa ch: S A đường N Khu H, phường T, Qun G, Thành ph H Chí Minh.
- Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Mai Văn Đ ; người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là bà Lâm Thị C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm, ni dung v án được tóm tắt như sau:
Ông Mai Văn Đ khi kin yêu cu Tòa án nhân dân tnh Long An hy Quyết
định s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch y ban nhân dân huyn
C, tnh Long An; hy Quyết định s 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y
ban nhân dân huyn C, tnh Long An; hy Quyết định s 8820/QĐ-UBND ngày
06/12/2019 ca y ban nhân dân huyn C, tnh Long An.
Buc y ban nhân dân huyn C, tnh Long An thc hin nhim v, công v
xác định li mc bồi thường thit hi giá tr quyn s dụng đt các khon h
tr cho ông Đ theo quy định ca pháp lut.
Lý do khi kin: Ông Mai Văn Đch s dng hợp pháp đối vi thửa đất
s 325, t bản đ s 07, ta lc ti p A, L, huyn C, tnh Long An, căn c
theo Giy chng nhn quyn s dụng đất s AK 386273, do y ban nhân n
huyn C, tnh Long An cp ngày 14/01/2008. Din tích thửa đất 7.222m
2
, mc
đích sử dng trng lúa. Thửa đất s 1224, t bản đồ s 06, ta lc ti p A, xã L,
huyn C, tnh Long An, căn cứ theo Giy chng nhn quyn s dụng đất s AI
649353, do y ban nhân dân huyn C, tnh Long An cp ngày 31/5/2007, din
tích thửa đất: 215m
2
, mục đích sử dụng đất ti nông thôn.
Ngày 06/12/2019, y ban nhân dân huyn C, tnh Long An ban hành Quyết
định s 8820/QĐ-UBND v vic thu hi toàn b hai thửa đất nêu trên ca ông Đ
(tng din tích hai thửa đt: 7.437m
2
) để gii phóng mt bng giao cho ng ty
C phn P2 thc hin d án khu dân cư.
Ngày 06/12/2019, y ban nhân dân huyn C, tnh Long An ban hành Quyết
định s 9464/QĐ-UBND v vic bồi thường thit hi gtr quyn s dụng đt
các khon h tr để xác định mc bồi thường thit hi giá tr quyn s dụng đất
và các khon h tr cho ông vi tng s tiền là 9.955.958.000 đồng.
Ngày 21/11/2023 Ch tch y ban nhân dân huyn C, tnh Long An ban hành
Quyết định s 5817/QĐ-UBND cưỡng chế thu hi 02 thửa đất nêu trên ca ông
Đ.
Ông Đ nhn thy các Quyết đnh hành chính nêu trên ca Ch tch y ban
nhân dân huyn C, tnh Long An y ban nhân dân huyn C, tnh Long An
trái pháp lut, c th như sau:
4
Đối vi Quyết định 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch y ban
nhân dân huyn C, tỉnh Long An cưng chế thu hi 02 thửa đất nêu trên, ti biên
bn hp do Ban Thc hiện cưỡng chế lp ngày 04/01/2024 không có thành phn
tham d đi din cho y ban Mt trn T quc Vit Nam L, thuyết phc. Do
đó, việc Ch tch y ban nhân dân huyn C, tnh Long An ban hành Quyết định
5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 cưỡng chế thu hồi đt ca ông Đ trong khi
chưa có sự vận động, thuyết phc ca y ban Mt trn T quc Vit Nam xã L
trái với quy định tại điểm a khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013.
Đối vi Quyết định s 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y ban nhân
dân huyn C, tỉnh Long An xác đnh mc bồi thường thit hi giá tr quyn s
dụng đất và các khon h tr cho ông Đ s tiền 9.955.958.000 đồng là chưa thỏa
đáng. Hai thửa đất nêu trên ca ông Đ hai mt tin, mt mt tiếp giáp đường
giao thông b mt mt tiếp giáp đường giao thông thy, tuy nhiên ti Quyết
định s 9464/QĐ-UBND nêu trên li ấn định các thửa đt ca ông Đ không tiếp
giáp đường giao thông dẫn đến vic áp mc giá bồi thường không đúng, thấp hơn
nhiu so vi giá th trường, trái vi nguyên tắc và phương pháp định giá đất quy
định tại điểm c khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai 2013.
Đối vi Quyết định s 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y ban nhân
dân huyn C, tnh Long An v vic thu hồi đất ca ông Đ, y ban nhân dân huyn
C, tnh Long An không thc hin vic gi thông báo thu hồi đt cho ông Đ đưc
biết trước chm nhất là 90 ngày đối với đt nông nghiệp và 180 ngày đi với đất
phi nông nghip, ông Đ không thy y ban nhân dân huyn C thông báo v vic
thu hồi đất trên phương tiện thông tin đại chúng trước khi ban hành Quyết định
s 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019. Do đó, Quyết định s 8820/QĐ-UBND này
đưc ban hành không đúng trình tự, th tục theo quy định ca Luật Đất đai.
Đối vi yêu cu bồi thường thit hi giá tr quyn s dụng đất và các khon
h tr cho ông Đ:
Đối vi thửa đất 1224, t bản đ s 06, y ban nhân dân huyn C áp giá bi
thưng ch với 4.439.000 đng/m
2
đt là không phù hp, giá tr trên th trường
ca thửa đất này rất cao đến vài chc triu/m
2
(t 25 triệu đồng/m
2
tr lên), nhưng
ông Đ ch mun yêu cu bồi thường mức 14.000.000 đồng/m
2
. Thửa đất này
din tích 215m
2
, do đó tổng s tiền ông đ ngh phi bồi thường khi thu hi tha
đất này phải là: 14.000.000 đồng/m
2
x 215m
2
= 3.010.000.000 đồng.
Đối vi thửa đất 325 cần xác định gbồi thường khi thu hi vi mc
8.500.000 đồng/m
2
; thửa đất 325 có din tích 7.222m
2
thì s tin bồi thường phi
là: 8.500.000 đồng/m
2
x 7.222m
2
= 61.387.000.000 đồng.
Như vy, y ban nhân dân huyn C phi bồi thưng khi thu hi toàn b tha
đất s 325, t bản đồ s 07 và thửa đất s 1224, t bản đ s 06, cùng địa ch: p
A, xã L, huyn C, tnh Long An ca ông Đ vi tng s tiền là: 3.010.000.000 đng
(thửa 1224) + 61.387.000.000 đồng (thửa 325) = 64.397.000.000 đồng.
Ngoài ra, y ban nhân dân huyn C còn phi chu lãi chm tr theo mc lãi
suất quy đnh 0,03%/ngày trên s tin phi bồi thường cho ông Đ nêu trên, thi
5
gian chm tr t ngày 06/01/2020 (hết 30 ngày k t ngày 06/12/2019 ngày có
Quyết định s 8820/QĐ-UBND v vic thu hồi đất) tạm tính đến ngày 27/6/2024
1.634 ngày, c th là: 64.397.000.000 đồng x 0,03%/ngày x 1.634 ngày chm
tr = 31.567.409.400 đồng.
Vì vy, ông Đ đề ngh buc y ban nhân dân huyn C phải xác định s tin
bồi thường khi thu hi toàn b din ch thửa đất 1224, t bản đồ s 06 là:
3.010.000.000 đng và thửa đất s 325, t bản đồ s 07 là 61.387.000.000 đồng,
thanh toán s tin chm tr tạm tính đến ngày 27/6/2024 là 31.567.409.400 đồng,
tng cộng là 95.964.409.400 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm,
Luật sư bảo v quyn và li ích cho ông Đ trình bày: Yêu cu khi kin ca
ông Đ là có căn cứ vi nhng lý do sau:
Trình t ban hành Quyết định thu hồi đất s 8820/QĐ-UBND ngày
06/12/2019 ca y ban nhân dân huyn C không đúng trình tự theo quy định ti
khoản 1 Điều 67, điểm a khoản 1 Điều 69 Luật Đất đai 2013.
Việc định giá đất để ra Quyết định s 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019
không đảm bo nguyên tắc theo điểm c khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai 2013,
không t chc ly ý kiến của người dân, áp giá bồi thưng không phù hp, tha
đất 325 ca ông Đ tiếp giáp đường giao thông.
Đối vi Quyết định cưỡng chế s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 vi phm
quy định ti khoản 1 Điu 67 Luật Đất đai 2013, biên bn vận động không
thành viên là Mt trn T quc cp xã tham gia, trái với quy đnh tại điểm a khon
2 Điều 71 Luật Đất đai 2013.
T các căn cứ trên đề ngh Hội đồng xét x chp nhn toàn b yêu cu khi
kin ca ông Đ, hy các quyết định hành chính nêu trên.
Tại Văn bản số 2960/UBND-NC ngày 04/06/2024 của người bị kiện Ủy
ban nhân dân huyện C, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C trình bày nội dung:
Trường hợp ông Mai Văn Đ có diện tích đất thu hồi thuộc dự án khu dân cư
là 7.437m
2
(trong đó: Đất là 215m
2
và đất trồng lúa là 7.222m
2
). Theo phương
án bồi thường, hỗ trợ tái định cư được phê duyệt, ông Đ được bồi thường với
tổng số tiền 11.455.325.275 đồng (bao gồm tiền bồi thường 9.955.958.000 đồng
tiền chậm chi trả bồi thường là 1.499.367.275 đồng), không thuộc đối tượng
tái định cư.
Ngày 28/5/2013, Ủy ban nhân dân huyện B Thông báo số 155/TB-UBND về
việc thu hồi đất để giao cho Công ty Cổ phần Đ1 đầu tư dự án khu dân cư tại
L, huyện C, tỉnh Long An.
Ngày 08/6/2013, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện phối hợp với các ngành
chuyên môn huyện, Ủy ban nhân dân xã L, chủ đầu tư tchức công bố thỏa thuận
địa điểm đầuthông báo thu hồi đất thuộc khu vực đất Nhà nước thu hồi để
xây dựng khu dân do Công ty Cổ phần Đ1 tại xã L, huyện C. Tuy nhiên, ông
Mai Văn Đ không đến dự (STT.76). Cùng ngày, Trung tâm Phát triển quỹ đất
6
huyện đã lập thủ tục niêm yết ng khai thông báo thu hồi đất tại trụ sở Ủy ban
nhân dân xã L.
Ngày 22/6/2013, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện phối hợp với các ngành
chuyên môn huyện, Ủy ban nhân dân xã L, chủ đầu tư tchức công bố thỏa thuận
địa điểm đầuthông báo thu hồi đất thuộc khu vực đất Nhà nước thu hồi để
xây dựng khu dân cư do Công ty Cổ phần Đ1 tại xã L, huyện C (lần 2). Theo đó,
Lâm Thị C (vợ ông Mai Văn Đ) đến dự thay và ký nhận thông báo thu hồi đất
(STT.43).
Ngày 28/3/2014, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện phối hợp với Ủy ban
nhân dân L chủ đầu thực hiện kiểm đất đai các tài sản trên đất trong
phạm vi giải tỏa đối với ông Mai Văn Đ để thực hiện dự án khu dân cư do Công
ty Cổ phần Đ1 đầu tại L. Theo đó, trường hợp ông Mai Văn Đ thửa đất
số 1224, tờ bản đồ số 06, diện tích 215m
2
, mục đích sử dụng đất tại nông thôn
thửa đất số 325, tờ bản đồ số 07, diện tích 7.222m
2
, mục đích sử dụng đất trồng
lúa, đất cùng tọa lạc tại xã L ảnh hưởng; trên đất không có công trình, nhà ở; ông
Mai Văn Đ có đến tham dự, thống nhất số liệu kiểm kê là đúng và ký tên tại biên
bản.
Ngày 31/10/2019, Ban Q với các ngành chuyên môn huyện, Ủy ban nhân
dân xã L, chủ đầu tư tổ chức công bố phương án dự kiến bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư của dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L. Cùng ngày
Ban Q thủ tục niêm yết phương án dự kiến tại trụ sở Ủy ban nhân dân L, trụ sở
Ấp A (nhà ông Phạm Hồng X). Tuy nhiên, ông Mai Văn Đ không đến dự.
Ngày 03/12/2019, Ủy ban nhân dân tỉnh B Quyết định số 4563/QĐ-UBND
về việc phê duyệt hệ số điều chỉnh giá đất bồi thường các chính sách bồi
thường, hỗ trợ đề giải phóng mặt bằng thực hiện dự án khu dân do Công ty Cổ
phần P2 làm chủ đầu tư trên địa bàn xã L, huyện C.
Ngày 06/12/2019, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 8802/QĐ-UBND
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư dự án khu dân
do ng ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C.
Ngày 06/12/2019, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định 8820/QĐ-UBND
về việc thu hồi đất của hộ ông (bà) Mai Văn Đ để giải phóng mặt bằng thực hiện
dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C, tỉnh Long An.
Theo đó, thu hồi tổng diện tích diện tích 215m
2
đất tại nông thôn thửa đất số
1224, tờ bản đồ số 06 và 7.222m
2
đất trồng lúa thửa đất số 325, tờ bản đồ số 07,
đất cùng tọa lạc tại xã L.
Ngày 06/12/2019, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 9464/QĐ-UBND
về việc bồi thường thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất cùng các khoản hỗ trợ thuộc
khu vực đất Nhà nước thu hồi để giao cho Công ty Cổ phần P2 đầu tư dự án khu
dân tại L, huyện C. Theo đó, hộ ông (bà) Mai Văn Đ được bồi thường, hỗ
trợ với tổng số tiền là 9.955.958.000 đồng; không đủ điều kiện tái định cư.
Ngày 13/12/2019, Ban Q với các ngành chuyên môn huyện, Ủy ban nhân
dân L, chủ đầu tổ chức công bố Quyết định phê duyệt phương án bồi thường,
7
hỗ trợ tái định cư; Quyết định thu hồi đất và Quyết định bồi thường thiệt hại
giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất các khoản hỗ trợ đối với hộ
gia đình, cá nhân thuộc dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L,
huyện C. Tuy nhiên, ông Mai Văn Đ không đến dự (STT.74). Cùng ngày, Ban Q
lập thủ tục niêm yết Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái
định cư; Quyết định bồi thường và Quyết định thu hồi đất tại trụ sở Ủy ban nhân
dân xã L và trụ sở Ấp A, xã L.
Ngày 10/03/2020, ông Mai n Đ đến Ban Q ký nhận Quyết định thu hồi
đất số 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 và Quyết định bồi thường số 9464/QĐ-
UBND ngày 06/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện C (STT.04).
Ngày 06/8/2020, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 4085/QĐ-UBND
về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ i định
cư dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại L, huyện C, tỉnh Long
An.
Ngày 13/10/2020, Ban Q với các ngành chuyên môn huyện, Ủy ban nhân
dân xã L, chủ đầu để tổ chức công bố niêm yết công khai Quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư, công bố trao Quyết định bồi
thường, Quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân thuộc dự án khu dân
do Công ty Cổ phần P2 đầu tại L, huyện C (lần 2). Tuy nhiên, ông (bà)
Mai Văn Đ không đến dự nhận quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường
(STT.31).
Ngày 21/5/2021, Ban Q đã lập thủ tục gửi số tiền bồi thường, hỗ trợ của ông
Mai Văn Đ là 9.955.958.000 đồng vào tài khoản tạm giữ Kho bạc Nhà nước C2.
Ngày 22/6/2021, Ban Q Thông báo số 2234/TB-BQLDAĐTXD về việc
gửi tiền bồi thường, hỗ trợ vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước C2 n
giao mặt bằng đối với ông Mai Văn Đ.
Do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, Ban Q không mời ông
Mai Văn Đ để công bố và trao thông báo gửi tiền bồi thường, hỗ trợ vào tài khoản
tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước C2 và bàn giao mặt bằng đối với ông Mai Văn Đ.
Ngày 30/6/2021, Ban Q với Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
L niêm yết Thông báo số 2234/TB-BQLDAĐTXD ngày 22/6/2021 vviệc gửi
tiền bồi thường, hỗ trợ vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước C2 bàn
giao mặt bằng đối với ông Mai Văn Đ tại trụ sở UBND xã L và trụ sở Ấp A.
Ngày 08/02/2023, Ban Q đã lập thủ tục gửi số tiền chậm chi trả của ông Mai
Văn Đ là 1.499.367.275 đồng vào tài khoản tạm giữ Kho bạc Nhà nước C2.
Ngày 13/02/2023, Ban Q Thông báo số 341/TB-BQLDAĐTXD vviệc
gửi tiền chậm chi trả bồi thường vào tài khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước C2
và bàn giao mặt bằng đối với ông Mai Văn Đ thuộc dự án khu dân cư do Công ty
Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C.
Ngày 17/02/2023, Ban Q với Ủy ban nhân dân L, Chủ đầu mời ông
Mai Văn Đ đến để công bố trao Thông báo số 341/TB-BQLDAĐTXD ngày
8
13/02/2023 nêu trên. Tuy nhiên, ông Mai Văn Đ không đến dự. Cùng ngày Ban
Q lập thủ tục niêm yết thông báo nêu trên tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã L và trụ
sở Ấp A, xã L.
Ngày 24/02/2023, Ban Q với Ủy ban nhân dân L, Chủ đầu mời đại diện
ông Mai Văn Đ đến để công btrao Thông báo số 2234/TB-BQLDAĐTXD
ngày 22/6/2021 nêu trên. Theo đó, Lâm Thị C (vợ ông Đ) ông Mai Văn B
(con ông Đ) dự họp nhưng không đồng ý nhận thông báo. Cùng ngày, Ban Q
lập thủ tục niêm yết thông báo nêu trên tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã L và trụ sở
Ấp A, xã L.
Ngày 02/3/2023, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 860/QĐ-UBND
về việc điều chỉnh Quyết định số 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của UBND
huyện C. Theo đó, điều chỉnh tên chủ sử dụng đất từ hộ ông (bà) Mai Văn Đ thành
ông Mai Văn Đ.
Ngày 21/3/2023, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 1135/QĐ-UBND
về việc điều chỉnh Quyết định số 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của UBND
huyện C. Theo đó, điều chỉnh tên chủ sử dụng đất thộ ông (bà) Mai Văn Đ thành
ông (bà) Mai Văn Đ.
Ngày 27/3/2023, Ban Q với Ủy ban nhân dân L Chủ đầu mời ông
Mai Văn Đ công bố Quyết định số 860/QĐ-UBND ngày 02/3/2023 Quyết định
số 1135/QĐ-UBND ngày 21/3/2023 của Ủy ban nhân dân huyện C. Theo đó, ông
Mai Văn B (con ông Đ) Lâm Thị C (vợ ông Đ) tham dự họp nhưng không
đồng ý nhận Quyết định, không tên vào biên bản họp. Cùng ngày, Ban Q thủ
tục niêm yết các Quyết định trên tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã L và trụ sở Ấp A.
Kết quả tiếp xúc, vận động và bàn giao mặt bằng:
Theo phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được phê duyệt, ông Mai
Văn Đ được bồi thường, h trợ với tổng số tiền 9.955.958.000 đồng
1.499.367.275 đồng tiền chậm chi trả; không thuộc đối tượng hỗ trợ tái định cư.
Đến nay, qua nhiều lần tiếp xúc, vận động, ông Mai Văn Đ chưa đồng ý nhận tiền
bồi thường, (các ban, ngành UBND L đã mời tiếp xúc, vận động tổng 09
lần nhưng ông Đ không đến tham dự, chỉ có ông Mai Văn B con ông Đ đến dự 05
lần mời), cụ thể:
Ngày 04/6/2020, Ủy ban nhân dân L phối hợp với Ban Q Chủ đầu
tổ chức vận động nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thuộc dự án khu dân cư do Công ty
Cổ phần P2 làm chủ đầu tư trên địa bàn L. Tuy nhiên, ông Mai Văn Đ không
đến dự, không rõ lý do.
Ngày 08/01/2021, Ủy ban nhân dân L phối hợp với các ngành chuyên
môn, Ban Q chủ đầu tổ chức vận động nhận tiền bồi thường, hỗ trợ bàn
giao mặt bằng thuộc dự án khu dân cư dong ty Cổ phần P2 làm chủ đầu tư trên
địa bàn xã L. Tuy nhiên, ông Mai Văn Đ không đến dự, không rõ lý do.
Ngày 28/01/2021, Ủy ban nhân dân xã L phối hợp với Ban Q và chủ đầu tư
tổ chức vận động hộ ông Mai Văn Đ nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt
9
bằng thuộc dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 làm chủ đầu tư trên địa bàn
xã L. Theo đó, ông Mai Văn B là con ông Mai Văn Đ đại diện đến tham dự và có
ý kiến gia đình đã biết Công ty Cổ phần P2 thực hiện dự án khu dân cư tại L,
đã nhận được các quyết định của Ủy ban nhân dân huyện vphần đất của mình,
đồng thời ông Mai Văn B ý kiến chưa quyết định nhận tiền bồi thường đề ngh
xem xét lại đơn giá bồi thường, gia đình sẽ bàn bạc lại và sẽ có ý kiến cụ thể.
Ngày 15/12/2022, Ban Q với Ủy ban nhân dân L chủ đầu mời ông
Mai Văn Đ đến để tiếp xúc, vận động nhận tiền bồi thường, hỗ trợ bàn giao
mặt bằng để thực hiện dự án khu dân do Công ty Cổ phần P2 làm chủ đầu
trên địa bàn L. Theo đó, ông Mai Văn B con ông Mai Văn Đ đại diện đến
tham dự. Tại buổi tiếp xúc, vận động đại diện Công ty có ý kiến nếu hộ ông Mai
Văn Đ đồng ý nhận tiền theo phương án, Công ty thống nhất hỗ trợ ngoài phương
án đối với hộ ông Mai Văn Đ là 2.230.000.000 đồng, đề nghị gia đình sớm nhận
tiền và bàn giao mặt bằng để chủ đầu tư thực hiện dự án. Về phía ông Mai Văn B
có ý kiến “do ông Mai Văn Đ đã lớn tuổi nên cử tôi dự họp thay và truyền đạt lại
ý kiến của cha tôi là ông Mai Văn Đ. Đơn giá bồi thường quá thấp, tôi không thể
mua đất chỗ khác được nên gia đình tôi chưa đồng ý nhận tiền”.
Ngày 23/02/2023, Ủy ban nhân dân L Báo cáo số 191/BC-UBND về
quá trình thu hồi đất, kết quả vận động thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng
hộ dân đất thu hồi trong dự án khu dân do Công ty Cổ phần P2 đầu tư,
trường hợp của ông Mai Văn Đ.
Ngày 27/5/2023, Ủy ban nhân dân huyện C phối hợp với các ngành chuyên
môn huyện, Ủy ban nhân dân xã L và chủ đầu tư mời ông Mai Văn Đ đến để tiếp
xúc, vận động nhận tiền bồi thường, hỗ trvà bàn giao mặt bằng thuộc dự án khu
dân cư do Công ty Cổ phần P2 làm chủ đầu tư trên địa bàn xã L. Tuy nhiên, ông
Mai Văn Đ không đến dự, không rõ lý do.
Ngày 17/6/2023, Ủy ban nhân dân L phối hợp với Ban Quản dán Đầu
tư xây dựng, các ngành xã và Chủ đầu tư mời ông Mai Văn Đ tiếp xúc vận động
nhận tiền bồi thường, hỗ trợ, bàn giao đất, ông Mai Văn Đ đã nhận giấy mời nhưng
không đến dự, chỉ Lâm Thị C (vợ ông Đ) ông Mai Văn B (con ông Đ)
tham dự. Tại cuộc họp Lâm Thị C, ông Mai Văn B thông tin các thửa đất do
ông Mai Văn Đ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã lập thủ tục
ủy quyền cho ông Mai Văn B được toàn quyền quyết định, ông Mai Văn B ý
kiến sẽ cung cấp giấy ủy quyền khi cần thiết.
Trình tự ban hành Quyết định cưỡng chế thu hồi đất:
Ngày 06/12/2019, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 8820/QĐ-UBND
về việc thu hồi đất của hộ ông (bà) Mai Văn Đ để giải phóng mặt bằng thực hiện
dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C, tỉnh Long An.
Ngày 02/3/2023, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 860/QĐ-UBND
về việc điều chỉnh Quyết định số 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của UBND
huyện C. Theo đó, điều chỉnh tên chủ sử dụng đất thộ ông (bà) Mai Văn Đ thành
ông Mai Văn Đ.
10
Qua quá trình tiếp xúc, vận động nhiều lần ông Mai Văn Đ vẫn không đồng
ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ bàn giao đất. Nên, ngày 23/02/2023, Ủy ban
nhân dân L có Báo cáo số 191/BC-UBND về quá trình thu hồi đất, kết quả vận
động thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng hộ dân đất thu hồi trong dự án
khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư, có trường hợp của ông Mai Văn Đ.
Ngày 23/02/2023, Ban Q Công văn số 516/BQLDAĐTXD-PTQĐ về việc
tham mưu Ủy ban nhân dân huyện lập thủ tục cưỡng chế thu hồi đất đối với các
trường hợp chưa đồng ý nhận tiền bồi thường, hỗ trợ thuộc dự án khu dân tại
xã L.
Ngày 19/10/2023, Ban Q phối hợp với các ngành, Ủy ban nhân dân xã L đến
nhà ông Mai Văn Đ trao lại Quyết định thu hồi, Quyết định bồi thường và thông
báo gửi tiền bồi thường, tiền chậm chi trả cho ông Mai Văn Đ nhưng ông Mai
Văn Đ không đồng ý nhận.
Sau nhiều lần mời tiếp xúc, vận động (tổng 09 lần) nhưng ông Mai Văn Đ
không đến tham dự, chỉ ông Mai Văn B con ông Mai Văn Đ đến d05 lần:
ngày 04/6/2020, ngày 08/01/2021, ngày 28/01/2021, ngày 15/12/2022 ngày
17/6/2023, nhưng ông Mai Văn Đ không đồng ý nhận tiền bồi thường cũng
không đưa ra mức giá bồi thường. Ngày 21/11/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện B Quyết định số 5817/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với
ông Mai Văn Đ. Ngày 27/11/2023, Phòng T4 đã phối hợp cùng các ban, ngành
huyện, Ủy ban nhân dân xã L mời ông Mai Văn Đ đến để công bố và trao Quyết
định cưỡng chế thu hồi đất, ông Mai Văn Đ có tham dự họp, nghe đọc thông báo
nhưng không đồng ý nhận Quyết định 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 của
UBND huyện, không ký tên vào biên bản và bỏ về.
Ngày 21/11/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định s
5818/QĐ-UBND về việc thành lập Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối với
ông Mai Văn Đ.
Ngày 04/01/2024, Ban thực hiện cưỡng chế thu hồi đất tiếp tục tổ chức tiếp
xúc, vận động ông Mai Văn Đ nhận tiền bồi thường bàn giao đất. Theo đó, ông
Mai Văn B được ông Mai Văn Đ ủy quyền bà Lâm Thị C (vợ ông Mai Văn Đ)
có đến dự.
Ngày 01/4/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Thông báo số
1598/TB-UBND về thời gian thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Mai
Văn Đ. Theo đó, thời gian cưỡng chế được ấn định vào lúc 7 giờ 30 phút, ngày
19/4/2024.
Ngày 04/4/2024, Phòng T4, phối hợp Ban Q, y ban nhân dân xã L đã mời
ông Mai Văn Đ đến công bố và trao Thông báo số 1598/TB-UBND ngày
01/4/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V thời gian thực hiện cưỡng chế
thu hồi đất đối với ông Mai Văn Đ (vào lúc 07h30 ngày 19/4/2024 thực hiện cưỡng
chế thu hồi đất). Theo đó, ông Mai Văn Đ có đến dự, nghe đọc thông qua và đồng
ý nhận Thông báo số 1598/TB-UBND ngày 01/4/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân
11
dân huyện N không đồng ý ký tên trong biên bản; Phòng T4, Ủy ban nhân dân
đã lập thủ tục niêm yết thông báo theo quy định.
Ngày 16/4/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Long An ban hành Quyết định số
01/2024/QĐ-BPKCTT về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với
trường hợp của ông Mai Văn Đ.
Ngày 17/4/2024, Ủy ban nhân dân huyện C ban hành Thông báo số 1969/TB-
UBND về việc tạm đình chỉ việc thi hành Quyết định số 5817/QĐ-UBND ngày
21/11/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện về việc cưỡng chế thu hồi đất
đối với ông Mai Văn Đ.
Ý kiến của Ủy ban nhân dân huyện C và Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C
đối với yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn Đ:
Việc Ủy ban nhân dân huyện ban hành các quyết định thu hồi đất, quyết định
bồi thường, hỗ trợ, tái định thực hiện theo đúng quy định tại Điều 62 Luật
Đất đai năm 2013; việc Chtịch Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định cưỡng chế
thu hồi đất đối với trường hợp của ông Mai Văn Đ đúng theo quy định pháp
luật (khoản 2 Điều 11 Thông số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ
T5 khoản 1, Điều 6, Quyết định 35/2016/QĐ-UBND ngày 07/7/2016 của
UBND tỉnh L); đơn giá bồi thường được thực hiện trên sở Quyết định số
4563/QĐ-UBND ngày 03/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt
hệ số điều chỉnh giá đất bồi thường c chính sách bồi thường, hỗ trợ để giải
phóng mặt bằng thực hiện dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 làm chủ đầu
trên địa bàn L, huyện C và Quyết định số 8802/QĐ-UBND ngày 06/12/2019
của Ủy ban nhân dân huyện về việc phê duyệt phương án bồi thường, htrợ và
tái định cư dự án khu dân do Công ty Cổ phần P2 đầu tại xã L, huyện C. Do
đó, ông Mai Văn Đ đề nghị buộc Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An thực
hiện nhiệm vụ, công vụ xác định lại mức bồi thường thiệt hại giá trị quyền sử
dụng đất các khoản hỗ trợ cho ông Mai Văn Đ theo quy định của pháp luật
không sở để xem xét, giải quyết. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An
bác toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn Đ, giữ nguyên Quyết
định số 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc
thu hồi đất của hộ Ông (Bà) để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án khu dân
do Công ty Cổ phần P2 đầu tại xã L, huyện C, tỉnh Long An; Quyết định số
9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc bồi
thường thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất và các khoản hỗ trợ thuộc khu vực đất
Nhà nước thu hồi Quyết định s5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân huyện C về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Mai Văn
Đ và bác nội dung buộc Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Long An thực hiện nhiệm
vụ, công vụ xác định lại mức bồi thường thiệt hại giá trị quyền sdụng đất và các
khoản hỗ trợ cho ông Mai Văn Đ theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lâm Thị C trình bày: Bà là vợ
của ông Mai Văn Đ đồng sử dụng các thửa đất trên, thống nhất với lời
trình bày của ông Đ.
12
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần P2 trình bày:
Nếu người khởi kiện khởi kiện tại Tòa án thì công ty không hỗ trợ bồi thường gì
thêm do đã có quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C. Đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án hành chính thẩm số 145/2024/HC-ST ngày 31/7/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn Đ về việc
yêu cầu:
- Hy Quyết định s 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y ban nhân
dân huyn C, tnh Long An v vic thu hồi đất.
- Hy Quyết định s 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y ban nhân
dân huyn C, tnh Long An v vic bồi thường, h tr khi thu hồi đất.
- Hy Quyết định 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch y ban
nhân dân huyn C v việc cưỡng chế thu hồi đất
- Buc UBND huyn C, tnh Long An thc hin nhim v, công v xác định
li mc bồi thường thit hi giá tr quyn s dụng đất và các khon h tr cho bà
Đ theo quy định ca pháp lut.
2. Hy Quyết định áp dng bin pháp khn cp tm thời 01/2024/QĐ-
BPKCTT ngày 16 tháng 4 năm 2024 tạm đình chỉ vic thi hành quyết định hành
chính là Quyết định s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch y ban
nhân dân huyn C, tnh Long An v việc cưỡng chế thu hồi đất.
3. Các Quyết định hành chính liên quan s 860/QĐ-UBND ngày
02/3/2023; Quyết định 1135/QĐ-UBND ngày 21/3/2023 ca y ban nhân dân
huyn C, tỉnh Long An là đúng quy định ca pháp lut.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng
cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 12/8/2024, ông Mai Văn Đ Lâm Thị C đơn kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm và đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Những người đại diện theo ủy quyền của ông Mai Văn Đ Lâm Thị C
thống nhất cử ông Lê Duy K trình bày. Ông Đ yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, bà C
đề nghị hủy bản án sơ thẩm, vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện
vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông Mai Văn Đ và bà Lâm Thị C
ông Văn T1 đề nghị mức bồi thường 20 tỷ đồng. Toà án tạo điều kiện cho
các bên thương lượng tiếp, nếu được thì ông Đ rút đơn khởi kiện, đơn kháng cáo,
đình chỉ hồ sơ. Căn cứ biên bản tiếp xúc vận động năm 2024 thì tiền bồi thường
9.995.958.000 đồng, tiền hỗ trợ 4.471.034.500 đồng, tiền chậm chi trả t
ngày 13/01/2020 đến ngày 09/5/2025 5.803.327.918 đồng, tổng cộng
19.033.933.143 đồng.
13
Ông Lê Duy K trình bày: Đồng ý với ý kiến của Luật sư.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện ông Nguyễn
Minh K1 trình bày: Ủy ban khẳng định việc thu hồi đất đảm bảo đúng quy định
pháp luật. Kiến nghị Toà án xử đúng pháp luật. Về phương án thương lượng thì
nhà đầu tư và gia đình thương lượng. Ủy ban thực hiện hỗ trợ theo quy định pháp
luật. Nhà đầu hỗ trợ, mức đề xuất hỗ trợ, gia đình đề xuất còn cao nên gia đình
cân nhắc.
Ông Lê Hoài  trình bày: Công ty không hỗ trợ gì thêm, đề nghị Toà án giải
quyết theo quy định pháp luật.
Ông Lê Duy K đại diện cho ông Mai Văn Đ trình bày: Quyết định của người
bị kiện vi phạm pháp luật, vi phạm về trình tthủ tục. Trước khi có quyết định
thu hồi thì phải thông báo cho người có đất thu hồi, gửi từng người, phổ biến cho
người dân. Ủy ban không gửi thông báo cho ông Đ trước khi ban hành quyết định
thu hồi đất. Ông Đ không nhận được thông báo thu hồi đất thì phải thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết công khai. Không có tài liệu chứng
minh, không biên bản niêm yết tại địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư,
có biên bản niêm yết tại xã. Phương án bồi thường, ông Đ không nhận được giấy
mời, không có tài liệu gửi giấy mời cho ông Đ. Tổ chức đối thoại khi không có ý
kiến đồng ý bồi thường, rất nhiều ý kiến không đồng ý. Ủy ban không cung
cấp tài liệu tổ chức đối thoại với người không đồng ý. Quyết định thu hồi đất
bồi thường không đúng. Quyết định cưỡng chế cũng không đúng. Giá trị bồi
thường thấp hơn giá thị trường. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án thẩm theo
hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đ.
Ông Lê Duy K đại diện cho bà Lâm Thị C trình bày: Đề nghị hủy bản án
thẩm. Toà án cấp thẩm không tiến hành phiên họp công khai chứng cứ, vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Ngày 25/4/2024, Tán không tiến hành được phiên
họp thì phải triệu tập phiên họp công khai chứng cứ tiếp theo nhưng Toà án lại
ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Toà án xét xngày 26/7/2024, đương sự bổ sung tài liệu chứng cứ nhưng
không công khai tài liệu bổ sung này. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án
thẩm, giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện ông Nguyễn
Minh K1 trình bày: Áp dụng quy định của Luật Đất đai năm 2013, dẫn chứng của
Luật cho rằng ban hành thông báo cho từng hộ không đúng. Ông Đ không
nhận giấy mời. Ủy ban đã cung cấp chứng cứ cho Toà. Lập biên bản vắng mặt,
niêm yết vắng mặt ông Đ theo quy định. Về ý kiến giá bồi thường thấp thì Nhà
nước thu hồi thời điểm nào thì bồi thường theo giá tại thời điểm đó. Qua các buổi
thương lượng, gNhà nước đang bồi thường hiện nay là 1.250.000 đồng, gia đình
yêu cầu quá cao. Ủy ban nhân dân huyện đã thực hiện áp giá theo quy định pháp
luật. Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt đúng quy định pháp luật. Giá bồi thường tại
thời điểm đúng. Đơn vị vấn giá thẩm định độc lập. Hội đồng nhân dân huyện
đồng ý, có sự có mặt của đại diện người có đất bị thu hồi, thông qua giá đất trình
Hội đồng nhân dân tỉnh, Sở T6 được Ủy ban nhân dân tỉnh P3. Đơn giá năm
14
2019 phù hợp quy định pháp luật hiện hành. Trình tự, thủ tục đảm bảo đúng
quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Mai Văn Đ, bà Lâm Thị C
là ông Vũ Văn T1 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để giải
quyết lại.
Thứ nhất: Toà án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng:
- Ngày 16/04/2024, TAND tỉnh Long An ban hành Thông báo thụ vụ án
số 104/2024/TLST-HC, về việc thụ lý yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn Đ;
- Ngày 07/05/2024, TAND tỉnh Long An ban hành Thông báo số 104/TB-
TA, vviệc thông báo vphiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và đối thoại. Thời gian ấn định lúc 14h00 ngày 20/05/2024.
- Đến 14h00 ngày 20/05/2024, người khởi kiện ông Mai Văn Đ và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lâm Thị C mặt, nhưng người bị kiện vắng
mặt.
- Ngày 20/05/2024, TAND tỉnh Long An ban hành Quyết định số
150/2024/QĐXXST-HC, về việc đưa vụ án ra xét xử, thời gian ấn định lúc 07 giờ
45 phút, ngày 31/05/2024;
- Ngày 31/05/2024, TAND tỉnh Long An ban hành Quyết định số
57/2024/QĐST-HC, quyết định hoãn phiên toà, thời gian ấn định xét xử tiếp theo
vào lúc 07 giờ 45 phút, ngày 27/06/2024;
- Ngày 31/05/2024, TAND tỉnh Long An ban hành Quyết định số
104/2024/QĐ-XXTĐTC, về việc xem xét thẩm định tại chỗ vào lúc 08h00 ngày
07/06/2024;
- Ngày 05/07/2024, TAND tỉnh Long An ban hành Thông báo số
104A/2024/TLST-HC ngày 05/07/2024, về việc thụ lý vụ án bổ sung;
- Ngày 17/07/2024, TAND tỉnh Long An ban hành Thông báo số
30/2024/TB-TA về việc mở lại phiên toà, thời gian ấn định xét xử tiếp theo vào
lúc 14 giờ 00 phút, ngày 26/07/2024.
Theo quy định tại Điều 20 về việc đối thoại trong tố tụng hành chính: “Tòa
án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự
đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Luật này”.
Tại Điều 131 Luật Tố tụng hành chính quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Thẩm phán trong giai đoạn xét xử, theo đó có quy định nhiệm vụ của Thẩm phán
là phải: “Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và đối thoại”.
Điều 134. Nguyên tắc đối thoại: 1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,
Tòa án tiến hành đối thoại đcác đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết
vụ án”.
15
Điều 135. Những ván hành chính không tiến hành đối thoại được: “1.
Người khởi kiện, người bị kiện, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được
Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt”.
Trong vụ án này, TAND tỉnh Long An chỉ triệu tập duy nhất 1 lần về việc
thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
đối thoại, có đương sự (người bị kiện) vắng mặt không do nhưng Toà án không
triệu tập phiên họp lần 2 theo đúng quy định. Đồng thời, việc triệu tập phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ đối thoại phải được tổ
chức trước khi đưa vụ án ra xét xử.
Điều 138. Trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và đối thoại.
Ngay sau khi thụ lý vụ án, TAND tỉnh Long An đã đưa vụ án ra xét xử ngay
không thực hiện thủ tục đối thoại” và “mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ”. Mặt khác, sau khi đã ban hành quyết định đưa vụ
án ra xét xử, Toà án “vẫn ban hành thông báo thụ vụ án bổ sung”. Theo quy
định tại Điều 9 Luật TTHC, các đương sự quyền và nghĩa vụ chủ động thu
thập, giao nộp tài liệu chứng cứ cho Toà án chứng minh yêu cầu của mình
căn cứ hợp pháp. Ông cho rằng việc tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại thủ tục rất quan trọng để giải
quyết vụ án, sẽ tạo điều kiện cho các đương sự điều kiện thoả thuận, thương
lượng với nhau để giải quyết vụ án; đồng thời minh bạch trong việc xét xử.
ràng TAND tỉnh Long An đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hành chính.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy bản án hành chính sơ thẩm do vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng hành chính. Mặt khác, tại phiên toà ngày 26/7/2024,
đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đề nghị “Tạm dừng phiên toà” để
yêu cầu bị đơn nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ chứng minh việc ông Mai Văn Đ
đã nhận các thông báo thu hồi đất, quyết định thu hồi đất, quyết định bồi
thường…và Toà án ấn định thời gian tiếp tục phiên toà vào ngày 31/7/2021. Tuy
nhiên, cho đến ngày mở lại phiên toà 31/7/2021, Toà án không công khai chứng
cứ, không cho người khởi kiện được biết những loại tài liệu, chứng cứ do người
bị kiện đã bổ sung. TAND tỉnh Long An xét xử vụ án dựa trên những chứng cứ
bỏ túi” không được công khai” theo đúng trình tự thủ tục quy định của pháp
luật, chỉ dựa vào Bản trình bày ý kiến phiến diện, đơn phương của người bị kiện
để ra bản án giải quyết vụ án, dẫn đến việc xét xử không khách quan, thiếu minh
bạch, trái quy định của pháp luật.
Thứ hai: Đối với yêu cầu khởi kiện hủy Quyết định số 8820/QĐ-UBND ngày
06/12/2019 của Chủ tịch UBND huyện C, tỉnh Long An về việc thu hồi đất của
hộ ông Mai Văn Đ:
Ngày 06/12/2019, Chủ tịch UBND huyện C, tỉnh Long An ban hành Quyết
định số 8820/QĐ-UBND, về việc thu hồi 7.437m
2
đất của ông Mai Văn Đ toạ lạc
tại xã L, huyện C, gồm các thửa: 1224, tờ bản đồ số 6, diện tích 215m
2
, mục đích
sử dụng đất: Đất tại nông thôn thửa 325, tờ bản đồ số 7, diện tích 7.222m
2
,
16
mục đích sử dụng: Đất trồng lúa. Mục đích thu hồi đất để giải phóng mặt bằng
thực hiện dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 làm chủ đầu tư.
Theo quy định tại Điều 67 Luật Đất đai năm 2013 (trước đây quy định tại
Điều 39 Điều 40 Luật Đất đai 2003): Trước khi quyết định thu hồi đất, chậm
nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp,
quan Nhà nước thẩm quyền phải thông báo thu hồi đất cho người đất thu
hồi biết. Nội dung thông báo thu hồi đất bao gồm kế hoạch thu hồi đất, điều tra,
khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Khi ban hành quyết định thu hồi đất đối với trường
hợp của ông Mai Văn Đ, UBND huyện C, tỉnh Long An không thực hiện việc gửi
thông báo thu hồi đất cho ông Mai Văn Đ được biết trước chậm nhất 90 ngày
đối với đất nông nghiệp và 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp. Theo quy định
tại Điều 17 Nghị định s43/NĐ-CP ngày 01/7/2014 của Chính phủ quy định:
Cùng với việc thông báo thu hồi đất theo quy định tại Điều 61 và Điều 62 Luật
Đất đai, thì: Cơ quan Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp
phê duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, gồm các nội
dung sau đây: Ngày 28/5/2013, UBND huyện C, tỉnh Long An ban hành Thông
báo thu hồi đất số 155/TB-UBND về việc thu hồi đất giao cho Công ty Cổ phần
Đ1 đầu dự án. Khu dân tại L nhưng nội dung thông báo thu hồi đất không
đầy đủ các nội dung quy định nêu trên. Đồng thời với thông báo thu hồi đất
quan Tài nguyên Môi trường không lập và trình Ủy ban nhân dân cùng cấp p
duyệt kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm theo đúng quy
định nêu trên. Theo quy định tại Điều 69 Luật Đất đai năm 2013 quy định:
+ UBND cấp có thẩm quyền thu hồi đất ban hành Thông báo thu hồi đất.
+ Thông báo thu hồi đất được gửi đến từng người đất thu hồi, họp phổ
biến đến người dân trong khu vực đất thu hồi thông báo tn phương tiện
thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh
hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi.
+ Ủy ban nhân dân cấp trách nhiệm phối hợp với tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai thực hiện kế hoạch thu hồi đất, điều
tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm. Trường hợp người sử dụng đất trong khu vực có
đất thu hồi không phối hợp với tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt
bằng trong việc điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm thì Ủy ban nhân dân cấp xã,
Ủy ban M cấp nơi đất thu hồi tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng tổ chức vận động, thuyết phục để người sử dụng đất thực hiện.
Khi ban hành Thông báo thu hồi đất, ngày 08/6/2013 UBND huyện C mời
một số hộ dân đất bị thu hồi để ng bố thông báo thu hồi đất nhưng không gửi
thông báo cho ông Mai Văn Đ được biết, không mời hộ ông Mai Văn Đ để thông
báo về việc thu hồi đất; đồng thời không thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng để người dân được biết về việc mình đất bị thu hồi nhằm đảm bảo quyền
lợi của mình (bao gồm quyền khiếu nại theo quy định của pháp luật). Mặt khác,
thông báo thu hồi đất chỉ nêu chung chung của tổng diện tích đất bị thu hồi
không thông báo thu hồi đất cho từng hộ gia đình, nhân. Như vậy, Quyết
định thu hồi đất số 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của của Chủ tịch UBND
17
huyện C, tỉnh Long An về việc thu hồi đất của hộ ông Mai Văn Đ để giải phóng
mặt bằng thực hiện dự án khu dân do Công ty Cổ phần P2 đầu dự án khu
dân cư tại xã L, huyện C đã không tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục pháp luật quy
định. Toà án cấp thẩm đã không xem xét thấu đáo, đầy đủ đến tính hợp pháp
của quyết định hành chính thu hồi đất bị kiện.
Thứ ba: Đối với yêu cầu khởi kiện hủy Quyết định số 9464/QĐ-UBND ngày
06/12/2019 của Chủ tịch UBND huyện C, tỉnh Long An về việc bồi thường giá trị
thiệt hại quyền sử dụng đất và các khoản hỗ trợ.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013:
+ Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi có đất thu hồi tổ chức lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định
theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực đất thu
hồi, đồng thời niêm yết công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định tại
trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân nơi
đất thu hồi.
+ Việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản có xác nhận của đại
diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban M cấp xã, đại diện những người có
đất thu hồi.
+ Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng trách nhiệm
tổng hợp ý kiến đóng góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng
ý kiến không đồng ý, số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư; phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp nơi đất thu hồi tổ chức đối
thoại đối với trường hợp còn ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư; hoàn chỉnh phương án trình cơ quan có thẩm quyền;
+ quan thẩm quyền thẩm định phương án bồi thường, hỗ trợ tái
định trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp thẩm quyền quyết định thu hồi
đất.
Tại Điều 28 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định:
1. Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định khi Nhà nước thu hồi đất mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - hội lợi ích quốc gia, công cộng
mà không thuộc trường hợp quy định tại Điều 17 của Nghị định này gồm các nội
dung chủ yếu sau đây:
2. Việc lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định tại
khoản 1 Điều này thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai
phải niêm yết, tiếp nhận ý kiến đóng góp của người dân trong khu vực có đất thu
hồi ít nhất là 20 ngày, kể từ ngày niêm yết”.
- Ngày 28/10/2019, Ban QLDAĐTXD thuộc UBND huyện C lập Phương
án dự kiến số 66/PA-BQLDAD9TXD về việc bồi thường, htrợ tái định
18
Dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư trên địa bàn xã L, huyện C, tỉnh
Long An;
- Ngày 31/10/2019, BQLDAD9TXD tổ chức công bố Phương án dự kiến
bồi thường, hỗ trợ (Biên bản họp số 142/BB-BQLDAD9TXD ngày 31/10/2019),
mời một số hộ dân (mời không đầy đủ không ông Mai Văn Đ) để công
bố phương án dự kiến;
- Ngày 03/12/2019, UBND tỉnh L ban hành Quyết định số 4563/QĐ-UBND
về việc phê duyệt hệ số điều chỉnh giá đất bồi thường các chính sách bồi
thường, hỗ trợ để giải phóng mặt bằng;
- Ngày 06/12/2019, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T4 có Tờ trình
số 781/TTr-TNMT về việc đề nghị phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C;
- Ngày 06/12/2019, UBND huyện C ban hành Quyết định số 8802/QĐ-
UBND, về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định dự án khu
dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C;
- Ngày 06/12/2019, UBND huyện C ban hành Quyết định số 9464/QĐ-
UBND về việc bồi thường thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất và các khoản hỗ trợ
thuộc khu vực đất Nhà nước thu hồi.
- Ngày 13/12/2019, Ban QLDA ĐTXD tổ chức buổi họp để công bố Quyết
định phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Quyết định thu hồi đất
Quyết định bồi thường thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất…nhưng hoàn toàn
không mời hộ ông Mai Văn Đ tham dự, gia đình ông Mai Văn Đ hoàn toàn không
nhận được thư mời cũng như các quyết định và thời điểm này.
- Ngày 06/8/2020, UBND huyện C ban hành Quyết định số 4085/QĐ-
UBND vviệc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư.
- Ngày 13/10/2020, Ban QLDA ĐTXD tiếp tục tổ chức buổi họp để công bố
Quyết định thu hồi đất Quyết định bồi thường thiệt hại giá trị quyền sử dụng
đất…nhưng hoàn toàn cũng không mời hộ ông Mai Văn Đ tham dự, gia đình ông
Mai Văn Đ hoàn toàn không nhận được thư mời cũng như các quyết định và thời
điểm này.
- Ngày 10/6/2021, UBND huyện C tiếp tục ban hành Quyết định số:
2948/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư.
Như vậy, đối chiếu với quy định tại khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai 2013
Điều 28 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014, trước khi ban hành Quyết
định chính thức phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thì Tổ chức
làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đây BQLDAĐTXD thuộc
UBND huyện C phải tổ chức lấy ý kiến người dân về phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư theo hình thức tổ chức họp trực tiếp với người dân trong khu vực
đất thu hồi, việc tổ chức lấy ý kiến phải được lập thành biên bản xác nhận
19
của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, đại diện Ủy ban M cấp xã, đại diện những
người có đất thu hồi. Theo quy định nêu trên, thời hạn lấy ý kiến người dân trong
khu vực đất bị thu hồi ít nhất 20 ngày, ktừ ngày niêm yết. Tổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng có trách nhiệm tổng hợp ý kiến đóng
góp bằng văn bản, ghi rõ số lượng ý kiến đồng ý, số lượng ý kiến không đồng ý,
số lượng ý kiến khác đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; phối hợp
với Ủy ban nhân dân cấp nơi đất thu hồi tchức đối thoại đối với trường
hợp còn ý kiến không đồng ý về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư;
hoàn chỉnh phương án trình quan thẩm quyền. Tuy nhiên, Tổ chức làm
nhiệm vbồi thường, giải phóng mặt bằng đã không thực hiện đúng quy định này.
Cụ thể:
- Không tổ chức lấy ý kiến người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư (Phương án chính thức);
- Không lập biên bản ghi ý kiến của người dân đơn phương tự ý lập
Phương án, sau đó chỉ công bố cho người dân được biết về Phương án nhưng cũng
không phải là Phương án chính thức mà chỉ là Phương án dự kiến;
- Không gửi quyết định bồi thường, hỗ trợ tái định (nếu có), thời gian,
địa, điểm chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ thời gian bàn giao đất bthu hồi cho tổ
chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng.
- tổ chức niêm yết nhưng niêm yết Phương án dự kiến nhưng không
lập biên bản niêm yết ng khai, tổng hợp ý kiến, họp đối thoại các hộ dân ý
kiến không đồng ý về Phương án dự kiến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (thể hiện
tại Công văn số 127/PTP ngày 06/3/2023 của Phòng pháp huyện Cần GiuộT4)
cho đến khi UBND huyện C ban hành Quyết định phê duyệt Phương án bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư dự án khu dân do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại
L, huyện C (chính thức) thì người dân hoàn toàn không được quyền thể hiện bất
cứ ý kiến nào về Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư liên quan đến nhà đất
của họ bị thu hồi, trong đó hộ ông Mai Văn Đ (chbiết được khi sự đã rồi).
Phương án hoàn toàn do UBND huyện C đơn phương tý quyết định. Phương án
chính thức hoàn toàn không lấy ý kiến đóng góp của người dân.
quan Nhà nước UBND huyện C đã không tuân thủ đúng đầy đủ quy
định của Luật Đất đai năm 2013 khi ban hành Quyết định số 9464/QĐ-UBND
ngày 06/12/2019 về việc bồi thường giá trị thiệt hại quyền sử dụng đất các
khoản hỗ trợ thuộc khu vực đất Nhà nước thu hồi để giao cho Công ty Cổ phần
P2 đầu dự án khu dân cư tại L, huyện C, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân đất bị thu hồi, trong đó trường hợp
của ông Mai Văn Đ.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP,
Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - hội lợi ích quốc gia, công cộng phải
được lập cho từng trường hợp người dân đất bị thu hồi nhưng UBND huyện C
hoàn toàn không thực hiện thủ tục này chlập chung cho toàn dự án. Do đó,
Quyết định số 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của Chủ tịch UBND huyện C,
20
tỉnh Long An về việc bồi thường giá trị thiệt hại quyền sử dụng đất và các khoản
hỗ trợ thuộc khu vực đất Nhà nước thu hồi để giao cho Công ty Cổ phần P2 đầu
dự án khu dân cư tại xã L, huyện C đã không thực hiện đúng theo quy định của
pháp luật. Toà án cấp thẩm đã không xem xét đến tính hợp pháp về trình tự thủ
tục ban hành Quyết định bồi thường giá trị thiệt hại quyền sử dụng đất của người
bị kiện.
Xét về nội dung quyết định: Quyết định số 9464/QĐ-UBND ngày
06/12/2019, quyết định bồi thường cho ông Mai Văn Đ số tiền 9.955.958.000
đồng chưa thỏa đáng. Ông Mai Văn Đ bthu hồi 7.437m
2
đất toạ lạc tại L,
huyện C, gồm các thửa: 1224, tờ bản đồ số 6, diện tích 215m
2
, mục đích sử dụng
đất: Đất ở tại nông thôn và thửa 325, tờ bản đồ số 7, diện tích 7.222m
2
, mục đích
sử dụng: Đất trồng lúa. Theo hiện trạng thực tế, cả hai thửa đất nêu trên của ông
Mai Văn Đ hai mặt tiền, một mặt tiếp giáp đường giao thông nội bộ một
mặt tiếp giáp đường giao thông thủy. Theo Bảng chiết tính đính kèm Quyết định
số 9464/QĐ-UBND:
+ Đất lúa T.325, TBĐ: 07 đoạn 50 mét đầu không tiếp giáp đường Ấ, diện
tích: 4.090,0m
2
, áp đơn giá 1.429.000 đồng là không phù hợp.
+ Đất lúa T.325, TBĐ: 07 đoạn 50 mét đầu không tiếp giáp sông B, diện tích:
2.597,0m
2
, áp đơn giá 679.000 đồng.
+ Đất lúa T.325, TBĐ: 07 đoạn bên trong, diện tích: 535,0m
2
, áp đơn giá
580.000 đồng.
Theo Báo cáo số 212/BC-BQLDAĐTXD ngày 18/01/2024 của Ban Quản
DAĐTXD thuộc UBND huyện C, thì nguồn gốc thửa đất số 325, tờ bản đồ số 7
được xác định như sau:
“Thửa đất 325, tờ bản đồ số 7 nguồn gốc do ông Phạm Ngọc A chủ s
dụng. Năm 2005, UBND huyện C chủ trương thu hồi đất để xây dựng đường
vào cầu T với tổng diện tích 7.556m
2
với 07 hộ dân và 01 tổ chức bị ảnh hưởng
(phần diện tích thu hồi để mđường điểm đầu giáp sông B phạm vi GPMB
rộng 22,3m, vị trí còn lại phạm vi GPMB rộng 17m).
Ngày 05/12/2005, UBND huyện C ban hành Quyết định số 5937/QĐ-UBND
về việc phê duyệt phương án bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng thi công
công trình đường vào cầu T trên địa bàn xã L và thực hiện chi trả bồi thường cho
các hộ bị ảnh hưởng (trong đó thu hồi thửa đất 325, tờ bản đồ số 7, diện tích
925m
2
, loại đất trồng lúa, chủ sử dụng đất ông Phạm Ngọc A). Khi Sở Giao
thông công chánh Thành phố H triển khai thi công xây dựng cầu T, ngoài việc thi
công đường đầu cầu phía Long An chiều dài 214m theo thiết kế, đơn vị thi công
đã thi công trải sỏi đỏ luôn phần đường còn lại đấu nối vào đường Ấ.
Đến năm 2008, ông Mai Văn Đ nhận chuyển nhượng thửa đất 325 tông
Phạm Ngọc A. Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Mai Văn
Đ, hoạ đồ vị trí đất ghi chú phần đất của ông Mai Văn Đ 1 đoạn giáp với
phần diện tích thu hồi mở đường vào cầu T.
21
Theo bản đồ dự án do Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện cung cấp
làm sở thu hồi đất, thửa đất 325, tờ bản đồ số 7, vị trí đất thể hiện tiếp giáp
đường L.
Tuy nhiên, theo danh sách thống diện ch đất không cắt ranh phân
đoạn phần diện tích đất này (do đường L trước đây là đường vào cầu T chưa cập
nhật trên bản đđịa chính cho nên Chi nhánh VPĐKĐĐ chỉ cắt ranh thửa đất 325
của ông Mai Văn Đ thuộc phạm vi 50m đầu đường nhưng không tiếp giáp
đường).
Theo nội dung báo cáo nêu trên, sở xác định thửa đất 325, tờ bản đồ
số 7 của ông Mai Văn Đ nằm sát liền kề mt tiền đường vào cầu T trên địa bàn
L (phần diện tích thu hồi để mở đường có điểm đầu giáp sông B phạm vi GPMB
rộng 22,3m, vị trí còn lại phạm vi GPMB rộng 17m), trong đó phần đất đã bị thu
hồi của chủ để làm đường 925m
2
. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã
cấp cho ông Mai Văn Đ, hoạ đồ vị trí đất có ghi chú phần đất của ông Mai Văn Đ
1 đoạn giáp với phần diện tích thu hồi mở đường vào cầu T. UBND huyện C
đã ban hành quyết định phê duyệt phương án bồi thường; Sở Giao thông công
chánh Thành phố H đã triển khai thi công xây dựng cầu T. Cho đến thời điểm hiện
nay, chủ trương xây dựng đường vào cầu T vẫn chưa bị thu hồi. Việc không tiếp
tục thực hiện chủ trương mở đường vào cầu T không thuộc lỗi của ông Mai Văn
Đ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tiến hành xem xét thẩm định tại
chỗ khu đất, theo đó thực tế thửa đất bị thu hồi phần lớn diện tích tiếp giáp liền
kề với mặt đường thể hiện tại Giấy chứng nhận QSDĐ được cấp ngày 14/01/2008
cho ông Mai Văn Đ, theo sơ đồ thửa đất ghi “Phần diện tích thu hồi m đường
Tắc Gò C1 925m
2
”. Theo bản đồ dự án do Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
huyện cung cấp làm cơ sở thu hồi đất, thửa đất 325, tờ bản đồ số 7, đã xác định vị
trí đất thể hiện tiếp giáp đường L. Tuy nhiên, theo danh sách thống diện tích
đất không cắt ranh phân đoạn phần diện tích đất này (lý do đường Lộ Mới trước
đây đường vào cầu T chưa cập nhật trên bản đồ địa chính cho nên Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký đất đai chỉ cắt ranh thửa đất 325 của ông Mai Văn Đ thuộc
phạm vi 50m đầu đường nhưng không tiếp giáp đường) - đây hoàn hoàn toàn
nhận định chủ quan. Việc chưa cập nhật trên bản đồ địa chính trách nhiệm
của quan Nhà nước, không thuộc nghĩa vụ của ông Mai Văn Đ. Mặt khác, thực
tế ông Đ bị thu hồi trọn thửa đất 325, tbản đồ số 7, diện tích 7.222m
2
, theo
quy định hiện hành của Luật Đất đai 2013 và pháp luật liên quan, không
quy định nào quy định tách các phần diện tích đất theo từng đoạn, chia nhỏ từng
diện tích để áp giá bồi thường. Ngược lại, nếu khi ông Đ thực hiện nghĩa vụ tài
chính của người sử dụng đất thì cơ quan Nhà nước sẽ áp giá trọn thửa chứ không
bao giờ chia tách theo từng đoạn, từng diện tích trong cùng một thửa đất. Theo
Bảng chiết tính nêu trên, đối với thửa đất 325, ông Mai Văn Đ hoàn toàn không
được tính đúng vị trí đất, toàn bộ diện tích đất 7.222m
2
đất bị thu hồi nằm tiếp
giáp liền kề mặt tiền đường T nhưng lại không được tính vị trí mặt tiền đường để
tính giá trị bồi thường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của ông Đ.
Do đó, việc áp giá theo Bảng chiết tính không phù hợp, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền lợi của ông Đ. Cũng theo Bảng chiết tính, đối với T.1224, TBĐ:
22
06 đoạn 50 mét đầu tiếp giáp đường Ấ, diện ch 215,0m
2
, áp đơn giá 4.439.000
đồng không phù hợp, thửa đất này 02 mặt tiền đường tiếp giáp đường giao
thông, trong khi đó, căn cứ theo Quyết định số 2948/QĐ-UBND ngày 10/6/2021,
về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ tái định
cư, đính kèm Quyết định số 8802/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 và Quyết định số
4085/QĐ-UBND ngày 06/8/2020 của UBND huyện C, thì đơn giá giao đất
thu tiền sử dụng đất là: 6.519.000 đồng. Do đó, việc tính đơn giá bồi thường đối
với T.1224 là 4.439.000 đồng là hoàn toàn không phù hợp. Qua tìm hiểu thực tế
của những người đất bị thu hồi cùng thời điểm với trường hợp của ông Đ, cùng
mục đích sử dụng đất nhưng lại được bồi thường cao hơn nhiều so với trường hợp
của ông Đ (Cao nhất bồi thường 4.439.000 đồng/m
2
đối với đất ở, cao nhất đối
với đất nông nghiệp ch1.429.000 đồng/m
2
và thấp nhất chỉ 580.000 đồng/m
2
).
Điều 74 Luật Đất đai. Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất;
Điều 112 Luật Đất đai. Quy định về nguyên tắc, phương pháp định giá đất: Theo
các quy định nêu trên, trường hợp bồi thường bằng tiền phải được thực hiện tại
thời điểm quyết định thu hồi đất, trên nguyên tắc là phải phù hợp với giá đất phổ
biến trên thị trường. Do đó, việc ông Mai Văn Đ không đồng ý với mức bồi thường
9.955.958.000 đồng đối với tổng diện tích đất bị thu hồi 7.437m
2
thuộc thửa 1224
thửa 325 do phương pháp xác định vị trí theo Bảng chiết tính không đúng
giá đất áp dụng không theo nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất quy định
tại Điều 112 LĐĐ chưa sát với giá đất phổ biến trên thị trường hoàn toàn
căn cứ, cơ sở. Mặt khác, Quyết định thu hồi đất Quyết định bồi thường đối với
trường hợp của ông Mai Văn Đ từ năm 2019 đến nay 2025 đã 06 (sáu) năm nhưng
chưa thực hiện việc chi trả ông Đ chưa bàn giao đất thì phải tính theo giá đất
tại thời điểm năm 2025. Do đó, Quyết định số 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019
Bảng chiết tính đính kèm ấn định các thửa đất của ông Đ không đúng vị trí;
không phù hợp với giá thị trường, trái với nguyên tắc phương pp định giá
đất quy định tại điểm c khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai 2013. Việc này đã gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi ích hợp pháp của ông Mai Văn Đ - người
đất bị thu hồi. Mặt khác, việc tiến hành thu hồi đất để giao cho Công ty Cổ
phần P2 làm dự án về bản chất đây trường hợp Nhà nước đứng ra thu hồi đất
để giao cho doanh nghiệp làm dự án đkinh doanh. Việc bồi thường thu hồi đất
này nhất thiết phải sự đồng thuận thống nhất giữa người dân - doanh nghiệp.
Nhà nước thu hồi đất giúp doanh nghiệp quỹ đất thực hiện dự án, nguồn tiền
để bồi thường, tái định cư cho người dân bị thu hồi là do Doanh nghiệp ứng ra để
Nhà nước thu hồi đất sau đó giao lại cho Doanh nghiệp. Nếu tính về hiệu quả kinh
doanh giữa trước sau khi thu hồi đất m dự án thì không thể so sánh, phần
thiệt hại nặng nề thuộc về người dân đất bị thu hồi, trong đó trường hợp của
ông Đ. Đây là lý do trong quá trình vận động, thuyết phục, chính Chủ đầu dự
án Công ty Cổ phần P2 đồng ý chi trả thêm cho ông Mai Văn Đ số tiền
4.771.034.500 đồng.
Thứ tư: Đối với yêu cầu khởi kiện hủy Quyết định số 5817/QĐ-UBND ngày
21/11/2023 của Chủ tịch UBND huyện C, tỉnh Long An vviệc cưỡng chế thu
hồi đất.
23
Xét về trình tự thủ tục ban hành:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013, cưỡng chế thực
hiện quyết định thu hồi đất được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy
ban nhân dân cấp xã, y ban M cấp nơi đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm
vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục;
b) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết
công khai tại trụ sở y ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu
dân cư nơi có đất thu hồi;
c) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi
hành;
d) Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết
định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.
Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế
hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập biên
bản.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 71, thì trình tự, thủ tục thực hiện cưỡng chế
thu hồi đất được thực hiện như sau:
a) Trước khi tiến hành cưỡng chế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết
định thành lập Ban thực hiện cưỡng chế;
b) Ban thực hiện cưỡng chế vận động, thuyết phục, đối thoại với người bị
cưỡng chế; nếu người bcưỡng chế chấp hành thì B1 thực hiện cưỡng chế lập biên
bản ghi nhận sự chấp hành. Việc bàn giao đất được thực hiện chậm nhất sau 30
ngày kể từ ngày lập biên bản.
Trường hợp người bị cưỡng chế không chấp hành quyết định cưỡng chế thì
Ban thực hiện cưỡng chế tổ chức thực hiện cưỡng chế;
Theo tài liệu hiện trong hồ vụ án, UBND L UBND huyện C
mời các cơ quan ban ngành liên quan và ông Mai Văn Đ để công bố và trao quyết
định cưỡng chế thu hồi đất, cũng như quyết định thu hồi đất quyết định bồi
thường thiệt hại giá trị quyền sử dụng đất.
Tuy nhiên, hồ sơ thể hiện cho đến khi đã ban hành quyết định ỡng chế thu
hồi đất, các giai đoạn trước đó ông Mai Văn Đ chỉ tham dự 01 lần tại buổi kiểm
kê, tất cả các lần còn lại đều do con ông ông Mai Văn B hoặc vợ ông Đ là
Lâm Thị C tham dự trong khi những người này không hề có ủy quyền của ông Đ
(không thuộc đối tượng làm việc), trong khi việc thu hồi đất là thu hồi đích danh
đất của ông Đ (thể hiện trong kiến nghị của Thanh tra huyện tại Công văn số
207/TTr ngày 12/5/2023; Công n số 227/PTP ngày 21/4/2024 của Phòng
pháp huyện Cần GiuộT4).
Cho đến thời điểm tháng 10/2023, Phòng Tài nguyên Môi trường huyện
T4 vẫn chưa đảm bảo hoàn thành thủ tục gửi Quyết định thu hồi đất số 8820/QĐ-
24
UBND mặc quyết định này được ban hành từ ngày 06/12/2019; Quyết định
bồi thường số 9464/QĐ-UBND (kể cả các quyết định điều chỉnh) đến ông Mai
Văn Đ. Nội dung này được thể hiện tại Công văn số 968/PTP ngày 10/10/2023
của Phòng Tư pháp huyện Cần GiuộT4.
Hồ sơ thể hiện quan chức năng chưa thực hiện đầy đthủ tục trao trực
tiếp quyết định thu hồi đất, quyết định bồi thường của UBND huyện C cho ông
Mai Văn Đ, ngoài ra các quyết định này cũng không được gửi qua đường bưu điện
cho ông Đ theo đề nghị của Phòng Tư pháp huyện tại Văn bản số 968/PTP ngày
10/10/2023 gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của ông.
Văn bản trình bày ý kiến số 2960/UBND-NC ngày 04/6/2024 của người bị
kiện Ủy ban nhân dân huyện C thể hiện:
“Ngày 10/3/2020, ông Mai Văn Đ đến Ban Q nhận Quyết định thu hồi đất
số 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 và Quyết định bồi thường số 9464/QĐ-
UBND ngày 06/12/2019 của UBND huyện C”.
Nội dung này là hoàn toàn không đúng sự thật vì trong khoảng thời gian này
từ ngày 22/02/2020 đến ngày 14/3/2022, ông Mai Văn Đ hoàn toàn không có mặt
tại Việt Nam. Ngày 22/02/2020, ông Đ xuất cảnh đi Úc mãi đến ngày 14/3/2022
gần 3 năm mới quay về được Việt Nam do dịch bệnh, thì không thể có mặt để ký
nhận các quyết định hành chính. Việc này được chứng minh bằng vé máy bay đi
Úc và Hộ chiếu có thị thực xuất nhập cảnh giữa Việt Nam và Úc.
Đồng thời, việc ông Đ không nhận các Quyết định hành chính còn được thể
hiện qua Vi bằng 982/2024/VB-TPL-PTH ngày 15/10/2024. Người thân, vợ ông
Đ bà Lâm Thị C và con ông Mai Văn B đều xác định gia đình không được
mời để nhận các Quyết định hành chính. Trong đó, chính ông P1 cán bộ L thừa
nhận có gửi bưu điện nhưng bưu điện xác nhận không đưa tới gia đình ông Đ.
Ngày 27/11/2023, Phòng T4 tổ chức buổi họp về việc niêm yết công khai
Quyết định số 5187/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất nhưng không mời
ông Mai Văn Đ, theo quy định nêu trên trường hợp ông Mai Văn Đ vắng mặt hoặc
từ chối nhận quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp (UBND L) phải
lập biên bản ghi nhận sự việc này nhưng UBND xã đã không thực hiện là không
đúng trình tự thủ tục luật định.
Ngày 27/11/2023 (Lần 1-Giấy mời số 2451/GM-TNMT ngày 23/11/2023
không thành phần được mời ông Mai Văn Đ - người đất bị thu hồi)
ngày 05/4/2024 (Lần 2) Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T4 phối hợp với
các phòng ban ngành, UBND xã L và Công ty Cổ phần P2 tổ chức buổi kiểm tra,
xác định vị trí, cắm ranh mốc thửa đất số 1224 thửa 325 nhưng hoàn toàn không
mời ông Mai Văn Đ tham dự buổi cắm mốc này tự ý xác định cắm mốc.
Thực tế, tại buổi xem xét thẩm định tại chỗ ông Đ xác định các ranh mốc đều bị
cắm sai vtrí. Ông Đ người đất bị thu hồi, lần kiểm đếm lần đầu vào ngày
28/3/2014 cho đến năm 2023 kéo dài gần 10 năm, trong thời gian này gia đình
ông Đ nhiều lần san lấp tiếp tục sử dụng, sự thay đổi vhiện trạng sử
dụng đất. Do đó, tại buổi kiểm tra, xác định vị trí, cắm ranh mốc thửa đất số 1224
25
và thửa 325 bắt buộc phải sự mặt của người bị thu hồi đất là ông Mai Văn
Đ để đảm bảo việc cưỡng chế đúng đối tượng đảm bảo quyền lợi của ông Đ.
Tuy nhiên, Phòng T4 và UBND xã L đã không thực hiện việc này dẫn đến quyền
lợi của ông Mai Văn Đ bị ảnh hưởng.
Tại điểm a khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Người đất
thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau khi Ủy ban nhân dân cấp xã,
Ủy ban M cấp nơi đất thu hồi tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục”.
Sau khi ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất ban hành thông báo
về thời gian thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Mai Văn Đ, Ban thực
hiện cưỡng chế thu hồi đất tchức buổi họp về việc tiếp xúc, vận động ông
Mai Văn Đ nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao đất.
Tuy nhiên, tại buổi họp ngày 04/01/2024 (Biên bản số 55/BB-BTHCCTHĐ)
ngày 16/4/2024 (Biên bản số 15/BB-BTHCCTHĐ) đều không mời không
có sự tham dự họp của Ủy ban M. Đây là thành phần pháp luật quy định bắt buộc
phải có mặt để thực hiện chức năng, nhiệm vụ vận động thuyết phục.
Từ những ý kiến phân tích nêu trên, đủ cơ sở để xác định việc Chủ tịch
UBND huyện C, tỉnh Long An ban hành thực hiện Quyết định 5817/QĐ-
UBND ngày 21/11/2023, về việc cưỡng chế thu hồi đất không tuân thủ đúng
trình tự thủ tục Luật Đất đai m 2013 quy định về việc thực hiện thủ tục cưỡng
chế thu hồi đất.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 241 Luật Tố tụng
hành chính chấp nhận kháng cáo, hủy Bản ánthẩm số 145/2024/HC-ST ngày
31/7/2024 và chuyển hồ sơ cho Toà cấp sơ thẩm xét xử lại.
Ông Lê Duy K trình bày: Thống nhất ý kiến của Luật sư.
Ông Cao Hồng N trình bày: Việc thu hồi đất của người dân phải họp dân,
biên bản họp, bao nhiêu phần trăm đồng ý. Chủ đầu đại diện UBND xã
văn bản không. Không phải đòi hỏi tiền mà gia đình đòi hỏi sự công bằng. Ngày
20/02/2020, ông Đ đã sang Úc do nào ngày 10/3/2020 chữ trong hai
quyết định bồi hoàn đất thu hồi. Do suất của chính quyền sở tại, qua mặt
nhân dân trình lên cấp trên ký. Vụ án kéo dài, mong Hội đồng xét xử lắng nghe,
chỉnh đốn bộ máy, tinh gọn đúng quy định pháp luật, tìm ra thủ phạm ngăn ngừa.
Nguồn gốc đất trước xã L, anh ông đã hy sinh ngày 12/5/1963, đồng đội hy sinh
08 người đặc công. Gia đình quản mảnh đất này. Nếu không dự án, gia
đình làm nơi ghi nhận những người đã mất.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện ông Nguyễn
Minh K1 trình bày: Thủ tục triển khai, thời hiệu đúng quy định pháp luật, đã
các văn bản niêm yết gửi Toà án làm chứng cứ. Về gia đình Cách mạng đã được
Đảng, Nhà nước ghi nhận chính sách. Nguồn gốc đất của ông Đ do nhận
chuyển nhượng không phải như gia đình trình bày người ngã xuống, lập đền
T7. Mỗi địa phương đều lập bia, di tích cụ thể. Nhà nước thực hiện theo quy
định. Ông Đ cho rằng chữ ký giả thì chữ ký đã được Phân viện Khoa học hình sự
26
khẳng định. Việc bồi thường giải phóng mặt bằng để phát triển kinh tế địa phương.
Gia đình ông Đ năm 2011 đã bị thu hồi đất, đến phút cuối, thực hiện cưỡng chế
dự án T mới nhận tiền. Ông Đ còn rất nhiều đất, không đồng ý nhận tiền. Kiến
nghị Hội đồng xét xử xem xét toàn diện việc triển khai, tính chất vụ việc.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
V t tng: Thm phán - Ch ta phiên tòa và Hội đồng xét x đã thực hin
đúng theo quy định ca pháp luật; các đương sự tham gia t tng chấp hành đúng
quyền và nghĩa vụ theo quy định ca Lut T tng hành chính.
V ni dung: Xét kháng cáo ca ông Mai Văn Đ và bà Lâm Thị C
Bà C cho rằng Toà án cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng, không thực hiện
công khai chứng cứ. Ông Đ đơn yêu cầu không đối thoại nhưng Toà án vẫn
tiến hành đối thoại. Người bị kiện vắng mặt không thể tiến hành đối thoại được.
Đại diện Viện kiểm sát yêu cầu cung cấp bổ sung thêm thì ngày 31/7/2024 chủ
toạ công bVăn bản 3403 của Phòng T4. Toà án cấp thẩm đã thực hiện. Người
đại diện theo ủy quyền đã xác nhận. Bà C kháng cáo không có căn cxem xét.
Ông Đ kháng cáo cho rằng không đảm bảo trình tự thủ tục thu hồi về thời
gian nội dung. Ngày 28/5/2013, Ủy ban ban hành Thông báo số 155, Trung
tâm Phát triển quỹ đất thông báo thu hồi đất, gia đình không nhận. Lần 2, bà C dự
và nhận thông báo, đảm bảo thời hạn quy định. Nội dung thông báo đảm bảo quy
định Điều 26 của Bộ T5. Việc ông Đ kháng cáo nội dung không đảm bảo không
căn cứ xem xét. Quyết định số 9464/QĐ-UBND thì ngày 31/10/2024 đã công
bố phương án bồi thường cho ông Đ nhưng ông không dự nên Ủy ban nhân dân
đã niêm yết theo quy định. Ngày 03/12/2019, UBND tỉnh phê duyệt phương án
UBND huyện ban hành. Quyết định 8820, 9464 Bản quản lý đầu tư phối hợp với
Chủ đầucông bố quyết định bồi thường, phương án bồi thường BQL đã niêm
yết. UBND huyện ban hành quyết định đúng trình tự theo quy định. Kháng cáo
của các đương sự không có căn cứ. Quyết định 9464 bồi thường 02 thửa đất, đối
chiếu và thẩm định. Vtrí các thửa đất 1224, tờ bản đồ số 6, tại Ấp A, L, huyện
C, diện tích 215m
2
mặt tiền tiếp giáp đường 15,5m, một phần giáp con
rạch, trên đất trồng cây dừa nước. Thửa đất 325, tờ bản đồ số 7, diện tích
7.222m
2
, một phần tiếp giáp con rạch, một phần diện tích tiếp giáp với phần
đất thu hồi mở đường Tắc C1, trên đất là cây cỏ tạp. Nội dung này được chứng
minh qua lời khai bà T, bà C và Biên bản thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân
tỉnh Long An ngày 07/6/2024. Quyết định của UBND tỉnh UBND huyện: Ủy
ban ban hành đúng quy định pháp luật. c quyết định thu hồi, bồi thường thực
hiện đúng quy định pháp luật. Người bị kiện tiếp xúc vận động, gia đình không
chấp hành. UBND huyện ban hành quyết định cưỡng chế. Kháng cáo của đương
sự không đưa ra chứng cứ mới. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng o, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
27
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên sở xem xét
đầy đủ ý kiến của các bên đương squan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Ngày 15/4/2024, ông Mai Văn Đ nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh
Long An yêu cầu Tòa án hủy Quyết định s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023
ca Ch tch y ban nhân dân huyn C, tnh Long An; hy Quyết đnh s
9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 v vic bồi thường, h tr khi thu hồi đất; hy
Quyết định s 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y ban nhân dân huyn C,
tnh Long An v vic thu hồi đất; buc y ban nhân dân huyn C, tnh Long An
thc hin nhim v, công v xác định li mc bồi thường thit hi giá tr quyn
s dụng đất và các khon h tr cho ông Đ theo quy định ca pháp lut.
Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính,
thời hiệu khởi kiện Quyết định s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch
y ban nhân dân huyn về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Mai Văn Đ vẫn
còn và Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Xét kháng cáo của ông Mai Văn Đ Lâm Thị C, Hội đồng xét xử
nhận thấy:
[2.1] Trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành Quyết định: Các Quyết định số
8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019, Quyết định số 860/QĐ-UBND ngày
02/3/2023; Quyết định số 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019; Quyết định số
1135/QĐ-UBND ngày 21/3/2023 Quyết định số 5817/QĐ-UBND ngày
21/11/2023 của Ủy ban nhân dân huyện C của Chtịch Ủy ban nhân dân huyện
C ban hành về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Mai Văn Đ được ban hành
đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 66, Điều
68, Điều 69, Điều 71 Luật Đất đai năm 2013.
[2.2] Về nội dung:
[2.2.1] Ngày 28/5/2013, Ủy ban nhân dân huyện B Thông báo số 155/TB-
UBND về việc thu hồi đất để giao cho Công ty Cổ phần Đ1 đầu tư dự án khu dân
cư tại xã L, huyện C, tỉnh Long An.
Ngày 08/6/2013, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện phối hợp với các ngành
chuyên môn huyện, Ủy ban nhân dân xã L, chủ đầu tư tchức công bố thỏa thuận
địa điểm đầuthông báo thu hồi đất thuộc khu vực đất Nhà nước thu hồi để
xây dựng khu dân cư do Công ty Cổ phần Đ1 tại L, huyện C. Tuy nhiên, ông
Mai Văn Đ không đến dự (STT.76). Cùng ngày, Trung tâm Phát triển quỹ đất
huyện đã lập thủ tục niêm yết ng khai thông báo thu hồi đất tại trụ sở Ủy ban
nhân dân xã L.
Ngày 22/6/2013, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện phối hợp với các ngành
chuyên môn huyện, Ủy ban nhân dân xã L, chủ đầu tư tổ chức công bố thỏa thuận
địa điểm đầuthông báo thu hồi đất thuộc khu vực đất Nhà nước thu hồi để
28
xây dựng khu dân cư do Công ty Cổ phần Đ1 tại xã L, huyện C (lần 2). Theo đó,
Lâm Thị C (vợ ông Mai Văn Đ) đến dự thay và ký nhận thông báo thu hồi đất
(STT.43).
Ngày 28/3/2014, Trung tâm Phát triển quỹ đất huyện phối hợp với Ủy ban
nhân dân L chủ đầu thực hiện kiểm đất đai các tài sản trên đất trong
phạm vi giải tỏa đối với ông Mai Văn Đ để thực hiện dự án khu dân cư do Công
ty Cổ phần Đ1 đầu tại L. Theo đó, trường hợp ông Mai Văn Đ thửa đất
số 1224, tờ bản đồ số 06, diện tích 215m
2
, mục đích sử dụng đất tại nông thôn
thửa đất số 325, tờ bản đồ số 07, diện tích 7.222m
2
, mục đích sử dụng đất trồng
lúa, đất cùng tọa lạc tại xã L ảnh hưởng; trên đất không có công trình, nhà ở; ông
Mai Văn Đ có đến tham dự, thống nhất số liệu kiểm kê là đúng và ký tên tại biên
bản.
Ngày 03/12/2019, Ủy ban nhân dân tỉnh L ban hành Quyết định số
4563/QĐ-UBND vviệc phê duyệt hệ số điều chỉnh giá đất bồi thường các
chính sách bồi thường, hỗ trợ để giải phóng mặt bằng thực hiện dự án khu dân
do ng ty Cổ phần P2 làm chủ đầu tư trên địa bàn xã L, huyện C.
Ngày 06/12/2019, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 8802/QĐ-UBND
về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư dự án khu dân
do ng ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C.
Ngày 06/12/2019, Ủy ban nhân dân huyện B Quyết định số 8820/QĐ-UBND
về việc thu hồi đất của hộ ông (bà) Mai Văn Đ để giải phóng mặt bằng thực hiện
dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 đầu tư tại xã L, huyện C, tỉnh Long An.
Theo đó thu hồi tổng diện tích 215m
2
đất ở tại nông thôn thửa đất số 1224, tờ bản
đồ số 06 và 7.222m
2
đất trồng lúa thửa đất số 325, tờ bản đồ số 07, đất cùng tọa
lạc tại xã L.
[2.2.2] Ủy ban nhân dân huyện C áp giá bồi thường:
Đất nông nghiệp: Đất lúa thửa 325, tờ bản đồ số 07 đoạn 50 mét đầu không
tiếp giáp đường Ấ. Diện tích 4.090m
2
, đơn giá 1.429.000đ/m
2
, thành tiền
5.844.610.000 đồng.
Đất lúa thửa 325, tờ bản đồ 07, đoạn giáp 50 mét đầu tiếp giáp sông B, diện
tích 2.597m
2
, đơn giá 679.000đ/m
2
, thành tiền 1.763.363.000 đồng.
Đất lúa thửa 325, tờ bản đ07, đoạn bên trong, diện ch 535m
2
, đơn giá
580.000đ/m
2
, thành tiền 310.300.000 đồng.
Đất thổ thửa 1224, tờ bản đ6, đoạn 50 mét đầu tiếp giáp đường Ấ, diện tích
215m
2
, đơn giá 4.439.000đ/m
2
, thành tiền 954.385.000 đồng.
Các khoản hỗ trợ: Chi phí đầu vào đất còn lại: 1.083.300.000 đồng; Chi
phí san lấp mặt bằng T.325, diện tích 7.222m
2
, đơn g150.000đ/m
2
, thành tiền
1.083.300.000 đồng.
Tổng các khoản bồi thường là: 9.955.958.000 đồng.
Vị trí các thửa đất 1224, tờ bản đồ số 6, tại Ấp A, L, huyện C, diện tích
29
215m
2
mặt tiền tiếp giáp đường 15,5m, một phần giáp con rạch, trên đất
trồng cây dừa nước. Thửa đất 325, tờ bản đồ số 7, diện tích 7.222m
2
, một
phần tiếp giáp con rạch, một phần diện tích tiếp giáp với phần đất thu hồi mở
đường Tắc Gò C1, trên đất là cây cỏ tạp. Nội dung này được chứng minh qua lời
khai bà T, bà C và Biên bản thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân tỉnh Long An
ngày 07/6/2024.
Như vậy, các thửa đất 1224, t bản đồ s 06, din tích 215m
2
, thửa đất 325
có din tích 7.222m
2
ca ông Đ thuc d án khu dân cư, diện tích 114ha ti xã L,
huyn C đã được Hội đồng bồi thường theo Quyết định số 4563/QĐ-UBND ngày
03/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh L về việc phê duyệt hsố điều chỉnh giá đất
bồi thường các chính sách bồi thường, hỗ trợ để giải phóng mặt bằng thực hiện
dự án khu dân cư do Công ty Cổ phần P2 làm chủ đầu tư trên địa bàn xã L, huyện
C Quyết định số 8802/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 của Ủy ban nhân dân
huyện về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định dự án khu
dân do Công ty Cổ phần P2 đầu tại L, huyện C. Đơn giá này phù hợp quy
định tại Điều 112 Luật Đất đai năm 2013 về nguyên tắc phương pháp xác định giá
đất và khoản 1 Điều 15 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định về xác định giá đất. Căn cứ khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013
về nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất, Ủy ban nhân dân huyện
C ban hành Quyết định 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 áp giá bồi thường đối
với trường hợp của ông Đ là đúng quy định của pháp luật.
[2.2.3] Các Quyết định thu hồi đất s 8820/QĐ-UBND, Quyết định bi
thường 9464/QĐ-UBND cùng ngày 06/12/2019 được ban hành đúng quy đnh
ca pháp lut, ông Đ không chp nh giao đất để thc hin d án. y ban nhân
dân huyn cùng các ngành chức năng đã vận động ông Đ nhiu lần nhưng ông
không chp hành nên Ch tch y ban nhân dân huyn C ban hành Quyết đnh s
5817/QĐ-UBND v việc cưỡng chế thu hồi đất đi vi ông Đ đúng quy đnh
ca pháp lut.
[2.2.4] Đối vi các Quyết định s 860/QĐ-UBND ngày 02/3/2023 và Quyết
định s 1135/QĐ-UBND ngày 21/3/2023 v việc điều chnh tên s dụng đt t h
ông (bà) Mai Văn Đ thành ông (bà) Mai Văn Đ phù hp vi giy chng nhn
quyn s dụng đất được cp.
[2.2.5] Đối vi Quyết định áp dng bin pháp khn cp tm thi s
01/2024/QĐ-BPKCTT ngày 16/4/2024, tạm đình chỉ vic thi hành quyết định
hành chính là Quyết định s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch y
ban nhân dân huyn C, tnh Long An v việc cưỡng chế thu hồi đất. Xét thy các
Quyết đnh thu hồi đất s 8820/QĐ-UBND v vic thu hồi đất và Quyết đnh s
9464/QĐ-UBND cùng ngày 06/12/2019 v vic bồi thường khi thu hi đất, Quyết
định cưỡng chế thu hồi đất s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 đúng quy đnh
ca pháp luật, do đó việc áp dng bin pháp khn cp tm thi là không cn thiết
nên Toà án cấp sơ thẩm hy b Quyết định trên là đúng quy định pháp lut.
[2.2.6] Ông Đ cho rng không nhn Quyết định thu hồi đất Quyết
định bồi thường nhưng Kết luận giám đnh s 145/KL-KTHS ngày 15/4/2025 ca
30
Phân vin Khoa hc hình s ti Thành ph H Chí Minh - V Văn bản s
623/CV-C09B ngày 07/5/2025 ca Phân vin Khoa hc hình s ti Thành ph H
Chí Minh - V thì ch ký, ch viết đúng của ông Mai Văn Đ. Luật sư đề ngh hy
án vì không đối thoi, trình t th tục không đúng là không có cơ s vì ông Đ
đơn yêu cầu không tiến hành đi thoi. Toà án vn tiến hành đối thoi mt ln.
Ti cp phúc thẩm, c đương s cũng được biết các tài liu chng c trong h
sơ và Toà án tạo điều kiện cho các bên thương lượng nhiu ln.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử
đúng pháp luật. Ông Đ, bà C kháng cáo không có cơ sở. Do đó, Hội đồng xét x
không chấp nhận kháng cáo ca ông Đ, bà C, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị.
Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Đ, C không
phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Đ, C không phải chịu án phí
phúc thẩm do là người cao tuổi.
[5] Về chi phí tố tụng tại cấp phúc thẩm: Ông Đ phải chịu, đã nộp xong.
các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 30; 32; 116; Điều 193; khoản 1 Điều 241; Điều 348 Điều
349 của Luật Tố tụng hành chính;
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 66, Điều 62, Điều 68, Điều 69, Điều 71
khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ khoản 1 Điều 15 Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ quy định về xác định giá đất;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
Không chp nhn kháng cáo ca ông Mai Văn Đ Lâm Thị C. Giữ
nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 145/2024/HC-ST ngày 31/7/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Long An, cụ thể như sau:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Mai Văn Đ về việc
yêu cầu:
- Hy Quyết định s 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y ban nhân
dân huyn C, tnh Long An v vic thu hồi đất.
- Hy Quyết định s 9464/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca y ban nhân
dân huyn C, tnh Long An v vic bồi thường, h tr khi thu hồi đất.
- Hy Quyết định 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch y ban
nhân dân huyn C v việc cưỡng chế thu hồi đất.
31
- Buc UBND huyn C, tnh Long An thc hin nhim v, công v xác định
li mc bồi thường thit hi giá tr quyn s dụng đất và các khon h tr cho ông
Đ theo quy định ca pháp lut.
2. Hy Quyết định áp dng bin pháp khn cp tm thi s 01/2024/QĐ-
BPKCTT ngày 16/4/2024 tạm đình chỉ vic thi hành quyết định hành chính
Quyết đnh s 5817/QĐ-UBND ngày 21/11/2023 ca Ch tch y ban nhân dân
huyn C, tnh Long An v việc cưỡng chế thu hồi đất Quyết định hành chính
s 8820/QĐ-UBND ngày 06/12/2019 ca Ch tch y ban nhân dân huyn C,
tnh Long An v vic thu hi đất đối vi ông Mai Văn Đ.
3. Các Quyết định hành chính liên quan s 860/QĐ-UBND ngày
02/3/2023; Quyết định 1135/QĐ-UBND ngày 21/3/2023 ca y ban nhân dân
huyn C, tỉnh Long An là đúng quy định ca pháp lut.
4. Về chi phí tố tụng tại sơ thẩm: Ghi nhận sự tự nguyện của ông Mai Văn Đ
chịu 3.000.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, ông Đ đã nộp xong.
5. Về án phí hành chính thẩm: Ông Mai Văn Đ không phải chịu án phí
hành chính sơ thẩm.
6. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Mai Văn Đ và bà Lâm Thị C không
phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
7. Về chi phí tố tụng tại cấp phúc thẩm: Ông Đ phải chịu, đã nộp xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh;
- TAND tỉnh Long An;
- VKSND tỉnh Long An;
- Cục THADS tỉnh Long An;
- Đương sự;
- Lưu HSVA (NTCL).
Tải về
Bản án số 554/2025/HC-PT Bản án số 554/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 554/2025/HC-PT Bản án số 554/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất