Bản án số 02/2025/HC-PT ngày 24/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 02/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 02/2025/HC-PT ngày 24/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Phòng
Số hiệu: 02/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/04/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: yêu cầu huỷ quyết định hành chính
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 02/2025/HC-PT
Ngày 24-4-2025
V/v khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý đất đai
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Hải Yến
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Thuý Hà
Ông Nguyễn Quang Kiên
- Thư ký phiên tòa: Vũ Thị Thúy Quỳnh - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
tòa: Bà Phạm Thị Duyên - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 01/2025/TLPT-HC ngày 10 tháng 3
năm 2025 về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai và các văn bản liên quan do Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST
ngày 13 tháng 11 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử số 01/2025/QĐXXPT-HC ngày 14
tháng 3 năm 2025 Quyết định tạm ngừng phiên toà số 01/2025/QĐ-PT ngày
10/4/2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Đặng Thị M; nơi trú: Tổ dân phố 10, thị trấn B,
huyện C, thành phố Hải Phòng; có mặt;
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị
Minh Châu, luật Văn phòng luật sư Minh Châu & Cộng Sự, thuôc Đoàn luật
thành phố Hà Nội; có mặt.
- Người bị kiện: Uỷ ban nhân dân thị trấn B; địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn
B, huyện C, thành phố Hải Phòng; người đại diện theo pháp luật: Ông Trọng
Hiệu - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B; có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Đình H, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 117 đường Cái Bèo, thị trấn
B, huyện C, thành phố Hải Phòng;mặt;
2
Người đại diện theo Uỷ quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
anh Vũ Đình H: Bà Phạm Duy Ly, sinh năm 1984; nơi cư trú: Số 302H3 ngõ 59 Lê
Gia Đỉnh, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; có mặt;
2. Anh Quốc Đ, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 375 Ngô Gia Tự, phường
Đằng Lâm, quận A, thành phố Hải Phòng; mặt;
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của anh H anh Đ: Nguyễn
Thị Minh Châu, luật sư Văn phòng luật sư Minh Châu & Cộng Sự, thuôc Đoàn luật
sư thành phố Hà Nội;có mặt.
NI DUNG V ÁN:
Tại đơn khởi kiện trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa
sơ thẩm, người khởi kiện trình bày:
Bà Đặng Thị M xây dựng gia đình với ông Vũ Văn Sinh năm 1985 và có hai
người con anh Đình H, sinh năm 1986 anh Quốc Đ, sinh năm 1994.
Năm 1994 vợ chồng khai phá đất hoang trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ đến năm
1997 ông Sinh làm thủ tục đăng ký kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Năm 2000, vợ chồng bà được Uỷ ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất diện tích 110.000 vị trí tại Áng Khe Thùng, thị trấn B, loại
đất lâm nghiệp, thời hạn giao 50 năm mang tên ông Văn Sinh. Năm 2003, Uỷ
ban nhân dân thị trấn B giao thêm cho gia đình bà một diện tích đất, biên bản
làm việc ghi rõ vị trí, mốc giới gia đình đã trồng cây sưa để phủ xanh đất
trống làm kinh tế vườn. Ngày 04/8/2020 ông Sinh nhận được Quyết định
2366/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân huyện C (sau đây gọi Quyết định 2366)
về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 110.000 m² đã được nhà nước
thu hồi theo Quyết định 1271/QĐ- UBND ngày 29/4/2004 của Uỷ ban nhân dân
thành phố Hải Phòng (sau đây gọi Quyết định 1271). NH trước đó ông Sinh
không nhận được quyết định 1271. Ông Sinh gửi đơn khiếu nại Quyết định
2366/QĐ-UBND đến UBND huyện C, sau đó nhận được Quyết định 3171/QĐ-
UBND ngày 10/12/2020 của Uỷ ban nhân dân huyện C bác đơn khiếu nại của
chồng (sau đây gọi Quyết định 3171). Thời gian sau ông Sinh đã khởi kiện
các Quyết định 2366/QĐ-UBND 3171/QĐ-UBND ra Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng. Ngày 24/9/2021, Tòa án đã đình chỉ vụ án. Ngày 17/12/2021 ông
Sinh mất.
Sau khi ông Sinh mất gia đình mới biết vụ việc ông Sinh khiếu kiện
ngày 22/4/2022 anh Quốc Đ làm đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy
quyết định số 1271/QĐ-UBND, đến ngày 14/02/2023 anh Đ tiếp tục yêu cầu Tòa
án hủy quyết định số 2366/-UBND và 3171/-UBND Quyết định
806/QĐ-UBND ngày 11/4/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc
thu hồi đất của Công ty Hà Phú giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài
nguyên Môi trường Hải Phòng quản lý (sau đây gọi là Quyết định 806), hiện tại gia
3
đình bà đang theo đuổi vụ kiện tại Tòa án cấp cao tại Hà Nội. Bên cạnh đó gia đình
cũng làm đơn tcáo gửi các quan thẩm quyền với do quá trình thu hồi
đất của gia đình bà có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Trong khi hai vụ kiện hành chính, 01 vụ tố cáo chưa giải quyết xong thì Uỷ
ban nhân dân thị trấn B ban hành Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 15/01/2024
(sau đây gọi Quyết định số 15) xử phạt M về hành vi “Vào hồi 14h15' ngày
05/01/2021 M hành vi Đưa các vật khác lên đất của người khác gây cản trở
cho việc sử dụng đất của người khác, cụ thể là đưa 530 cây (gồm sưa, quất hồng bì,
keo, nhãn, chuối, lát, bưởi..) vào thửa đất của Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc
Sở Tài nguyên Môi trường Hải Phòng quản (376 cây trên diện tích 11ha) đất
của Uỷ ban nhân dân thị trấn B (154 cây trên diện tích 0,09ha).
Quyết định số15 xử phạt hành chính đối với M sai đối tượng: Bởi lẽ,
người trồng cây là chồng bà, ông Vũ Văn Sinh. Từ năm 1992 cho đến khi mất, ông
Sinh là người trực tiếp trồng số cây trên phần đất 11 ha đã được cấp sổ đỏ. Ông
còn thuê thợ để trồng chăm c cây, và các con chỉ người phụ giúp. Khi
các con trưởng thành ra ở riêng và năm 2021 ông Sinh mất thì bà là người trực tiếp
trông coi, chăm sóc vườn cây và canh tác trên thửa đất vì vậy Quyết định số 15 xác
định bà là đối tượng vi phạm là sai đối tượng vi phạm.
Quyết định số 15 xử phạt vi phạm hành chính không căn cứ không
có hành vi vi phạm, cụ thể như sau:
Tại Mục 2 Quyết định 15 nêu: "Vào hồi 14 giờ 15 ngày 05/01/2024,
M đã có hành vi 'Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở việc sử
dụng đất của người khác' (cụ thể là đưa 530 cây gồm: sưa, quất hồng bì, keo, nhãn,
chuối, lát, bưởi... lên thửa đất)."
Tuy nhiên, vào thời điểm này, M không có bất cứ hành vi nào như Quyết
định 15 quy chụp, số cây trên gia đình trồng từ năm 1994, 2003. Bà một phụ
nữ 60 tuổi, vừa mới phẫu thuật cột sống và việc đi lại còn rất khó khăn. Chính Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân huyện C đã phải đến thăm do này. Do đó, nội dung
"Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở việc sử dụng đất của
người khác" là không có thật. Nếu có ai đó trồng 530 cây vào ngày 05/01/2024 như
Quyết định 15 nêu, thì bây giờ số cây này đang ở đâu?
Quyết định 15 cho rằng vào ngày 05/01/2024 bà M "đã đưa 376 cây lên thửa
đất diện tích 11 ha do Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên Môi
trường thành phố Hải Phòng quản lý" sai sự thật. Thực tế, Trung tâm phát triển
quỹ đất không hề quản đất này. Bằng chứng số cây gia đình trồng liên tục
từ năm 1992 đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Số cây trên 11 ha đất đó không chỉ
376 cây như Quyết định 15 quy chụp, thực tế đã được xác định hàng nghìn
cây, với tuổi thọ từ 20 đến 30 năm. Số lượng cây và tuổi cây đã được xác định qua
4
vi bằng các con M đã lập gia đình bà đã nộp vi bằng này đến Tòa để
chứng minh rằng Quyết định 15 là vô căn cứ.
Quyết định 15 quy chụp M "đã đưa 154 cây lên diện tích 0,094 ha đất do
UBND thị trấn B, huyện C, thành phố Hải Phòng quản lý" sai sự thật. Trên thực
tế, phần đất này chồng bà M đã được UBND thị trấn giao cho lần thứ hai vào ngày
08/04/2003, biên bản bàn giao kèm theo. Vào năm 2003, khi đất được giao lần
thứ hai, gia đình bắt đầu trồng cây trên diện tích được giao. vậy, UBND thị
trấn không quản lý đất này, bằng chứng là số cây vẫn còn nguyên và được xác định
qua vi bằng.
Về thời hiệu của hành vi vi phạm hành chính: Giả sử việc trồng cây "vi
phạm", thì hành vi này đã diễn ra liên tục từ năm 1992 đến nay. Số cây và tuổi cây
đã chứng minh rằng hành vi bị quy chụp đã xảy ra hơn 30 năm. Ngay cả cây trẻ
nhất cũng đã 14 tuổi, tức là đã hết thời hiệu xử phạt (02 năm) từ lâu.
Quyết định số 15 xâm phạm đến quyền lợi ích hợp pháp của các con bà
do chồng đã mất uất ức trước những thủ đoạn chiếm đoạt đất đai tài sản, mà
bà M và các con trai là những người thừa kế hợp pháp theo pháp luật đối với di sản
của chồng bà, bao gồm ng trình cây cối trên đất. Bên cạnh đó, hai người con
trai của bà cũng quyền sở hữu một phần tài sản này do công lao đóng góp trong
việc trồng chăm sóc số cây. Nay Quyết định 15 không chỉ quy chụp sai sự thật
còn không đề cập đến quyền lợi của các con M, xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì những lẽ trên, bà M có đơn khởi kiện vụ
hành chính ra Tòa án nhân dân huyện C.
Sau khi Tòa án nhân dân huyện C thụ vụ án, ngày 20/6/2024 UBND thị
trấn B ban hành Quyết định số 173/QĐ-UBND về việc thu hồi Quyết định số 15
(sau đây gọi Quyết định số 173), nH đến ngày 27/8/2024, UBND thtrấn B tiếp
tục ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024 thu hồi Quyết định số
173, mục đích khôi phục hiệu lực của Quyết định số 15 (sau đây gọi Quyết định
số 222).
Tại phiên đối thoại lần 2 tại phiên tòa, bà M yêu cầu giữ nguyên Quyết
định số 173, đề nghị hủy bỏ Quyết định số 222 và Quyết định số 15 của UBND thị
trấn B. Đồng thời, M yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị trấn B công khai xin lỗi trên
cổng thông tin của địa phương trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30 triệu đồng do
mất thu nhập và bồi thường thêm 03 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn
thất tinh thần mà Quyết định số 15 đã gây ra đối với gia đình M.
Tại phiên tòa người khởi kiện giao nộp bản phô Quyết định số 403/QĐ-
UBND ngày 07/11/2015 của Uỷ ban nhân dân thị trấn B về việc thi hành cưỡng
chế thực hiện quyết định 15 và yêu cầu Tòa án hủy quyết định trên.
5
Tại phiên tòa người khởi kiện đề nghị miễn án phí hành chính sơ thẩm theo
diện người cao tuổi.
* Người bị kiện vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án đã
gửi bản khai, trình bày:
Ông Văn Sinh (chồng M) được Uỷ ban nhân dân huyện C cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số E0088586 ngày 07/12/2000 theo Quyết định số
898/QĐ- UBND ngày 07/12/2000 của UBND huyện C (sau đây gọi Quyết định
898) đối với thửa đất số 48, tbản đồ số 33, diện tích 110.000m² tại Áng Khe
Thùng, thị trấn B, thời hạn sử dụng đất là 50 năm. Ngày 29/4/2004, Uỷ ban nhân
dân thành phố ban hành Quyết định số 1271/QĐ-UB thu hồi 110.000m² đất tại
Áng Khe Thùng, thị trấn B giao cho Công ty Cổ phần đầu phát triển rừng
kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái Hà Phú để thực hiện dự án xây dựng Làng du
lịch Áng Khe Thùng.
Toàn bộ cây cối, hoa màu vật kiến trúc trên đất của ông Văn Sinh đã
được Ban đền bù thành phố kiểm kê, bồi thường, hỗ trợ, tổng số tiền là:
428.156.754 đồng; ông Văn Sinh đã nhận đủ tiền theo Giấy nhận tiền giữa ông
Văn Sinh, Công ty Cổ phần đầu phát triển rừng và kinh doanh dịch vụ du
lịch sinh thái Phú, dưới sự chứng kiến của Ban Đền thành phố Uỷ ban
nhân dân thị trấn B và đã thực hiện việc bàn giao đất cho công ty Hà Phú theo Biên
bản xác nhận lập ngày 22/6/2004 giữa ông Văn Sinh, Công ty Cổ phần đầu
phát triển rừng và kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái Hà Phú, dưới sự chứng kiến
của Uỷ ban nhân dân thị trấn B.
Ngày 11/4/2017, UBND thành phố ban hành Quyết định số 806/QĐ-UBND
về việc thu hồi 110.000m² đất của Công ty Cổ phần đầu phát triển rừng và kinh
doanh dịch vụ du lịch sinh thái Hà Phú tại thị trấn B, huyện C do vi phạm pháp luật
về đất đai, giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên Môi
trường Hải Phòng quản lý theo quy định.
Ngày 04/8/2020, Uỷ ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số
2366/QĐ- UBND về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sdụng đất mang tên
ông Vũ Văn Sinh được cấp theo Quyết định số 898/QĐ-UB ngày 07/12/2000.
Ngày 18/10/2023, Uỷ ban nhân dân thị trấn B tiến hành kiểm tra hiện trạng
sử dụng đất tại khu vực Áng Khe Thùng, phát hiện số lượng 350 cây sưa trồng trên
diện tích đất do Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Uỷ ban nhân dân thị
trấn B quản lý.
Cùng với việc kiểm tra của Uỷ ban nhân dân thị trấn B, Trung tâm Phát triển
quỹ đất thành phố đã thành lập Tổ công tác đthực hiện kiểm đếm, soát, phân
loại toàn bộ cây trồng nằm trong khuôn viên 110.000m². Ngày 26/12/2023, của
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố ban hành Công văn số 6742/STNMT-
6
TTPTQĐ nội dung: "Từ ngày 10/11/2023 đến ngày 23/11/2023, Tổ công tác đã
thực hiện kiểm đếm, soát, phân loại toàn bộ cây trồng nằm trong khuôn viên
110.000 m² do Trung tâm phát triển quỹ đất đang quản lý, kết quả tổng số cây hiện
là 2.989 cây, bao gồm: 2.613 cây đã trong phương án bồi thường, 376 cây
phát sinh không có trong phương án bồi thường".
- Ngày 26/11/2023, Uỷ ban nhân dân thị trấn B làm việc và lập biên bản làm
việc số 09/BB-LV với Đặng Thị M, trong đó xác định M hành vi chiếm
đất phi nông nghiệp (diện tích 134,5m²) đất nông nghiệp (diện tích 940,7m²) tại
khu vực đô thị. Tại buổi làm việc, M vắng mặt, chứng kiến của đại diện khu
dân cư.
Căn cứ Biên bản làm việc lập ngày 26/11/2023, vào hồi 16h10 phút ngày
26/11/2023 Công chức Địa chính-Xây dựng-Đô thị Môi trường thị trấn B đã lập
biên bản vi phạm hành chính số 08/BB-VPHC đối với Đặng Thị M với hành vi
“Chiếm đất phi nông nghiệp đất nông nghiệp tại khu vực đô thị” với diện tích
đất vi phạm 1.075,2m², quy định tại điểm c, khoản 3, điểm a, khoản 4, khoản 5,
Điều 14 Nghđịnh số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Bà M không ký biên bản, lý do: Bà M đã ủy quyền cho 02 con trai nên bà M
không tuy nhiên M không cung cấp văn bản ủy quyền; buổi làm việc
chứng kiến của đại diện khu dân cư.
Qua xác minh, bà M ông Vũ Quốc H (là con trai bà M) có lập văn bản ủy
quyền cho ông Quốc Đ đại diện thực hiện quyền khiếu nại Quyết định số
1271/QĐ-UB ngày 22/4/2004 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, khởi
kiện vụ án hành chính (nếu có); không nội dung ủy quyền quản lý, thực hiện
quyền, nghĩa vụ đối với cây cối, tài sản trên đất tại khu vực Áng Khe Thùng. Uỷ
ban nhân dân thị trấn B đã mời các cá nhân liên quan là bà M, anh H và anh Đ (con
đẻ của M) nH đều không tham gia làm việc (Biên bản số 14/BB-UBND ngày
05/12/2023).
Do hành vi vi phạm có áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc nộp lại
số lợi bất hợp pháp được do hành vi vi phạm, không thuộc thẩm quyền xử phạt
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B nên ngày 27/11/2023, Uban nhân dân
thị trấn B gửi Báo cáo số 1055/BC-UBND kèm hồ xử phạt đến Chủ tịch UBND
huyện C để xem xét, ban hành quyết định xử phạt.
Ngày 01/12/2023, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện ban hành Công văn số
3676/UBND- TP về việc xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính đối với
việc sử dụng đất tại khu vực Áng Nâu Áng Khe Thùng thuộc địa phận thị
trấn B, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B đã tiến hành 03 lần xác minh tình tiết
vụ việc. Tại biên bản làm việc ngày 21/12/2023, bà M thừa nhận số cây nêu trên do
7
chồng ông Văn Sinh trồng từ năm 2015, năm 2021 ông Sinh chết từ đó
gia đình bà quản lý trông coi, bảo vệ số cây trên.
Căn cứ Biên bản vi phạm hành chính số 08/BB-VPHC ngày 26/11/2023
Biên bản xác minh số 01/BB-XM ngày 05/01/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị
trấn B đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024 đối với Đặng Thị M với hành vi vi phạm hành chính "Đưa các vật
khác lên thửa đất của người khác gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác"
quy định tại khoản 1, Điều 16, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/01/2019 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Như vậy, trình tự, thủ tục ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B đối với
bả Đặng Thị M đảm bảo về thời hiệu, thời gian và tuân thủ theo quy định của Luật
Xử vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 và Nghị định số
118/2021/NĐ-CP.
Về xác định đối tượng vi phạm tại Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024: Tại điểm a, khoản 1 Điều 2 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP quy định
đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính: "a) Hộ gia đình, cộng đồng dân cư,
nhân trong nước, cả nhân nước ngoài, người Việt Nam định nước ngoài (sau
đây gọi chung là cá nhân)"
Theo quy định nêu trên, đối chiếu với hồ xử phạt vi phạm hành chính tại
các biên bản làm việc biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành
chính đều xác định số cây trồng bổ sung tại khu vực Áng Khe Thùng do ông Sinh
(chồng bả M) đã trồng. Tại thời điểm ông Sinh có hành vi vi phạm, ông Sinh đang
trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp với bà Đặng Thị M, tại thời điểm phát hiện hành
vi vi phạm ông Sinh đã chết nH M đang chăm sóc và bảo vệ số cây trồng trên,
do đó việc xác định bà Đặng Thị M là đối tượng vi phạm hành chính là có cơ sở.
Về xác định hành vi vi phạm tại Quyết định 15/QĐ-XPHC: Tại Biên bản xác
minh nh tiết vụ việc vi phạm hành chính s01/BB-XM do Ủy ban nhân dân thị
trấn B lập ngày 05/01/2024, Đặng Thị M xác định số lượng cây trồng 530
cây, trong đó 350 cây Sưa khoảng 180 cây khác được ông Sinh và gia đình
trồng từ năm 2015, sau khi ông Sinh mất M vẫn đang trông coi, bảo vệ số cây
trên. Số cây trên được trồng trên diện tích đất do Trung tâm phát triển quỹ đất S
Tài nguyên Môi trường thành phố Uỷ ban nhân dân thị trấn B quản vậy
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B xác định Đặng Thị M hành vi vi phạm
hành chính "Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở cho việc sử
dụng đất của người khác" là có cơ sở.
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Hành vi vi phạm hành chính
“Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở cho việc sử dụng đất
của người khác" quy định tại khoản 1, Điều 16 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày
8
19/01/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai hình thức xử phạt chính là "Cảnh cáo" biện pháp khắc phục hậu quả
"Buộc khôi phục lại tỉnh trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm".
Căn cứ điểm a, điểm d, khoản 1, Điều 38, Luật Xử vi phạm hành chính
năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020:
Điều 38. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền:a) Phạt cảnh cảo;
...d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b, c và đ
khoản 1 Điều 28 của Luật này.
Như vậy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B ban hành Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024 đối với Đặng Thị M
đúng thẩm quyền. Đối với ý kiến của của M cho rằng Quyết định 15 quy chụp
M "đã đưa 154 cây lên diện tích 0,094 ha đất do Uỷ ban nhân dân thị trấn B,
huyện C, thành phố Hải Phòng quản lý" sai sự thật phần đất này chồng M
đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn giao cho lần thứ hai vào ngày 08/04/2003 có biên
bản bàn giao kèm theo. Đại diện Uỷ ban nhân dân thị trấn quan điểm như sau:
Đối với Biên bản làm việc ngày 08/4/2003 M đề cập Biên bản giao đất
thực địa lần 2 theo Quyết định 898, trong biên bản các thành viên đều xác định,
ngoài chỉ giới được giao theo Quyết định 898, ông Sinh còn tự ý trồng thêm một số
cây lâm nghiệp (keo tràm, keo tai tượng) và cũng chính trên khu vực này thời
gian sau đó gia đình M đã trồng thêm cây gỗ Sưa. Phần diện tích này là rừng
phòng hộ do Uỷ ban nhân dân thị trấn B quản lý, biên bản không đề cập đến việc
giao cho ông Sinh khu đất này như ý kiến trình bày của người khởi kiện.
- Về việc ban hành Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024: Sau khi
ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024, Uỷ ban nhân dân thị trấn B cũng đã nhận được các phiếu chuyển đơn:
số 16/PC-VPCQCSĐT ngày 05/02/2024 của Văn phòng quan Cảnh sát điều tra
Công an thành phố Hải Phòng; số 37-BBĐ/BTP-2024 ngày 12/3/2024 của Báo
Tiền phong; số 653/PCĐ-CSKT(Đ3) của phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm v
tham những, kinh tế, buôn lậu và môi trường - Công an thành phố Hải Phòng về
việc xem xét giải quyết đơn kêu cứu khẩn cấp của anh Quốc Đ (con trai
Đặng Thị M).
Sau khi Tòa án tiến hành thụ ván hành chính tổ chức đối thoại, Uỷ
ban nhân dân thị trấn B nhận thấy các bên thiện chí giải quyết vụ việc nên đã
chủ động soát lại toàn bộ hồ xử phạt vi phạm hành chính, trình tự ban hành
Quyết định số 15/QĐ-XPHC và đã ban hành Quyết định số 173/QĐ-UBND hủy bỏ
quyết định trong xphạt vi phạm hành chính số 15 đúng thẩm quyền, phù hợp
với quy định của pháp luật.
9
- Về việc ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024: Ngày
02/8/2024, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 2151/QĐ-
UBND về việc kiểm tra đột xuất việc thi hành pháp luật về xử vi phạm hành
chính đối với Uỷ ban nhân dân thị trấn B trong đó hồ xử phạt vi phạm hành
chính đối với bà Đặng Thị M.
Trên sở Kết luận số 2707/KL-UBND ngày 20/8/2024 của Uỷ ban nhân
dân huyện C về kiểm tra đột xuất việc thi hành pháp luật về xử vi phạm hành
chính đối với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B, ngày 27/8/2024 Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân thtrấn B đã ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND về việc hủy bỏ
Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024, khôi phục Quyết định số 15/QĐ-
XPHC ngày 05/01/2024 để thi hành là đúng thẩm quyền, phù hợp với quy định của
pháp luật.
Đối với yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị trấn B công khai xin lỗi trên cổng
thông tin của địa phương trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30 triệu đồng do mất
thu nhập bồi thường thêm 3 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn thất
tinh thần Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024 đã gây ra đối với gia
đình M, Uỷ ban nhân dân thị trấn B không chấp nhận với lý do quá trình lập hồ
sơ, ban hành Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024, Uỷ ban nhân dân thị
trấn B đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định theo Luật xử vi phạm hành chính
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
vậy người bị kiện đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của người khởi kiện.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án anh Đình H anh
Vũ Quốc Đ thống nhất trình bày:
Việc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B ban nh Quyết định 15/QĐ-
XPHC đã vi phạm về thời hiệu, sai đối tượng, không có hành vi vi phạm, quá trình
thực hiện cán bộ địa phương ra vào nhà M liên tục nên khách không muốn thuê
nhà, tài khoản bị kiểm tra tkhông thể giao dịch được, ảnh hưởng đến tinh thần,
công việc kinh doanh của bà M, với trách nhiệm là các con nên anh H, anh Đ cũng
phải lo lắng, đi lại ảnh hưởng đến công việc. Anh H, anh Đ đồng ý với yêu cầu của
người khởi kiện. Tại phiên tòa anh H anh Đ đều xác định đã chuyển sinh sống
làm việc nơi khác, sau khi ông Sinh mất chỉ M người trông coi, quản
số cây gia đình đã trồng.
cứ nội dung trên, tại bản án hành chính thẩm số 02/2024/HC-ST ngày
13/11/2024, Tòa án nhân dân huyện C đã quyết định : Căn cứ vào khoản 1 Điều
30, khoản 1 Điều 31, điểm a khoản 1 Điều 116, Điều 157; Điều 158; điểm a khoản
2 Điều 193; Điều 194, điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ Điều 6; Điều
18; Điều 28; Điều 38; Điều 57; Điều 58; Điều 68 của Luật xử vi phạm hành
chính; Căn cứ Điều 206 của Luật Đất đai 2013; Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 16
10
Nghị định số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai; Căn cứ Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12
năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều biện pháp thi hành Luật
xử vi phạm hành chínhvề kiểm tra, xử kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử
vi phạm hành chính; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Căn cứ Thông 02/2023 ngày
24/8/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều 55 Luật
trách nhiệm bồi thường nhà nước. Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của Đặng Thị M
về việc hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024; hủy Quyết định hủy bỏ Quyết định s 173/QĐ-UBND về việc hủy bỏ
quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính số 222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024;
giữ nguyên Quyết định hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính số
173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 của Chủ tịch UBND thị trấn B, huyện C, thành
phố Hải Phòng. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị M về việc buộc UBND thị
trấn B công khai xin lỗi trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30.000.000 đồng do
mất thu nhập và bồi thường 03 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn thất
tinh thần.
Ngoài ra Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí thông báo về
quyền kháng cao của đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/11/2024 người khởi kiện M, người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan anh Quốc Đ kháng cáo toàn bộ bản án thẩm, yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm người khởi kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người khởi kiện, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo
giữ nguyên kháng cáo, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện quan điểm mặc bản
án hành chính sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện C vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng về việc đưa thiếu người tham gia tố tụng chủ tịch Uỷ ban nhân dân
thị trấn C, bỏ lọt đối tượng khởi kiện Quyết định cưỡng chế số 403/QĐ-
CCQĐHC ngày 07/11/2024 mà M yêu cầu giải quyết tại phiên toà thẩm tuy
nhiên để tránh mất thời gian chi phí của Nhà nước và nhân dân nên đề nghị Hội
đồng xét xử không huỷ bản án thẩm sửa bản án thẩm đề nghị Tòa án
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024; hủy Quyết định hành chính số 222/QĐ-UBND
ngày 27/8/2024; giữ nguyên Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 của
Chủ tịch UBan nhân dân thị trấn B, huyện C, thành phố Hải Phòng về việc hủy
bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính buộc Uỷ ban nhân dân thị trấn
B công khai xin lỗi trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30.000.000 đồng do mất thu
nhập và bồi thường 03 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn thất tỉnh thần.
11
Ý kiến của Kim sát vn tại phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm pn, Hội đồng xét x Thư phiên a đã tuân th
đúng quy định của pháp luật t khi th ván cho đến trước thời đim nghị
án. Các đương svề bản thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của người tham gia
tố tng theo quy đnh ca Luật Tố tụng hành cnh.
Về nội dung:
Mặc dù bản án thẩm còn nhiều thiếu t, đã vi phm thtc t tụng
trong vic đưa thiếu người tham gia t tụng, xem xét chưa đầy đ toàn diện c
Quyết định hành cnh liên quan trong v án. Tuy nhiên xét thấy nội dung bản
án ng đã xem xét giải quyết c tất cả các Quyết định nh chính b khởi kin.
Tại giai đoạn phúc thẩm, Chủ tịch Uban nhân dân thị trn B có ý kiến hoàn
toàn nhất trí vi quan đim của Uban nn dân thị trấn B như bản án sơ thẩm
đã nêu.Vic xem xét thiếu Quyết đnh cưỡng chế thi hành Quyết định xphạt vi
phm hành chính s 403/-CCXP ngày 07/11/2024 khi tại phn toà người
khởi kiện mới yêu cầu, đối với u cầu y người khởi kiện quyền khi kiện
bằng một v án khác nếu có yêu cầu. T các nhận định trên và xem xét ni dung
gii quyết vụ án của Toà án cấp thm, t thy không cần thiết phải hủy bn
án thẩm s 02/2024/HC-ST ngày 13/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện C, do
đó không n cứ để chp nhận kháng cáo của người kng cáo, n n cứ
Điều 241 Luật Tố tụng hành chính đề nghị HĐXX bác đơn kng cáo ca người
kháng cáo, ginguyên bn án sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 13/11/2024 ca
Toà án nhân n huyện C.
Về án phí: theo quy định pháp luật.
NHN ĐỊNH CỦA A ÁN:
n c vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem t tại phiên a, kết
qu vic tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến ca Kim sát viên, các quy định của
pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:
-V thủ tục tố tụng:
[1.1] Ngày 26/11/ 2024 M, anh Đ có đơn kháng o bản án hành cnh
thẩm 02/2024/HC-ST ngày 13/11/2024 của Tòa án nn dân huyện C còn
trong thời hạn luật định và hp l nên được xem xét, giải quyết theo th tục
phúc thm.
Tại phiên t phúc thẩm người b kiện Ủy ban nn dân th trấn C đơn
xin xét xử vng mặt. Do đó Hội đồng xét xn ckhon 4 Điều 225 Luật Tố
tụng nh chính tiến hành xét xử vng mặt người bị kin.
12
[1.2] Ngày 01/5/2024 Đặng Th M đơn khi kiện hành chính yêu
cầu a án nhân dân huyện C huQuyết đnh xpht vi phạm hành chính số
15/-XPHC ngày 05/01/2024; hủy Quyết định số 222/QĐ-UBND về việc hủy
bỏ quyết định trong x pht vi phm hành; gingun Quyết số 173/-UBND
ngày 20/6/2024 của Ch tịch Uỷ ban nn dân th trấn B, huyện C, thành ph
Hải Phòng vviệc hy bỏ quyết định trong xphạt vi phạm hành chính, buc
Uỷ ban nhân n thị trấn B công khai xin lỗi trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường
30.000.000 đồng do mất thu nhập và bi thường 03 tháng lương tối thiểu
(7.020.000 đồng) do tổn thất tnh thần. Căn c Điều 30, Điều 32, Điều 116 Luật
Tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân huyện C thụ vụ án gii quyết theo th
tục sơ thm là đúng thm quyền và ván còn trong thời hiu khởi kiện.
[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện u cầu T án hu
Quyết định xpht vi phạm hành chính và một sc Quyết định nh cnh
khác có liên quan đến Quyết đnh x phạt vi phm hành chính, buc Uỷ ban
nhân dân thị trn B phi thực hiện việc bồi thường và công khai xin lỗi người
khởi kin, Toà án cp sơ thm chỉ xác định người b kiện là Uban nn dân thị
trấn B đã kng đưa chủ tch Uỷ ban nhân n thị trấn B vào tham gia tố
tụng vi tư cách người bị kiện chỉ tham gia vi cách là người đi diện
theo pp luật của người b kin là Uỷ ban nhân dân thị trấn B. Tuy nhiên quá
tnh xem xét giải quyết vụ án xét thy nội dung bản án sơ thẩm của T án
nhân dân huyện C đã xem xét giải quyết c Quyết đnh hành chính bị kin gm
Quyết định s 15/QĐ-XPHC ngày 05 tháng 01 m 2024, Quyết định s
222/QĐ-UBND ngày 27 tháng 8 năm 2024 và Quyết định s 173/QĐ-UBND
ngày 20 tháng 6 m 2024 của Chủ tịch Uban nhân dân thị trấn B, huyện C,
thành phố Hải Phòng, tại giai đoạn t xử pc thm Ch tịch Uỷ ban nhân n
th trấn B ng đã có quan điểm đối vi c yêu cầu khởi kiện ca người khởi
kin, việc không đưa Chủ tịch Uban nhân dân thị trn B vào tham gia t tụng
với tư cách là người b kiện là thiếu sót của bản án sơ thẩm tuy nhiên Hi đồng
t xnhận thy Ch tch Uban nhân n thị trấn B đng thi ng là người
đại diện theo pp lut của Uỷ ban nhân dân th trn B cùng thc hiện nhim v
ng vụ của nhà nước giao cho cnh quyền cơ s, bản thân Ch tch Uỷ ban
nhân dân thị trấn B trực tiếp tham gia vụ án, đã có quan điểm của nh trong
vic ban hành các Quyết định hành chính b khởi kiện, do vậy việc không đưa
Ch tch Uban nhân dân th trấn B tham gia với ch là nời bị kin cũng
không m thay đổi bn chất của nội dung v án, không làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương s nên Hi đng xét x xét
thy kng cần thiết phải hubản án sơ thm vẫn đm bảo giải quyết được
quyền và lợi ích của các đương s trong v án như đề ngh ca đại diện Viện
kim sát cũng như ý kiến ca người bảo v quyền lợi ích hợp pp của người
khởi kiện đã trình bày.
13
[1.4] Tại phiên tòa thm người khởi kin u cầu đ nghị Hội đồng
t x giải quyết hy Quyết định cưỡng chế s 403/QĐ-UBND ngày
07/11/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn B. Hội đồng t xt thấy
đối với Quyết đnh Cưỡng chế số 403/QĐ-UBND được ban hành trong quá tnh
Toà án nhân dân huyện C đã quyết định đưa vụ án ra xét xvà đang trong
thi gian hoãn phiên toà, tại phiên toà sơ thm người khởi kiện u cầu T
án giải quyết đối với Quyết định này, việc T án cấp sơ thẩm đã không th
gii quyết đi với u cầu này ca xem xét đy đủ toàn diện đi với v án,
tuy nhn Quyết đnh cưỡng chế được ban hành vào ngày 07/11/2024 là thời
đim Toà án cấp sơ thm đã đưa v án ra xét x và đang hn phn toà.
Vic toà án cấp thẩm không xem xét yêu cầu y ca người khởi kiện cũng
không làm mất đi quyền khởi kiện của người khởi kiện và với u cầu này
người khởi kiện quyền khởi kiện tại T án thm quyền để xem xét giải
quyết đối với Quyết định cưỡng chế s 403/QĐ-UBND ny 07/11/2023 của
Ch tch Uỷ ban nhân n thị trn B bằng một vụ án khác để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp cho nh.
[1.5] Toà án cấp thm khi nhận được đơn kng cáo từ người
quyền lợi nga v ln quan là anh Quốc Đ nH kng ra thông báo để anh Đ
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã tiến nh c thtc kng o đi
với đơn kháng cáo của anh Đ, đây cũng là thiếu t của toà án cấp thm, tuy
nhiên thiếu sót này cp phúc thẩm th khc phục được tại giai đoạn xét x
phúc thm nên s quyết định khi giải quyết v án.
- t đơn kháng o của bà Đặng ThM anh Quốc Đ, Hội đồng t
xử xét thy:
[2] V tnh t ban hành các quyết định hành chính b khởi kiện: Ngày 29
tháng 4 m 2004, Ủy ban nhân dân Thành ph Hi Phòng đã có Quyết định số
1271/QĐ-UBND thu hi 110.000m
2
đất ti Áng Khe Thùng, thị trấn B, huyện C
giao lại cho Công ty cổ phần đầu phát triển rừng kinh doanh dch v du
lịch sinh thái Phú th đ thc hiện d án xây dựng Làng du lịch Áng Khe
Thùng, toàn bộ y cối hoa màu của ông Sinh đã được kim bồi thường, ông
n Sinh đã nhận đy đ số tin bồi thường 428.156.754 đồng theo Giấy
nhận tiền có ch ca ông Văn Sinh, giám đc Công ty cổ phần đầu tư
phát triển rừng và Kinh doanh dịch vụ du lịch Sinh thái Hà Phú, đại diện Ban
đền Thành phố và ch tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B thời điểm năm 2004
tại biên bản xác nhận ngày 22/6/2004 th hiện nội dung ông Văn Sinh đã
n giao lại cho dán của Công ty P theo Quyết định 1271/-UBND
của Uỷ ban nhân dân thành ph Hải Phòng gm các hạng mục đn bù. Ny
15/7/2004 Sở tài nguyên Môi trường đã ban hành đã ban hành Quyết định số
138/QĐ/STN&MT về việc cấp Giấy chứng nhận quyền s dụng 110.000m
2
đất
thuê cho ng ty C phần đầu tư phát triển rừng và kinh doanh dch v du lịch
14
sinh thái Hà Phú đ xây dựng ng du lịch Áng Khe Thùng với thi gian s
dụng đt là 30 năm k từ ngày 29 tháng 4 năm 2004. Ngày 11 tng 4 năm
2017, Uban nhân dân thành phố Hải Phòng ban nh Quyết định s806/QĐ-
UBND v việc thu hồi 110.000m
2
đất thuê của ng ty cổ phần đầu tư phát
triển rừng và kinh doanh dịch vdu lch sinh thái Hà P tại th trấn B, huyện C
do người sdụng đất vi phm pháp luật v đất đai và giao cho Trung tâm phát
triển quđất thuộc S tài nguyên Môi trường quản , Ny 04/8/2020 U
ban nhân dân huyện C ban nh Quyết định s 2366/-UBND v việc thu hồi
Giy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Vũn Sinh, vào sổ cấp giấy
chứng nhận quyền s dụng đất s 1202.030.QSDĐ do Uban nhân n huyện C
cấp ny 07/12/2000 kèm theo Quyết định s 898/-UB ngày 07/12/2000.
[2.1] Ti Bn bản kim tra hiện trạng s dụng đt khu vực Áng Khe
Thùng ngày 18 tháng 10 năm 2023 của Uban nhân n thtrấn B xác định
350 y Sưa đường kính từ 05cm đến 12cm, v trí trồng cây gồm có một phần
nằm trong diện tích 110.000m
2
đt thuộc loại đất phi nông nghiệp diện tích
134,5m
2
= 0,013ha do Trung tâm phát triển quđt thành ph Hải Phòng quản
, một phần nằm trong đất rừng phòng hộ với diện tích đất 940,7m
2
= 0,094 ha
do Ủy ban nhân dân thị trấn B quản lý.
Ngày 26/11/2023 Ủy ban nhân dân thị trấn B tiến hành lập biên bản m
vic ghi nhn việc tiến hành kiểm tra s dng đất của gia đình bà Đặng Th M
tại khu vực Áng Khe Thùng đã phát hiện gia đình Đặng ThM đang sử dụng
tổng diện tích đt là 1.075,2m
2
và đã trồng y Sưa tn diện tích 134,5m
2
nằm
trong diện ch 110.000m
2
do Trung m phát triển quđất Sở Tài nguyên môi
tờng Hải Phòng quản lý và 940,7m
2
đất rừng phòng hộ do Uỷ ban nhân n
th trấn B quản lý và đã tiến nh lập biên bản vi phạm hành chính s 08/BB-
VPHC ngày 26/11/2023 về lĩnh vực đất đai xác định bà Đặng Th M hành vi
vi phạm nh cnh: "Vào hồi 15 gi30 pt, ngày 26/11/2023 tại khu vực Áng
Khe Thùng, thị trấn B, huyện C, thành phố Hải phòng đã phát hin gia đình bà
Đặng Th M hành vi, vi phạm hành chính, cụ th gia đình M đã trồng y
a trên diện tích 1.075,2m
2
(trong đó: Diện tích 134,5m
2
nằm trong din ch
110.000m
2
do Trung tâm phát trin quđt S TN-MT Hải Phòng qun lý và
940,7m
2
đất rừng phòng hộ do Uban nhân dân th trấn B quản ) được quy
định tại đim c, khoản 3, điểm a khoản 4, khoản 5 Điều 14 Ngh đnh
91/2019/NĐ-CP ny 19 tháng 11 m 2019 của Chính ph quy định xử phạt vi
phm hành chính trong nh vực đất đai.
Ngày 07/12/2023 tại biên bản c minh tình tiết của v việc vi phm hành
chính của y ban nn dân th trấn B M thừa nhận s lượng 350 y a
được gia đình bà M mua tại trung m cây giống Nội và trồng trên diện ch
đất khoảng 1.000m
2
khi ông Sinh còn sống. m 2021 ông Sinh mất, bà M vn
tiếp tục tng coi, bo vsố cây trồng trên khu đất đó.
15
Ngày 26/12/2023 Trung tâm phát trin quđất sTài ngun môi trường
đã ban nh ng văn số 6742/STNMT-TTPTQĐ c định t ny 10/11/2023
đến ngày 23/11/2023, tcông tác đã thc hin kim đếm, rà st, phân loại tn
bộ y trồng nm trong khuôn viên 110.000m
2
đất do Trung tâm pt triển qu
đất đang quản , kết qutổng số y hiện 2.989 y gồm 2.613 y đã
trong phương án bồi thường, 376 cây phát sinh kng trong phương án bồi
thường.
[2.2] Tại Biên bản xác minh số 01/BB-XM ny 05/01/2024 xác định:
Qua rà soát hồ sơ bồi thường hỗ trợ năm 2004, trong phần cây cối hoa màu
được tổ ng tác kiểm đếm lập phương án bi thường giải phóng mặt bằng theo
Quyết định số 67/QĐ-STN-MT ngày 11/5/2004 của Sở Tài nguyên Môi
tờng (gồm đi din Sở i ngun và i trường, đi diện ban đn bù thành
ph, đại din phòng ng nghiệp và Phát triển nông thôn huyện C, đại diện Uỷ
ban nn dân thị trấn B) trong bảng kê s lượng y cối hoa màu của gia đình
ông n Sinh tại thời đim kim kê là 12.794 cây. Ti biên bản m việc
ngày 18/10/2023 Ủy ban nhân dân th trấn tiến hành kim tra việc sử dụng đất
tại Áng Khe Tng 350 cây Sưa trong đó có 154 cây trồng trên rừng phòng
hộ do Uỷ ban nhân n th trấn B quản lý và 196 y Sưa trồng trong khn
viên khu đt 110.000m
2
thuộc loại đt phi ng nghiệp do Trung m phát triển
quđt thành ph Hải Phòng quản lý. i liệu kiểm kê ngày 10 tháng 11 m
2023 ca Trung tâm quđất của Sở Tài nguyên và i tờng thành phố Hải
Phòng ngoài 2.613 cây đã có trong phương án được duyệt còn tổng 376 y
phát sinh thêm gm 196 y Sưa và 180 y khác như quất hồng , keo, nn,
chuối, lát, bưởi, ... đưc trồng trên diện tích 110.000 thuc loi đất phi nông
nghip ất du lch dịch v) do Trung m phát trin qu đất thuộc S i
nguyên và i trường thành ph Hải Phòng quản lý. Tại biên bản làm việc
tun truyền vận đng ngày 19/12/2023 ca Uban nhân dân th trấn B với
Đặng Th M đã ghi nhận ông Sinh trồng 350 cây Sưa năm 2015.
[3] Mc người khởi kiện cho rng toàn b s y này do chồng bà
ông n Sinh người trực tiếp trồng năm 2015 s phụ giúp của c con
, t sau năm 2021 ông Sinh chết bà M ch là người tiếp tục tng nom gìn giữ,
nh vi trồng cây này đã din ra từ rất lâu, cứ cho có việc trồng cây thì đến
nay cũng kng n thời hiệu xphạt vi phm hành chính và việc Chủ tch Ủy
ban nhân dân thị trấn B xác định M là người thực hiện nh vi vi phm hành
chính là không đúng. Hi đồng xét x xét thấy theo quy định tại khon 4 Điều 4
Nghị đnh số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/01/2019 t hành vi tiếp tục tng gi
196 cây Sưa trồng tn diện tích đất của Trung tâm phát triển quđt Sở Tài
nguyên và i trường tnh phố Hải Phòng quản lý và 154 y a trồng trên
din ch 940,7m
2
đất rừng phòng hộ do Ủy ban nhân n thị trn B quản của
M là hành vi gây cản trcho việc s dụng đất của người khác (đất đã được
16
giao cho Trung tâm pt triển quđất sở Tài nguyên i tờng Hải Phòng
Uỷ ban nhân n thị trấn B theo Quyết định số 806/QĐ/UB ngày 11/4/2017 của
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Png) nên được xác định nh vi đang thc
hin nên thi hiệu xphạt vi phm hành chính trong lĩnh vực đất đai 02 m
kể t khi người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phm. Do
vy người khởi kiện cho rằng đã hết thời hiệu x pht vi phạm hành cnh là
không có n c, vì vy việc chủ tịch y ban nhân dân th trấn B đã căn cứ quy
định tại Điều 38 Luật Xử lý vi phm hành chính, căn c khoản 1 Điu 16 Nghị
định 91/2019/ND-CP ngày 19/11/2019 ca Cnh ph v x vi phạm hành
chính trong nh vực đất đai, ngày 15/01/2024 đã ban hành Quyết định xử phạt
vi phm hành chính số 15/-XPHC đối với bà Đng ThM với nh vi “Đưa
c vật khác lên thửa đt của người khác gây cản trở cho vic s dụng đất của
người khác", hình thức x phạt là Cảnh cáo kèm biện pháp khắc phục hậu quả:
Buc khôi phục lại nh trạng ban đu của đất trước khi vi phạm là đúng quy
định tại các Điều 57, Điu 58, Điều 66, Điều 67 của Luật Xử vi phm hành
chính khoản 1, khoản 4 Điu 16 Ngh định s 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm nh chính trong lĩnh vc đất đai. Sau khi ban hành
Quyết định số 15/-XPHC ngày 05/01/2024, t thấy việc ban hành quy định
n có thiếu sót nên Chủ tịch UBND th trấn B ban nh Quyết định s 173/-
UBND ngày 20/6/2024 hủy bỏ quyết định s 15/QĐ-XPHC là đúng thm quyền
theo quy định ti Điều 18 Luật x vi phạm nh chính, Ngh đnh
118/2021/NĐ-CP ny 23/12/2021 của Cnh phủ quy đnh chi tiết một số điều
biện pp thi hành Luật x lý vi phạm hành chính. Ngày 27/8/2024, Ch tch
UBND thị trấn B tiếp tục ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày
27/8/2024 v việc hủy bỏ Quyết định số 173/QD-UBND ny 20/6/2024 của
Ch tch Uban nn dân th trấn B đ ki phc đưa ra thi hành quyết định số
15/-XPHC ngày 05/01/2024 là đúng thm quyền. t việc sau khi ban hành
quyết đnh x phạt vi phm hành chính, q trình thực hiện xét thấy cn sửa đi,
bổ sung hoặc thu hồi t người thm quyền quyền ký ban nh các quyết
định hành chính đ điều chỉnh, như vậy việc Ch tịch UBND th trấn C ban
nh Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 hủy bỏ quyết đnh số
15/-XPHC và Quyết định số 222/QĐ-UBND về việc hủy b Quyết định số
173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 của Chủ tịch Uỷ ban nhân n thị trấn B là
hoàn toàn p hợp pháp luật, đúng quy định tại c Điều 38; Điều 57, Điu 58;
Điều 66; Điu 67 và Điều 68 của Luật X vi phm hành cnh; khoản 1,
khoản 4 Điều 16 Ngh định s 91/2019/NĐ-CP của Chính ph là đúng thẩm
quyền, trình tự, th tục ban nh quyết định, nội dung của c quyết định hoàn
toàn đúng và phù hợp các quy định của pháp luật.
[4] Tnhng phân tích nêu trên, Hội đồng xét xxét thy việc Chtịch
Uỷ ban nhân dân th trấn B ban hành các quyết đnh hành chính số 15/-
17
XPHC ngày 05/01/2024; Quyết định s 173/-UBND ngày 20/6/2024 quyết
định hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định số
222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024 về việc hy b Quyết định s 173/-UBND
về vic hủy bquyết định trong x phạt vi phạm hành cnh là hoàn tn đúng
quy định của pháp luật. Do vậy, không có s chấp nhận kng cáo của người
khởi kiện bà Đặng Th M và người quyền lợi nga vụ liên quan anh Vũ
Quốc Đ; gingun quyết định ca bản án sơ thẩm như đ ngh của đi diện
Viện kim sát nnn thành ph Hải Png.
[5] V án p: Do kháng cáo của bà Đặng Th M và anh Quốc Đ
không được chấp nhận nên bà M và anh Đ phải chịu án phí hành cnh pc
thm. Bà Đặng Th M là nời cao tuổi nên được min án phí hành cnh phúc
thm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn c khoản 1 Điều 241 Luật T tụng hành cnh, Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 m 2016 của y ban Thường vụ
Quốc hi quy định về mức thu, min, giảm, thu, nộp, quản sdng án phí,
lệ p a án.
Bác toàn bộ kháng cáo của người khởi kiện Đặng Thị M người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Quốc Đ; giữ nguyên quyết định của bản án
hành chính thẩm số 02/2024 ngày 13/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện C,
thành phố Hải Phòng.
2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà Đặng Th M;
Anh Quốc Đ phải chịu 300.000 (Ba trăm ngn) đồng án p hành
chính pc thẩm.
3.Các quyết định khác của Bản án sơ thm kng kháng cáo, kháng
nghị hiệu lc pháp luật k tngày hết thời hạn kháng cáo, kng nghị.
4. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực ngay kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSNDTP. Hải Phòng;
- Toà án nhân dân huyện C;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện C;
- Chi cục Thi hành án huyện C;
- Uỷ ban nhân dân huyện C;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Hải Yến
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Tải về
Bản án số 02/2025/HC-PT Bản án số 02/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 02/2025/HC-PT Bản án số 02/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất