Bản án số 02/2025/HC-PT ngày 24/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 02/2025/HC-PT ngày 24/04/2025 của TAND TP. Hải Phòng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hải Phòng |
Số hiệu: | 02/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | yêu cầu huỷ quyết định hành chính |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 02/2025/HC-PT
Ngày 24-4-2025
V/v khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý đất đai
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Hải Yến
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Thuý Hà
Ông Nguyễn Quang Kiên
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Thúy Quỳnh - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên
tòa: Bà Phạm Thị Duyên - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2025/TLPT-HC ngày 10 tháng 3
năm 2025 về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai và các văn bản có liên quan do Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST
ngày 13 tháng 11 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện C bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2025/QĐXXPT-HC ngày 14
tháng 3 năm 2025 và Quyết định tạm ngừng phiên toà số 01/2025/QĐ-PT ngày
10/4/2025 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Đặng Thị M; nơi cư trú: Tổ dân phố 10, thị trấn B,
huyện C, thành phố Hải Phòng; có mặt;
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị
Minh Châu, luật sư Văn phòng luật sư Minh Châu & Cộng Sự, thuôc Đoàn luật sư
thành phố Hà Nội; có mặt.
- Người bị kiện: Uỷ ban nhân dân thị trấn B; địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn
B, huyện C, thành phố Hải Phòng; người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Trọng
Hiệu - Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B; có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Vũ Đình H, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 117 đường Cái Bèo, thị trấn
B, huyện C, thành phố Hải Phòng; có mặt;
2
Người đại diện theo Uỷ quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
anh Vũ Đình H: Bà Phạm Duy Ly, sinh năm 1984; nơi cư trú: Số 302H3 ngõ 59 Lê
Gia Đỉnh, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; có mặt;
2. Anh Vũ Quốc Đ, sinh năm 1994; địa chỉ: Số 375 Ngô Gia Tự, phường
Đằng Lâm, quận A, thành phố Hải Phòng; có mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh H và anh Đ: Bà Nguyễn
Thị Minh Châu, luật sư Văn phòng luật sư Minh Châu & Cộng Sự, thuôc Đoàn luật
sư thành phố Hà Nội;có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa
sơ thẩm, người khởi kiện trình bày:
Bà Đặng Thị M xây dựng gia đình với ông Vũ Văn Sinh năm 1985 và có hai
người con là anh Vũ Đình H, sinh năm 1986 và anh Vũ Quốc Đ, sinh năm 1994.
Năm 1994 vợ chồng bà khai phá đất hoang trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ đến năm
1997 ông Sinh làm thủ tục đăng ký kê khai xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Năm 2000, vợ chồng bà được Uỷ ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất diện tích 110.000 m² vị trí tại Áng Khe Thùng, thị trấn B, loại
đất lâm nghiệp, thời hạn giao 50 năm mang tên ông Vũ Văn Sinh. Năm 2003, Uỷ
ban nhân dân thị trấn B có giao thêm cho gia đình bà một diện tích đất, biên bản
làm việc có ghi rõ vị trí, mốc giới và gia đình bà đã trồng cây sưa để phủ xanh đất
trống và làm kinh tế vườn. Ngày 04/8/2020 ông Sinh nhận được Quyết định
2366/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân huyện C (sau đây gọi là Quyết định 2366)
về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 110.000 m² đã được nhà nước
thu hồi theo Quyết định 1271/QĐ- UBND ngày 29/4/2004 của Uỷ ban nhân dân
thành phố Hải Phòng (sau đây gọi là Quyết định 1271). NH trước đó ông Sinh
không nhận được quyết định 1271. Ông Sinh gửi đơn khiếu nại Quyết định
2366/QĐ-UBND đến UBND huyện C, sau đó nhận được Quyết định 3171/QĐ-
UBND ngày 10/12/2020 của Uỷ ban nhân dân huyện C bác đơn khiếu nại của
chồng bà (sau đây gọi là Quyết định 3171). Thời gian sau ông Sinh đã khởi kiện
các Quyết định 2366/QĐ-UBND và 3171/QĐ-UBND ra Tòa án nhân dân thành
phố Hải Phòng. Ngày 24/9/2021, Tòa án đã đình chỉ vụ án. Ngày 17/12/2021 ông
Sinh mất.
Sau khi ông Sinh mất gia đình bà mới biết vụ việc ông Sinh khiếu kiện và
ngày 22/4/2022 anh Vũ Quốc Đ làm đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy
quyết định số 1271/QĐ-UBND, đến ngày 14/02/2023 anh Đ tiếp tục yêu cầu Tòa
án hủy quyết định số 2366/QĐ-UBND và 3171/QĐ-UBND và Quyết định
806/QĐ-UBND ngày 11/4/2017 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc
thu hồi đất của Công ty Hà Phú giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài
nguyên Môi trường Hải Phòng quản lý (sau đây gọi là Quyết định 806), hiện tại gia
3
đình bà đang theo đuổi vụ kiện tại Tòa án cấp cao tại Hà Nội. Bên cạnh đó gia đình
bà cũng làm đơn tố cáo gửi các cơ quan có thẩm quyền với lý do quá trình thu hồi
đất của gia đình bà có dấu hiệu vi phạm pháp luật.
Trong khi hai vụ kiện hành chính, 01 vụ tố cáo chưa giải quyết xong thì Uỷ
ban nhân dân thị trấn B ban hành Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 15/01/2024
(sau đây gọi là Quyết định số 15) xử phạt bà M về hành vi “Vào hồi 14h15' ngày
05/01/2021 bà M có hành vi Đưa các vật khác lên đất của người khác gây cản trở
cho việc sử dụng đất của người khác, cụ thể là đưa 530 cây (gồm sưa, quất hồng bì,
keo, nhãn, chuối, lát, bưởi..) vào thửa đất của Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc
Sở Tài nguyên Môi trường Hải Phòng quản lý (376 cây trên diện tích 11ha) và đất
của Uỷ ban nhân dân thị trấn B (154 cây trên diện tích 0,09ha).
Quyết định số15 xử phạt hành chính đối với bà M là sai đối tượng: Bởi lẽ,
người trồng cây là chồng bà, ông Vũ Văn Sinh. Từ năm 1992 cho đến khi mất, ông
Sinh là người trực tiếp trồng số cây trên phần đất 11 ha đã được cấp sổ đỏ. Ông
còn thuê thợ để trồng và chăm sóc cây, bà và các con chỉ là người phụ giúp. Khi
các con trưởng thành ra ở riêng và năm 2021 ông Sinh mất thì bà là người trực tiếp
trông coi, chăm sóc vườn cây và canh tác trên thửa đất vì vậy Quyết định số 15 xác
định bà là đối tượng vi phạm là sai đối tượng vi phạm.
Quyết định số 15 xử phạt vi phạm hành chính là không có căn cứ vì không
có hành vi vi phạm, cụ thể như sau:
Tại Mục 2 Quyết định 15 có nêu: "Vào hồi 14 giờ 15’ ngày 05/01/2024, bà
M đã có hành vi 'Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở việc sử
dụng đất của người khác' (cụ thể là đưa 530 cây gồm: sưa, quất hồng bì, keo, nhãn,
chuối, lát, bưởi... lên thửa đất)."
Tuy nhiên, vào thời điểm này, bà M không có bất cứ hành vi nào như Quyết
định 15 quy chụp, số cây trên gia đình bà trồng từ năm 1994, 2003. Bà là một phụ
nữ 60 tuổi, vừa mới phẫu thuật cột sống và việc đi lại còn rất khó khăn. Chính Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân huyện C đã phải đến thăm bà vì lý do này. Do đó, nội dung
"Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở việc sử dụng đất của
người khác" là không có thật. Nếu có ai đó trồng 530 cây vào ngày 05/01/2024 như
Quyết định 15 nêu, thì bây giờ số cây này đang ở đâu?
Quyết định 15 cho rằng vào ngày 05/01/2024 bà M "đã đưa 376 cây lên thửa
đất diện tích 11 ha do Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố Hải Phòng quản lý" là sai sự thật. Thực tế, Trung tâm phát triển
quỹ đất không hề quản lý đất này. Bằng chứng là số cây gia đình bà trồng liên tục
từ năm 1992 đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Số cây trên 11 ha đất đó không chỉ có
376 cây như Quyết định 15 quy chụp, mà thực tế đã được xác định là hàng nghìn
cây, với tuổi thọ từ 20 đến 30 năm. Số lượng cây và tuổi cây đã được xác định qua
4
vi bằng mà các con bà M đã lập và gia đình bà đã nộp vi bằng này đến Tòa để
chứng minh rằng Quyết định 15 là vô căn cứ.
Quyết định 15 quy chụp bà M "đã đưa 154 cây lên diện tích 0,094 ha đất do
UBND thị trấn B, huyện C, thành phố Hải Phòng quản lý" là sai sự thật. Trên thực
tế, phần đất này chồng bà M đã được UBND thị trấn giao cho lần thứ hai vào ngày
08/04/2003, có biên bản bàn giao kèm theo. Vào năm 2003, khi đất được giao lần
thứ hai, gia đình bà bắt đầu trồng cây trên diện tích được giao. Vì vậy, UBND thị
trấn không quản lý đất này, bằng chứng là số cây vẫn còn nguyên và được xác định
qua vi bằng.
Về thời hiệu của hành vi vi phạm hành chính: Giả sử việc trồng cây là "vi
phạm", thì hành vi này đã diễn ra liên tục từ năm 1992 đến nay. Số cây và tuổi cây
đã chứng minh rằng hành vi bị quy chụp đã xảy ra hơn 30 năm. Ngay cả cây trẻ
nhất cũng đã 14 tuổi, tức là đã hết thời hiệu xử phạt (02 năm) từ lâu.
Quyết định số 15 xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các con bà
do chồng bà đã mất vì uất ức trước những thủ đoạn chiếm đoạt đất đai tài sản, mà
bà M và các con trai là những người thừa kế hợp pháp theo pháp luật đối với di sản
của chồng bà, bao gồm công trình và cây cối trên đất. Bên cạnh đó, hai người con
trai của bà cũng có quyền sở hữu một phần tài sản này do công lao đóng góp trong
việc trồng và chăm sóc số cây. Nay Quyết định 15 không chỉ quy chụp sai sự thật
mà còn không đề cập đến quyền lợi của các con bà M, xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì những lẽ trên, bà M có đơn khởi kiện vụ
hành chính ra Tòa án nhân dân huyện C.
Sau khi Tòa án nhân dân huyện C thụ lý vụ án, ngày 20/6/2024 UBND thị
trấn B ban hành Quyết định số 173/QĐ-UBND về việc thu hồi Quyết định số 15
(sau đây gọi là Quyết định số 173), nH đến ngày 27/8/2024, UBND thị trấn B tiếp
tục ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024 thu hồi Quyết định số
173, mục đích khôi phục hiệu lực của Quyết định số 15 (sau đây gọi là Quyết định
số 222).
Tại phiên đối thoại lần 2 và tại phiên tòa, bà M yêu cầu giữ nguyên Quyết
định số 173, đề nghị hủy bỏ Quyết định số 222 và Quyết định số 15 của UBND thị
trấn B. Đồng thời, bà M yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị trấn B công khai xin lỗi trên
cổng thông tin của địa phương trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30 triệu đồng do
mất thu nhập và bồi thường thêm 03 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn
thất tinh thần mà Quyết định số 15 đã gây ra đối với gia đình bà M.
Tại phiên tòa người khởi kiện giao nộp bản phô tô Quyết định số 403/QĐ-
UBND ngày 07/11/2015 của Uỷ ban nhân dân thị trấn B về việc thi hành cưỡng
chế thực hiện quyết định 15 và yêu cầu Tòa án hủy quyết định trên.
5
Tại phiên tòa người khởi kiện đề nghị miễn án phí hành chính sơ thẩm theo
diện người cao tuổi.
* Người bị kiện vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án đã
gửi bản khai, trình bày:
Ông Vũ Văn Sinh (chồng bà M) được Uỷ ban nhân dân huyện C cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số E0088586 ngày 07/12/2000 theo Quyết định số
898/QĐ- UBND ngày 07/12/2000 của UBND huyện C (sau đây gọi là Quyết định
898) đối với thửa đất số 48, tờ bản đồ số 33, diện tích 110.000m² tại Áng Khe
Thùng, thị trấn B, thời hạn sử dụng đất là 50 năm. Ngày 29/4/2004, Uỷ ban nhân
dân thành phố ban hành Quyết định số 1271/QĐ-UB thu hồi 110.000m² đất tại
Áng Khe Thùng, thị trấn B giao cho Công ty Cổ phần đầu tư phát triển rừng và
kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái Hà Phú để thực hiện dự án xây dựng Làng du
lịch Áng Khe Thùng.
Toàn bộ cây cối, hoa màu và vật kiến trúc trên đất của ông Vũ Văn Sinh đã
được Ban đền bù thành phố kiểm kê, bồi thường, hỗ trợ, tổng số tiền là:
428.156.754 đồng; ông Vũ Văn Sinh đã nhận đủ tiền theo Giấy nhận tiền giữa ông
Vũ Văn Sinh, Công ty Cổ phần đầu tư phát triển rừng và kinh doanh dịch vụ du
lịch sinh thái Hà Phú, dưới sự chứng kiến của Ban Đền bù thành phố và Uỷ ban
nhân dân thị trấn B và đã thực hiện việc bàn giao đất cho công ty Hà Phú theo Biên
bản xác nhận lập ngày 22/6/2004 giữa ông Vũ Văn Sinh, Công ty Cổ phần đầu tư
phát triển rừng và kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái Hà Phú, dưới sự chứng kiến
của Uỷ ban nhân dân thị trấn B.
Ngày 11/4/2017, UBND thành phố ban hành Quyết định số 806/QĐ-UBND
về việc thu hồi 110.000m² đất của Công ty Cổ phần đầu tư phát triển rừng và kinh
doanh dịch vụ du lịch sinh thái Hà Phú tại thị trấn B, huyện C do vi phạm pháp luật
về đất đai, giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường Hải Phòng quản lý theo quy định.
Ngày 04/8/2020, Uỷ ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số
2366/QĐ- UBND về việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
ông Vũ Văn Sinh được cấp theo Quyết định số 898/QĐ-UB ngày 07/12/2000.
Ngày 18/10/2023, Uỷ ban nhân dân thị trấn B tiến hành kiểm tra hiện trạng
sử dụng đất tại khu vực Áng Khe Thùng, phát hiện số lượng 350 cây sưa trồng trên
diện tích đất do Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố và Uỷ ban nhân dân thị
trấn B quản lý.
Cùng với việc kiểm tra của Uỷ ban nhân dân thị trấn B, Trung tâm Phát triển
quỹ đất thành phố đã thành lập Tổ công tác để thực hiện kiểm đếm, rà soát, phân
loại toàn bộ cây trồng nằm trong khuôn viên 110.000m². Ngày 26/12/2023, của
Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố ban hành Công văn số 6742/STNMT-
6
TTPTQĐ có nội dung: "Từ ngày 10/11/2023 đến ngày 23/11/2023, Tổ công tác đã
thực hiện kiểm đếm, rà soát, phân loại toàn bộ cây trồng nằm trong khuôn viên
110.000 m² do Trung tâm phát triển quỹ đất đang quản lý, kết quả tổng số cây hiện
có là 2.989 cây, bao gồm: 2.613 cây đã có trong phương án bồi thường, 376 cây
phát sinh không có trong phương án bồi thường".
- Ngày 26/11/2023, Uỷ ban nhân dân thị trấn B làm việc và lập biên bản làm
việc số 09/BB-LV với bà Đặng Thị M, trong đó xác định bà M có hành vi chiếm
đất phi nông nghiệp (diện tích 134,5m²) và đất nông nghiệp (diện tích 940,7m²) tại
khu vực đô thị. Tại buổi làm việc, bà M vắng mặt, có chứng kiến của đại diện khu
dân cư.
Căn cứ Biên bản làm việc lập ngày 26/11/2023, vào hồi 16h10 phút ngày
26/11/2023 Công chức Địa chính-Xây dựng-Đô thị Môi trường thị trấn B đã lập
biên bản vi phạm hành chính số 08/BB-VPHC đối với bà Đặng Thị M với hành vi
“Chiếm đất phi nông nghiệp và đất nông nghiệp tại khu vực đô thị” với diện tích
đất vi phạm là 1.075,2m², quy định tại điểm c, khoản 3, điểm a, khoản 4, khoản 5,
Điều 14 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Bà M không ký biên bản, lý do: Bà M đã ủy quyền cho 02 con trai nên bà M
không ký tuy nhiên bà M không cung cấp văn bản ủy quyền; buổi làm việc có
chứng kiến của đại diện khu dân cư.
Qua xác minh, bà M và ông Vũ Quốc H (là con trai bà M) có lập văn bản ủy
quyền cho ông Vũ Quốc Đ đại diện thực hiện quyền khiếu nại Quyết định số
1271/QĐ-UB ngày 22/4/2004 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng, khởi
kiện vụ án hành chính (nếu có); không có nội dung ủy quyền quản lý, thực hiện
quyền, nghĩa vụ đối với cây cối, tài sản trên đất tại khu vực Áng Khe Thùng. Uỷ
ban nhân dân thị trấn B đã mời các cá nhân liên quan là bà M, anh H và anh Đ (con
đẻ của bà M) nH đều không tham gia làm việc (Biên bản số 14/BB-UBND ngày
05/12/2023).
Do hành vi vi phạm có áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc nộp lại
số lợi bất hợp pháp có được do hành vi vi phạm, không thuộc thẩm quyền xử phạt
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B nên ngày 27/11/2023, Uỷ ban nhân dân
thị trấn B gửi Báo cáo số 1055/BC-UBND kèm hồ sơ xử phạt đến Chủ tịch UBND
huyện C để xem xét, ban hành quyết định xử phạt.
Ngày 01/12/2023, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện ban hành Công văn số
3676/UBND- TP về việc xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành chính đối với
việc sử dụng đất tại khu vực Áng Bù Nâu và Áng Khe Thùng thuộc địa phận thị
trấn B, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B đã tiến hành 03 lần xác minh tình tiết
vụ việc. Tại biên bản làm việc ngày 21/12/2023, bà M thừa nhận số cây nêu trên do
7
chồng bà là ông Vũ Văn Sinh trồng từ năm 2015, năm 2021 ông Sinh chết từ đó
gia đình bà quản lý trông coi, bảo vệ số cây trên.
Căn cứ Biên bản vi phạm hành chính số 08/BB-VPHC ngày 26/11/2023 và
Biên bản xác minh số 01/BB-XM ngày 05/01/2024, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị
trấn B đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024 đối với bà Đặng Thị M với hành vi vi phạm hành chính "Đưa các vật
khác lên thửa đất của người khác gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác"
quy định tại khoản 1, Điều 16, Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/01/2019 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Như vậy, trình tự, thủ tục ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B đối với
bả Đặng Thị M đảm bảo về thời hiệu, thời gian và tuân thủ theo quy định của Luật
Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020 và Nghị định số
118/2021/NĐ-CP.
Về xác định đối tượng vi phạm tại Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024: Tại điểm a, khoản 1 Điều 2 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP quy định
đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính: "a) Hộ gia đình, cộng đồng dân cư, cá
nhân trong nước, cả nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài (sau
đây gọi chung là cá nhân)"
Theo quy định nêu trên, đối chiếu với hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính tại
các biên bản làm việc và biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành
chính đều xác định số cây trồng bổ sung tại khu vực Áng Khe Thùng do ông Sinh
(chồng bả M) đã trồng. Tại thời điểm ông Sinh có hành vi vi phạm, ông Sinh đang
trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp với bà Đặng Thị M, tại thời điểm phát hiện hành
vi vi phạm ông Sinh đã chết nH bà M đang chăm sóc và bảo vệ số cây trồng trên,
do đó việc xác định bà Đặng Thị M là đối tượng vi phạm hành chính là có cơ sở.
Về xác định hành vi vi phạm tại Quyết định 15/QĐ-XPHC: Tại Biên bản xác
minh tình tiết vụ việc vi phạm hành chính số 01/BB-XM do Ủy ban nhân dân thị
trấn B lập ngày 05/01/2024, bà Đặng Thị M xác định số lượng cây trồng là 530
cây, trong đó có 350 cây Sưa và khoảng 180 cây khác được ông Sinh và gia đình
trồng từ năm 2015, sau khi ông Sinh mất bà M vẫn đang trông coi, bảo vệ số cây
trên. Số cây trên được trồng trên diện tích đất do Trung tâm phát triển quỹ đất Sở
Tài nguyên Môi trường thành phố và Uỷ ban nhân dân thị trấn B quản lý vì vậy
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B xác định bà Đặng Thị M có hành vi vi phạm
hành chính "Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở cho việc sử
dụng đất của người khác" là có cơ sở.
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính: Hành vi vi phạm hành chính
“Đưa các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở cho việc sử dụng đất
của người khác" quy định tại khoản 1, Điều 16 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày
8
19/01/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai có hình thức xử phạt chính là "Cảnh cáo" và biện pháp khắc phục hậu quả là
"Buộc khôi phục lại tỉnh trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm".
Căn cứ điểm a, điểm d, khoản 1, Điều 38, Luật Xử lý vi phạm hành chính
năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020:
Điều 38. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền:a) Phạt cảnh cảo;
...d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b, c và đ
khoản 1 Điều 28 của Luật này.
Như vậy, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B ban hành Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024 đối với bà Đặng Thị M là
đúng thẩm quyền. Đối với ý kiến của của bà M cho rằng Quyết định 15 quy chụp
bà M "đã đưa 154 cây lên diện tích 0,094 ha đất do Uỷ ban nhân dân thị trấn B,
huyện C, thành phố Hải Phòng quản lý" là sai sự thật vì phần đất này chồng bà M
đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn giao cho lần thứ hai vào ngày 08/04/2003 có biên
bản bàn giao kèm theo. Đại diện Uỷ ban nhân dân thị trấn có quan điểm như sau:
Đối với Biên bản làm việc ngày 08/4/2003 mà bà M đề cập là Biên bản giao đất
thực địa lần 2 theo Quyết định 898, trong biên bản các thành viên đều xác định,
ngoài chỉ giới được giao theo Quyết định 898, ông Sinh còn tự ý trồng thêm một số
cây lâm nghiệp (keo lá tràm, keo tai tượng) và cũng chính trên khu vực này thời
gian sau đó gia đình bà M đã trồng thêm cây gỗ Sưa. Phần diện tích này là rừng
phòng hộ do Uỷ ban nhân dân thị trấn B quản lý, biên bản không đề cập đến việc
giao cho ông Sinh khu đất này như ý kiến trình bày của người khởi kiện.
- Về việc ban hành Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024: Sau khi
ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024, Uỷ ban nhân dân thị trấn B cũng đã nhận được các phiếu chuyển đơn:
số 16/PC-VPCQCSĐT ngày 05/02/2024 của Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an thành phố Hải Phòng; số 37-BBĐ/BTP-2024 ngày 12/3/2024 của Báo
Tiền phong; số 653/PCĐ-CSKT(Đ3) của phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm về
tham những, kinh tế, buôn lậu và môi trường - Công an thành phố Hải Phòng về
việc xem xét giải quyết đơn kêu cứu khẩn cấp của anh Vũ Quốc Đ (con trai bà
Đặng Thị M).
Sau khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án hành chính và tổ chức đối thoại, Uỷ
ban nhân dân thị trấn B nhận thấy các bên có thiện chí giải quyết vụ việc nên đã
chủ động rà soát lại toàn bộ hồ sơ xử phạt vi phạm hành chính, trình tự ban hành
Quyết định số 15/QĐ-XPHC và đã ban hành Quyết định số 173/QĐ-UBND hủy bỏ
quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính số 15 là đúng thẩm quyền, phù hợp
với quy định của pháp luật.
9
- Về việc ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024: Ngày
02/8/2024, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 2151/QĐ-
UBND về việc kiểm tra đột xuất việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính đối với Uỷ ban nhân dân thị trấn B trong đó có hồ sơ xử phạt vi phạm hành
chính đối với bà Đặng Thị M.
Trên cơ sở Kết luận số 2707/KL-UBND ngày 20/8/2024 của Uỷ ban nhân
dân huyện C về kiểm tra đột xuất việc thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính đối với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B, ngày 27/8/2024 Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân thị trấn B đã ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND về việc hủy bỏ
Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024, khôi phục Quyết định số 15/QĐ-
XPHC ngày 05/01/2024 để thi hành là đúng thẩm quyền, phù hợp với quy định của
pháp luật.
Đối với yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị trấn B công khai xin lỗi trên cổng
thông tin của địa phương trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30 triệu đồng do mất
thu nhập và bồi thường thêm 3 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn thất
tinh thần mà Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024 đã gây ra đối với gia
đình bà M, Uỷ ban nhân dân thị trấn B không chấp nhận với lý do quá trình lập hồ
sơ, ban hành Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024, Uỷ ban nhân dân thị
trấn B đã thực hiện đầy đủ, đúng quy định theo Luật xử lý vi phạm hành chính và
các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Vì vậy người bị kiện đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của người khởi kiện.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án anh Vũ Đình H và anh
Vũ Quốc Đ thống nhất trình bày:
Việc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B ban hành Quyết định 15/QĐ-
XPHC đã vi phạm về thời hiệu, sai đối tượng, không có hành vi vi phạm, quá trình
thực hiện cán bộ địa phương ra vào nhà bà M liên tục nên khách không muốn thuê
nhà, tài khoản bị kiểm tra thì không thể giao dịch được, ảnh hưởng đến tinh thần,
công việc kinh doanh của bà M, với trách nhiệm là các con nên anh H, anh Đ cũng
phải lo lắng, đi lại ảnh hưởng đến công việc. Anh H, anh Đ đồng ý với yêu cầu của
người khởi kiện. Tại phiên tòa anh H và anh Đ đều xác định đã chuyển sinh sống
làm việc ở nơi khác, sau khi ông Sinh mất chỉ có bà M là người trông coi, quản lý
số cây gia đình đã trồng.
Că cứ nội dung trên, tại bản án hành chính sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày
13/11/2024, Tòa án nhân dân huyện C đã quyết định : Căn cứ vào khoản 1 Điều
30, khoản 1 Điều 31, điểm a khoản 1 Điều 116, Điều 157; Điều 158; điểm a khoản
2 Điều 193; Điều 194, điều 348 của Luật Tố tụng hành chính; Căn cứ Điều 6; Điều
18; Điều 28; Điều 38; Điều 57; Điều 58; Điều 68 của Luật xử lý vi phạm hành
chính; Căn cứ Điều 206 của Luật Đất đai 2013; Căn cứ khoản 1, khoản 4 Điều 16
10
Nghị định số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai; Căn cứ Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23 tháng 12
năm 2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
xử lý vi phạm hành chínhvề kiểm tra, xử lý kỷ luật trong thi hành pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; Căn cứ Thông tư 02/2023 ngày
24/8/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều 55 Luật
trách nhiệm bồi thường nhà nước. Xử: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị M
về việc hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC ngày
05/01/2024; hủy Quyết định hủy bỏ Quyết định số 173/QĐ-UBND về việc hủy bỏ
quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính số 222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024;
giữ nguyên Quyết định hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính số
173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 của Chủ tịch UBND thị trấn B, huyện C, thành
phố Hải Phòng. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị M về việc buộc UBND thị
trấn B công khai xin lỗi trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30.000.000 đồng do
mất thu nhập và bồi thường 03 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn thất
tinh thần.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo về
quyền kháng cao của đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 26/11/2024 người khởi kiện bà M, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan anh Vũ Quốc Đ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm người khởi kiện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người khởi kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có kháng cáo
giữ nguyên kháng cáo, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và có quan điểm mặc dù bản
án hành chính sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện C có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng về việc đưa thiếu người tham gia tố tụng là chủ tịch Uỷ ban nhân dân
thị trấn C, bỏ lọt đối tượng khởi kiện là Quyết định cưỡng chế số 403/QĐ-
CCQĐHC ngày 07/11/2024 mà bà M yêu cầu giải quyết tại phiên toà sơ thẩm tuy
nhiên để tránh mất thời gian và chi phí của Nhà nước và nhân dân nên đề nghị Hội
đồng xét xử không huỷ bản án sơ thẩm mà sửa bản án sơ thẩm và đề nghị Tòa án
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà M hủy Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024; hủy Quyết định hành chính số 222/QĐ-UBND
ngày 27/8/2024; giữ nguyên Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 của
Chủ tịch Uỷ Ban nhân dân thị trấn B, huyện C, thành phố Hải Phòng về việc hủy
bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính và buộc Uỷ ban nhân dân thị trấn
B công khai xin lỗi trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường 30.000.000 đồng do mất thu
nhập và bồi thường 03 tháng lương tối thiểu (7.020.000 đồng) do tổn thất tỉnh thần.
11
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ
đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị
án. Các đương sự về cơ bản thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của người tham gia
tố tụng theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung:
Mặc dù bản án sơ thẩm còn nhiều thiếu sót, đã vi phạm thủ tục tố tụng
trong việc đưa thiếu người tham gia tố tụng, xem xét chưa đầy đủ toàn diện các
Quyết định hành chính liên quan trong vụ án. Tuy nhiên xét thấy nội dung bản
án cũng đã xem xét giải quyết các tất cả các Quyết định hành chính bị khởi kiện.
Tại giai đoạn phúc thẩm, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B có ý kiến hoàn
toàn nhất trí với quan điểm của Uỷ ban nhân dân thị trấn B như bản án sơ thẩm
đã nêu.Việc xem xét thiếu Quyết định cưỡng chế thi hành Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số 403/QĐ-CCXP ngày 07/11/2024 khi tại phiên toà người
khởi kiện mới yêu cầu, đối với yêu cầu này người khởi kiện có quyền khởi kiện
bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu. Từ các nhận định trên và xem xét nội dung
giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm, xét thấy không cần thiết phải hủy bản
án sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 13/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện C, do
đó không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của người kháng cáo, nên căn cứ
Điều 241 Luật Tố tụng hành chính đề nghị HĐXX bác đơn kháng cáo của người
kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 02/2024/HC-ST ngày 13/11/2024 của
Toà án nhân dân huyện C.
Về án phí: theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết
quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của
pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy:
-Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ngày 26/11/ 2024 bà M, anh Đ có đơn kháng cáo bản án hành chính
sơ thẩm sô 02/2024/HC-ST ngày 13/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện C còn
trong thời hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét, giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm người bị kiện Ủy ban nhân dân thị trấn C có đơn
xin xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố
tụng hành chính tiến hành xét xử vắng mặt người bị kiện.
12
[1.2] Ngày 01/5/2024 bà Đặng Thị M có đơn khởi kiện hành chính yêu
cầu Tòa án nhân dân huyện C huỷ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số
15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024; hủy Quyết định số 222/QĐ-UBND về việc hủy
bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành; giữ nguyên Quyết số 173/QĐ-UBND
ngày 20/6/2024 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B, huyện C, thành phố
Hải Phòng về việc hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính, buộc
Uỷ ban nhân dân thị trấn B công khai xin lỗi trong 03 ngày liên tiếp, bồi thường
30.000.000 đồng do mất thu nhập và bồi thường 03 tháng lương tối thiểu
(7.020.000 đồng) do tổn thất tỉnh thần. Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 116 Luật
Tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân huyện C thụ lý vụ án giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền và vụ án còn trong thời hiệu khởi kiện.
[1.3] Quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính và một số các Quyết định hành chính
khác có liên quan đến Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, buộc Uỷ ban
nhân dân thị trấn B phải thực hiện việc bồi thường và công khai xin lỗi người
khởi kiện, Toà án cấp sơ thẩm chỉ xác định người bị kiện là Uỷ ban nhân dân thị
trấn B và đã không đưa chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B vào tham gia tố
tụng với tư cách là người bị kiện mà chỉ tham gia với tư cách là người đại diện
theo pháp luật của người bị kiện là Uỷ ban nhân dân thị trấn B. Tuy nhiên quá
trình xem xét giải quyết vụ án xét thấy nội dung bản án sơ thẩm của Toà án
nhân dân huyện C đã xem xét giải quyết các Quyết định hành chính bị kiện gồm
Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 05 tháng 01 năm 2024, Quyết định số
222/QĐ-UBND ngày 27 tháng 8 năm 2024 và Quyết định số 173/QĐ-UBND
ngày 20 tháng 6 năm 2024 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B, huyện C,
thành phố Hải Phòng, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
thị trấn B cũng đã có quan điểm đối với các yêu cầu khởi kiện của người khởi
kiện, việc không đưa Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B vào tham gia tố tụng
với tư cách là người bị kiện là thiếu sót của bản án sơ thẩm tuy nhiên Hội đồng
xét xử nhận thấy Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B đồng thời cũng là người
đại diện theo pháp luật của Uỷ ban nhân dân thị trấn B cùng thực hiện nhiệm vụ
công vụ của nhà nước giao cho chính quyền cơ sở, bản thân Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân thị trấn B trực tiếp tham gia vụ án, đã có quan điểm của mình trong
việc ban hành các Quyết định hành chính bị khởi kiện, do vậy việc không đưa
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B tham gia với tư cách là người bị kiện cũng
không làm thay đổi bản chất của nội dung vụ án, không làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự nên Hội đồng xét xử xét
thấy không cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm mà vẫn đảm bảo giải quyết được
quyền và lợi ích của các đương sự trong vụ án như đề nghị của đại diện Viện
kiểm sát cũng như ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện đã trình bày.
13
[1.4] Tại phiên tòa sơ thẩm người khởi kiện có yêu cầu đề nghị Hội đồng
xét xử giải quyết hủy Quyết định cưỡng chế số 403/QĐ-UBND ngày
07/11/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn B. Hội đồng xét xử xét thấy
đối với Quyết định Cưỡng chế số 403/QĐ-UBND được ban hành trong quá trình
Toà án nhân dân huyện C đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử và đang trong
thời gian hoãn phiên toà, tại phiên toà sơ thẩm người khởi kiện có yêu cầu Toà
án giải quyết đối với Quyết định này, việc Toà án cấp sơ thẩm đã không thụ lý
giải quyết đối với yêu cầu này là chưa xem xét đầy đủ toàn diện đối với vụ án,
tuy nhiên Quyết định cưỡng chế được ban hành vào ngày 07/11/2024 là thời
điểm mà Toà án cấp sơ thẩm đã đưa vụ án ra xét xử và đang hoãn phiên toà.
Việc toà án cấp sơ thẩm không xem xét yêu cầu này của người khởi kiện cũng
không làm mất đi quyền khởi kiện của người khởi kiện và với yêu cầu này
người khởi kiện có quyền khởi kiện tại Toà án có thẩm quyền để xem xét giải
quyết đối với Quyết định cưỡng chế số 403/QĐ-UBND ngày 07/11/2023 của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B bằng một vụ án khác để đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp cho mình.
[1.5] Toà án cấp sơ thẩm khi nhận được đơn kháng cáo từ người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan là anh Vũ Quốc Đ nH không ra thông báo để anh Đ
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm mà đã tiến hành các thủ tục kháng cáo đối
với đơn kháng cáo của anh Đ, đây cũng là thiếu sót của toà án cấp sơ thẩm, tuy
nhiên thiếu sót này cấp phúc thẩm có thể khắc phục được tại giai đoạn xét xử
phúc thẩm nên sẽ quyết định khi giải quyết vụ án.
- Xét đơn kháng cáo của bà Đặng Thị M và anh Vũ Quốc Đ, Hội đồng xét
xử xét thấy:
[2] Về trình tự ban hành các quyết định hành chính bị khởi kiện: Ngày 29
tháng 4 năm 2004, Ủy ban nhân dân Thành phố Hải Phòng đã có Quyết định số
1271/QĐ-UBND thu hồi 110.000m
2
đất tại Áng Khe Thùng, thị trấn B, huyện C
và giao lại cho Công ty cổ phần đầu tư phát triển rừng và kinh doanh dịch vụ du
lịch sinh thái Hà Phú thuê để thực hiện dự án xây dựng Làng du lịch Áng Khe
Thùng, toàn bộ cây cối hoa màu của ông Sinh đã được kiểm kê bồi thường, ông
Vũ Văn Sinh đã nhận đầy đủ số tiền bồi thường 428.156.754 đồng theo Giấy
nhận tiền có chữ ký của ông Vũ Văn Sinh, giám đốc Công ty cổ phần đầu tư
phát triển rừng và Kinh doanh dịch vụ du lịch Sinh thái Hà Phú, đại diện Ban
đền bù Thành phố và chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B thời điểm năm 2004
và tại biên bản xác nhận ngày 22/6/2004 thể hiện nội dung ông Vũ Văn Sinh đã
bàn giao lại cho dự án của Công ty Hà Phú theo Quyết định 1271/QĐ-UBND
của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng gồm các hạng mục đền bù. Ngày
15/7/2004 Sở tài nguyên và Môi trường đã ban hành đã ban hành Quyết định số
138/QĐ/STN&MT về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 110.000m
2
đất
thuê cho Công ty Cổ phần đầu tư phát triển rừng và kinh doanh dịch vụ du lịch
14
sinh thái Hà Phú để xây dựng Làng du lịch Áng Khe Thùng với thời gian sử
dụng đất là 30 năm kể từ ngày 29 tháng 4 năm 2004. Ngày 11 tháng 4 năm
2017, Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng ban hành Quyết định số 806/QĐ-
UBND về việc thu hồi 110.000m
2
đất thuê của Công ty cổ phần đầu tư phát
triển rừng và kinh doanh dịch vụ du lịch sinh thái Hà Phú tại thị trấn B, huyện C
do người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai và giao cho Trung tâm phát
triển quỹ đất thuộc Sở tài nguyên và Môi trường quản lý, Ngày 04/8/2020 Uỷ
ban nhân dân huyện C ban hành Quyết định số 2366/QĐ-UBND về việc thu hồi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Vũ Văn Sinh, vào sổ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 1202.030.QSDĐ do Uỷ ban nhân dân huyện C
cấp ngày 07/12/2000 kèm theo Quyết định số 898/QĐ-UB ngày 07/12/2000.
[2.1] Tại Biên bản kiểm tra hiện trạng sử dụng đất khu vực Áng Khe
Thùng ngày 18 tháng 10 năm 2023 của Uỷ ban nhân dân thị trấn B xác định có
350 cây Sưa đường kính từ 05cm đến 12cm, vị trí trồng cây gồm có một phần
nằm trong diện tích 110.000m
2
đất thuộc loại đất phi nông nghiệp diện tích
134,5m
2
= 0,013ha do Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Hải Phòng quản
lý, một phần nằm trong đất rừng phòng hộ với diện tích đất 940,7m
2
= 0,094 ha
do Ủy ban nhân dân thị trấn B quản lý.
Ngày 26/11/2023 Ủy ban nhân dân thị trấn B tiến hành lập biên bản làm
việc ghi nhận việc tiến hành kiểm tra sử dụng đất của gia đình bà Đặng Thị M
tại khu vực Áng Khe Thùng đã phát hiện gia đình bà Đặng Thị M đang sử dụng
tổng diện tích đất là 1.075,2m
2
và đã trồng cây Sưa trên diện tích 134,5m
2
nằm
trong diện tích 110.000m
2
do Trung tâm phát triển quỹ đất Sở Tài nguyên môi
trường Hải Phòng quản lý và 940,7m
2
đất rừng phòng hộ do Uỷ ban nhân dân
thị trấn B quản lý và đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính số 08/BB-
VPHC ngày 26/11/2023 về lĩnh vực đất đai xác định bà Đặng Thị M có hành vi
vi phạm hành chính: "Vào hồi 15 giờ 30 phút, ngày 26/11/2023 tại khu vực Áng
Khe Thùng, thị trấn B, huyện C, thành phố Hải phòng đã phát hiện gia đình bà
Đặng Thị M có hành vi, vi phạm hành chính, cụ thể gia đình bà M đã trồng cây
Sưa trên diện tích 1.075,2m
2
(trong đó: Diện tích 134,5m
2
nằm trong diện tích
110.000m
2
do Trung tâm phát triển quỹ đất Sở TN-MT Hải Phòng quản lý và
940,7m
2
đất rừng phòng hộ do Uỷ ban nhân dân thị trấn B quản lý) được quy
định tại điểm c, khoản 3, điểm a khoản 4, khoản 5 Điều 14 Nghị định
91/2019/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Ngày 07/12/2023 tại biên bản xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm hành
chính của Ủy ban nhân dân thị trấn B bà M thừa nhận số lượng 350 cây Sưa
được gia đình bà M mua tại trung tâm cây giống Hà Nội và trồng trên diện tích
đất khoảng 1.000m
2
khi ông Sinh còn sống. Năm 2021 ông Sinh mất, bà M vẫn
tiếp tục trông coi, bảo vệ số cây trồng trên khu đất đó.
15
Ngày 26/12/2023 Trung tâm phát triển quỹ đất sở Tài nguyên môi trường
đã ban hành công văn số 6742/STNMT-TTPTQĐ xác định từ ngày 10/11/2023
đến ngày 23/11/2023, tổ công tác đã thực hiện kiểm đếm, rà soát, phân loại toàn
bộ cây trồng nằm trong khuôn viên 110.000m
2
đất do Trung tâm phát triển quỹ
đất đang quản lý, kết quả tổng số cây hiện có là 2.989 cây gồm 2.613 cây đã có
trong phương án bồi thường, 376 cây phát sinh không trong phương án bồi
thường.
[2.2] Tại Biên bản xác minh số 01/BB-XM ngày 05/01/2024 xác định:
“Qua rà soát hồ sơ bồi thường hỗ trợ năm 2004, trong phần cây cối hoa màu
được tổ công tác kiểm đếm lập phương án bồi thường giải phóng mặt bằng theo
Quyết định số 67/QĐ-STN-MT ngày 11/5/2004 của Sở Tài nguyên và Môi
trường (gồm đại diện Sở Tài nguyên và Môi trường, đại diện ban đền bù thành
phố, đại diện phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện C, đại diện Uỷ
ban nhân dân thị trấn B) trong bảng kê số lượng cây cối hoa màu của gia đình
ông Vũ Văn Sinh tại thời điểm kiểm kê là 12.794 cây. Tại biên bản làm việc
ngày 18/10/2023 Ủy ban nhân dân thị trấn tiến hành kiểm tra việc sử dụng đất
tại Áng Khe Thùng có 350 cây Sưa trong đó có 154 cây trồng trên rừng phòng
hộ do Uỷ ban nhân dân thị trấn B quản lý và 196 cây Sưa trồng trong khuôn
viên khu đất 110.000m
2
thuộc loại đất phi nông nghiệp do Trung tâm phát triển
quỹ đất thành phố Hải Phòng quản lý. Tài liệu kiểm kê ngày 10 tháng 11 năm
2023 của Trung tâm quỹ đất của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hải
Phòng ngoài 2.613 cây đã có trong phương án được duyệt còn có tổng 376 cây
phát sinh thêm gồm 196 cây Sưa và 180 cây khác như quất hồng bì, keo, nhãn,
chuối, lát, bưởi, ... được trồng trên diện tích 110.000m² thuộc loại đất phi nông
nghiệp (đất du lịch dịch vụ) do Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố Hải Phòng quản lý. Tại biên bản làm việc
tuyên truyền vận động ngày 19/12/2023 của Uỷ ban nhân dân thị trấn B với bà
Đặng Thị M đã ghi nhận ông Sinh trồng 350 cây Sưa năm 2015.
[3] Mặc dù người khởi kiện cho rằng toàn bộ số cây này là do chồng bà
ông Vũ Văn Sinh là người trực tiếp trồng năm 2015 có sự phụ giúp của các con
bà, từ sau năm 2021 ông Sinh chết bà M chỉ là người tiếp tục trông nom gìn giữ,
hành vi trồng cây này đã diễn ra từ rất lâu, cứ cho là có việc trồng cây thì đến
nay cũng không còn thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính và việc Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thị trấn B xác định bà M là người thực hiện hành vi vi phạm hành
chính là không đúng. Hội đồng xét xử xét thấy theo quy định tại khoản 4 Điều 4
Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/01/2019 thì hành vi tiếp tục trông giữ
196 cây Sưa trồng trên diện tích đất của Trung tâm phát triển quỹ đất Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố Hải Phòng quản lý và 154 cây Sưa trồng trên
diện tích 940,7m
2
đất rừng phòng hộ do Ủy ban nhân dân thị trấn B quản lý của
bà M là hành vi gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác (đất đã được
16
giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất sở Tài nguyên Môi trường Hải Phòng và
Uỷ ban nhân dân thị trấn B theo Quyết định số 806/QĐ/UB ngày 11/4/2017 của
Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng) nên được xác định hành vi đang thực
hiện nên thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là 02 năm
kể từ khi người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm. Do
vậy người khởi kiện cho rằng đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là
không có căn cứ, vì vậy việc chủ tịch Ủy ban nhân dân thị trấn B đã căn cứ quy
định tại Điều 38 Luật Xử lý vi phạm hành chính, căn cứ khoản 1 Điều 16 Nghị
định 91/2019/ND-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai, ngày 15/01/2024 đã ban hành Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính số 15/QĐ-XPHC đối với bà Đặng Thị M với hành vi “Đưa
các vật khác lên thửa đất của người khác gây cản trở cho việc sử dụng đất của
người khác", hình thức xử phạt là Cảnh cáo kèm biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm là đúng quy
định tại các Điều 57, Điều 58, Điều 66, Điều 67 của Luật Xử lý vi phạm hành
chính và khoản 1, khoản 4 Điều 16 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. Sau khi ban hành
Quyết định số 15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024, xét thấy việc ban hành quy định
còn có thiếu sót nên Chủ tịch UBND thị trấn B ban hành Quyết định số 173/QĐ-
UBND ngày 20/6/2024 hủy bỏ quyết định số 15/QĐ-XPHC là đúng thẩm quyền
theo quy định tại Điều 18 Luật xử lý vi phạm hành chính, Nghị định
118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính. Ngày 27/8/2024, Chủ tịch
UBND thị trấn B tiếp tục ban hành Quyết định số 222/QĐ-UBND ngày
27/8/2024 về việc hủy bỏ Quyết định số 173/QD-UBND ngày 20/6/2024 của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B để khôi phục đưa ra thi hành quyết định số
15/QĐ-XPHC ngày 05/01/2024 là đúng thẩm quyền. Xét việc sau khi ban hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quá trình thực hiện xét thấy cần sửa đổi,
bổ sung hoặc thu hồi thì người có thẩm quyền có quyền ký ban hành các quyết
định hành chính để điều chỉnh, như vậy việc Chủ tịch UBND thị trấn C ban
hành Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 hủy bỏ quyết định số
15/QĐ-XPHC và Quyết định số 222/QĐ-UBND về việc hủy bỏ Quyết định số
173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị trấn B là
hoàn toàn phù hợp pháp luật, đúng quy định tại các Điều 38; Điều 57, Điều 58;
Điều 66; Điều 67 và Điều 68 của Luật Xử lý vi phạm hành chính; khoản 1,
khoản 4 Điều 16 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP của Chính phủ là đúng thẩm
quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định, nội dung của các quyết định hoàn
toàn đúng và phù hợp các quy định của pháp luật.
[4] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy việc Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân thị trấn B ban hành các quyết định hành chính số 15/QĐ-
17
XPHC ngày 05/01/2024; Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 20/6/2024 quyết
định hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính; Quyết định số
222/QĐ-UBND ngày 27/8/2024 về việc hủy bỏ Quyết định số 173/QĐ-UBND
về việc hủy bỏ quyết định trong xử phạt vi phạm hành chính là hoàn toàn đúng
quy định của pháp luật. Do vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của người
khởi kiện bà Đặng Thị M và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Vũ
Quốc Đ; giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng.
[5] Về án phí: Do kháng cáo của bà Đặng Thị M và anh Vũ Quốc Đ
không được chấp nhận nên bà M và anh Đ phải chịu án phí hành chính phúc
thẩm. Bà Đặng Thị M là người cao tuổi nên được miễn án phí hành chính phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án.
Bác toàn bộ kháng cáo của người khởi kiện bà Đặng Thị M và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Vũ Quốc Đ; giữ nguyên quyết định của bản án
hành chính sơ thẩm số 02/2024 ngày 13/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện C,
thành phố Hải Phòng.
2. Về án phí: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà Đặng Thị M;
Anh Vũ Quốc Đ phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hành
chính phúc thẩm.
3.Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực ngay kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSNDTP. Hải Phòng;
- Toà án nhân dân huyện C;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện C;
- Chi cục Thi hành án huyện C;
- Uỷ ban nhân dân huyện C;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Hải Yến
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 14/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 13/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm