Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Hiển thị 1-20 trong 507 thuật ngữ
| Stt | Thuật ngữ | Mô tả / Định nghĩa | Nguồn |
|---|---|---|---|
| 161 | Hệ thống thu gom khí thải | là hệ thống các công trình, thiết bị thu gom khí thải sinh ra từ bãi chôn lấp chất thải rắn nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm không khí và nguy cơ gây cháy, nổ. | 01/2001/TTLT-BKHCNMT-BXD |
| 162 | Hệ thống thu gom nước rác | là hệ thống các công trình bao gồm tầng thu gom, đường ống dẫn, mương dẫn để thu gom nước rác về hố tập trung hoặc tới trạm xử lý. | 01/2001/TTLT-BKHCNMT-BXD |
| 163 | Hệ thống xác định liều | là hệ thống thiết bị được sử dụng để xác định liều hấp thụ, bao gồm: liều kế, dụng cụ đo lường và quy trình sử dụng hệ thống thiết bị xác định liều. | 3616/2004/QĐ-BYT |
| 164 | Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan | Là hệ thống thông tin do Tổng cục Hải quan quản lý tập trung, thống nhất, được sử dụng để tiếp nhận, lưu trữ, xử lý và phản hồi các thông điệp dữ liệu điện tử hải quan để thực hiện thủ tục hải quan điện tử. | 52/2007/QĐ-BTC |
| 165 | HF | (High frequency): Sóng ngắn (từ 3.000 đến 30.000 Ki-lô-héc) | 63/2005/QĐ-BGTVT |
| 166 | Hiến chương | "1. Ở Việt Nam xưa, hiến chương có tính chất pháp luật, khuôn phép của nhà nước phong kiến. Vd. “Lịch triều hiến chương loại chí” do Phan Huy Chú biên soạn gồm 10 chí trong đó có nhiều chí là những pháp luật của các triều vua, vd. Quan chức chí (công chức), Quốc dụng chí (tài chính thuế khóa), Hình luật chí (pháp luật), vv. 2. Ở Châu Âu, hiến chương là văn bản của nhà vua quy định một cách long trọng các quyền và nghĩa vụ cơ bản của thần dân, có tính chất như hiến pháp sau khi có cách mạng tư sản. vd. Đại hiến chương chương của các hoàng đế nước Anh năm 1215; Đại hiến chương các quyền tự do hiến chương đời vua Lu – I (Louis thứ 18) vào thời kì Quân chủ tháng bảy của Pháp. 3. Văn kiện kí kết giữa nhiều nước xác lập các mối quan hệ quốc tế, quyền và nghĩa vụ của các thành viên, tổ chức và hoạt động của một tổ chức quốc tế. vd. Hiến chương Liên hợp quốc." | Từ điển Luật học trang 186 |
| 167 | Hiến chương liên hợp quốc | Hiệp ước quốc tế nhiều bên do các cường quốc trong liên minh chống pháp xít Đức là Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc xây dựng trong Chiến tranh thế giới II và hoàn chỉnh lần cuối cùng tại Hội Nghị San Frăngxixcô ngày 26.6.1945. Hiến chương được đại diện của 51 nước thành viên đầu tiên kí ngày 26.6.1945 và có hiệu lực từ ngày 24.11.1945. Liên hợp quốc là trung tâm phối hợp hành động của các quốc gia để đạt mục tiêu duy trì hòa bình, an ninh hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa các nước trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Hiến chương Liên hợp quốc đặt nền móng cho hệ thống an ninh tập thể của các nước. Khâu trung tâm của hệ thống này là Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, cơ quan chấp hành trên bình diện chính trị và chịu trách nhiệm chính về duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Hiến chương quy định chức năng và quyền hạn của các cơ quan quan trọng khác của Liên hợp quốc như: Đại hội đồng Liên hợp quốc, Hội đồng kinh tế và xã hội, Hội đồng ủy trị, Tòa án quốc tế, Ban thư kí. Hiến chương cũng quy định các nguyên tắc và quy phạm xử sự của các quốc gia trong quan hệ quốc tế như nguyên tắc không sử dụng sức mạnh và đe dọa bằng sức mạnh, hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Quy chế Tòa án quốc tế Liên hợp quốc là một bộ phận cấu thành của Hiến chương Liên hợp quốc. | Từ điển Luật học trang 186 |
| 168 | Hiến mô, bộ phận cơ thể người | là việc cá nhân tự nguyện hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc sau khi chết. | 75/2006/QH11 |
| 169 | Hiến pháp | "Đạo luật cơ bản, văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất do Quốc hội thông qua, quy định các vấn đề quan trọng nhất và chung của cả nước. Vd. Chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nguyên tắc tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan trọng yếu của nhà nước, để làm cơ sở cho cả hệ thống pháp luật của nhà nước. Hiến pháp là văn kiện cơ bản quy định tổ chức nhà nước và việc điều hành quyền lực. Định nghĩa này được dùng tương đối phổ biến ở các nước phương Tây. Do đó, các hiến pháp xưa nhất cũng như phần lớn các hiến pháp hiện hành của các nước phương Tây chỉ có các quy định về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, không có chế định cơ bản như Hiến pháp của Việt Nam và nước xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp chiến thắng thiết lập ra sau cuộc đấu tranh thắng lợi (Mác – Enghen tuyển tập – Tập 1 Nhà xuất bản sự thật 1962). Vd. Hiến pháp năm 1787 của Hợp chủng quốc Hoa Kì ra đời sau cuộc chiến tranh giành độc lập, Hiến pháp năm 1791 của Cộng hòa Pháp là kết quả của cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789, Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam được soạn thảo và được Quốc hội khóa I thông qua sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945. Ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, mỗi bản hiến pháp là văn bản pháp lí củng cố thắng lồi giai đoạn cách mạng và vạch ra nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới trên cơ sở thể chế hóa chủ trương, đường lối chính sách của Đảng cộng sản. (Xt. Hiến pháp năm 1945; Hiến pháp năm 1959; Hiến pháp năm 1980; Hiến pháp năm 1992)." | Từ điển Luật học trang 187 |
| 170 | Hiến pháp cứng | Hiến pháp mà việc sửa đổi phải theo một trình tự riêng, có khi phải thành lập một tổ chức phụ trách và phải được đa số đại biểu của nghị viện, quốc hội biểu quyết tán thành. Vd. Điều 5 – Hiến pháp năm 1787 của Mĩ quy định khi thấy cần thiết sửa đổi phải có hai phần ba số đại biểu của hai viện hoặc có yêu cầu của cơ quan lập pháp của hai phần ba các bang, quốc hội sẽ triệu tập một hội nghị để đề nghị những điều sửa đổi và những điều sửa đổi phải được cơ quan lập pháp của ba phần tư số bang hoặc các hội nghị của ba phần tư số bang phê chuẩn theo trình tự do quốc hội quy định. Đến nay, đã có mấy chục đạo luật sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1787. Các Hiến pháp của Việt Nam quy định chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi hiến pháp phải được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết: Điều 112 – Hiến pháp năm 1959, Điều 147- Hiến pháp 1980, 1992. Điều 70 – Hiến pháp năm 1946 quy định thêm “sau khi nghị viện phê chuẩn, các điều thay đổi phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. | Từ điển Luật học trang 188 |
| 171 | Hiến pháp dân định | Được xây dựng có sự tham gia của nhân dân theo các trình tự nhất định. Ở Cộng hòa Pháp, trình tự biểu quyết toàn dân là đưa một bản hiến pháp đã được chuẩn bị để cử tri bỏ phiếu trình tự trưng cầu ý dân và bầu một quốc hội lập hiến để chuẩn bị tranh luận công khai cho cử tri theo dõi, sau đó đưa văn bản ra để cử tri bỏ phiếu. | Từ điển Luật học trang 188 |
| 172 | Hiến pháp khâm định | Hiến pháp do vua ban, vua định ra, văn bản do vua thừa nhận cho thần dân một số quyền, vd Hiến chương của vua Lu – I (Louis thứ 18) ngày 4.6.1914, của vua Lu – I Philip đệ nhất (Louis Philip) ngày 14.8.1830 (Cộng hòa Pháp). Những văn bản mà các nhà luật học Pháp coi là hiến pháp khâm định thể hiện cuộc đấu tranh đòi các quyền dân chủ của giai cấp tư sản và sự nhượng bộ của giai cấp phong kiến trong những điều kiện tương quan lực lượng nhất định. | Từ điển Luật học trang 188 |
| 173 | Hiến pháp không thành văn (cg. Hiến pháp bất thành văn; hiến pháp truyền miệng; hiến pháp tục lệ) | "Hiến pháp mà nội dung không phải do một văn bản gốc mà do nhiều văn bản về tổ chức nhà nước được cơ quan lập pháp ban hành, hoặc căn cứ về tổ chức nhà nước cơ quan lập pháp ban hành, hoặc căn cứ vào thực tiễn được công nhận. Hiến pháp của Anh được lấy làm điển hình là hiến pháp không thành văn vì hoạt động của chế độ đại nghị của Anh căn cứ vào thực tiễn và cả chế định thủ tướng cũng không có một văn bản nào quy định. Nhưng cũng có nhiều văn bản được ban hành trong quá trình phát triển của hiến pháp Anh như Đại hiến chương năm 1215; Tuyên ngôn về các quyền năm 1688, ngày 13.2.1958. Do đó, các nhà luật học phương Tây cũng cho rằng không có hiến pháp không hoàn toàn thành văn. Hiện nay, ngoài nước Anh, còn có hai nước được coi là hiến pháp không thành văn là Niuzilân và Ixraen." | Từ điển Luật học trang 189 |
| 174 | Hiến pháp mềm | Hiến pháp mà việc sửa đổi không có quy định về một trình tự riêng, nên có thể được sửa đổi theo trình tự lập pháp thông thường (cần quá nữa tổng số đại biểu nghị viện, quốc hội tán thành). | Từ điển Luật học trang 189 |
| 175 | Hiến pháp năm 1946 | "Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, được Quốc hội khóa I thông qua tại kì họp thứ II ngày 9.11.1946. Hiến pháp năm 1946 thể chế hóa nghị quyết của Hội nghị trung ương Đảng tháng 11.1940, Hội nghị trung ương lần thứ 8 vào tháng 5.1941 sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh về nước gồm lời nói đầu và 7 chương với 70 điều. Lời nói đầu tóm tắt nội dung, tinh thần cơ bản của Tuyên ngôn độc lập ngày 2.9.1945. “Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa”, nêu rõ “Nhiệm vụ của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn độc lập này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn, kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ”, vv. Và 3 nguyên tắc xây dựng hiến pháp: “Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo. Đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Chương I: Chính thể gồm 3 điều. Điều 1 quy định: ""Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai gái, giàu nghèo, tôn giáo”. Điều 2 quy định: “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể phân chia”. Điều 3 quy định về quốc kì (nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh), Quốc ca (bài Tiến quân ca) và thủ đô (Hà Nội). Chương II. Nghĩa vụ và quyền lợi công dân gồm 18 điều. Mục A về nghĩa vụ; bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng hiến pháp, tuân theo pháp luật (Điều 4) và nghĩa vụ quân sự (Điều 5). Mục B về quyền lợi: 11 điều là các quyền bình đẳng: bình đẳng về chính trị, kinh tế văn hóa (Điều 6); bình đẳng trước pháp luật (Điều 7); bình đẳng dân tộc (Điều 8); bình đẳng nam, nữ (Điều 9); các quyền tự do: ngôn luận, xuất bản, tổ chức và hội họp, tín ngưỡng, cư trú, đi lại (Điều 10); quyền bất khả xâm phạm về thân thể, thư tín, nhà ở (Điều 11); các quyền về kinh tế, xã hội, quyền tư hữu tài sản, quyền của giới cần lao chân tay và trí thức, quyền được giúp đỡ của người già, tàn tật, quyền học tập (Điều 12 – 15); quyền cư trú cho người nước ngoài do đấu tranh vi dân chủ, tự do mà phải trốn tránh (Điều 16). Mục C về bầu cử, bãi miễn và phúc quyết: các nguyên tắc của quyền bầu cử, bãi miễn (Điều 17 – 20) và quyền phủ quyết về hiến pháp và những việc quân hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21). Chương III đến chương VI: Tổ chức nhà nước gồm: Nghị viện nhân dân: cơ quan do công dân bầu có quyền cao nhất, giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước. Nghị viện bầu ra Ban thường vụ có quyền biểu quyết những dự án sắc luật, kiểm soát và phê bình chính phủ khi nghị viện không họp, vv. (Điều 22 – 42). Chính phủ: Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc do Quốc hội bầu gồm chủ tịch nước, phó chủ tịch và nội các. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số nghị viên theo đa số đại biểu với nhiệm kì 5 năm (nhiệm kì nghị viện nhân dân 3 năm). Phó chủ tịch nước chọn trong nhân dân và bầu theo đa số (nhiệm kì 3 năm), nội các gồm thủ tướng (có thể có phó thủ tướng), bộ trưởng, thứ trưởng. Thủ tướng do chủ tịch nước giới thiệu để nghị viện biểu quyết. Bộ trưởng do thủ tướng chọn và nghị viện biểu quyết theo danh sách. Thủ tướng chịu trách nhiệm về con đường chính trị của nội các. Nghị viện có quyền biểu quyết không tín nhiệm nội các (Điều 43 – 56). Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính: được bầu ở cấp tỉnh, thành phố, thị xã và xã, quyết nghị những vấn đề thuộc địa phương, không được trái với chỉ thị của cấp trên. Hội đồng nhân dân bầu ra ủy ban hành chính. Ở cấp huyện không có hội đồng nhân dân thì ủy ban hành chính do hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp bầu ra (Điều 47 – 62). Cơ quan tư pháp: thẩm phán do chính phủ bổ nhiệm; khi xét xử về hình có hội thẩm nhân dân tham gia, chỉ tuân thủ theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp; xét xử công khai, bị cáo có quyền bào chữa hoặc mướn luật sư (Điều 63 – 69). Chương VII: sữa đổi hiến pháp: phải có hai phần ba tổng số nghị viện yêu cầu (Điều 70). “Chế độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã bảo đảm độc lập | Từ điển Luật học trang 189 |
| 176 | Hiến pháp năm 1959 | "Được Quốc hội thông qua ngày 31.12.1959, kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 trong tình hình nhân dân Việt Nam tiến hành đồng thời hại nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam, thống nhất đất nước. Hiến pháp năm 1959 gồm lời nói đầu, 10 chương, 112 điều. Lời nói đầu nêu rõ sự phát triển của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam từ khi Đảng cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng lao động Việt Nam đưa đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân Pháp, xác định: “Hiến pháp mới ghi rõ những thắng lợi cách mạng to lớn đã giành được trong thời gian qua và nêu rõ mục tiêu phấn đấu của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn mới”. Chương I: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngoài các điều của Hiến pháp năm 1946 được ghi lại, có thêm nhận định: “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một nước dân chủ nhân dân (Điều 2), tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lựa chọn của mình thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4). Có một số điều mới như: Điều 6 về nhiệm vụ của cơ quan nhà nước “phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm sóa của nhân dân, nhân viên cơ quan nhà nước phải trung thành với chế độ dân chủ nhân dân, tuân theo hiến pháp và pháp luật, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân”. Điều 7 về “nghiêm cấm trừng trị mọi hành động phản quốc chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại sự nghiệp thống nhất Tổ quốc”. Điều 8 về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang. Chương II. Chế độ kinh tế và xã hội, chương mới quy định đường lối tiến dần lên chủ nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, vv.”. Chương II quy định các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu của nông dân, thợ thủ công, người lao động riêng lẻ và nhà tư sản dân tộc; quy định việc khuyến khích hướng dẫn nông dân, thợ thủ công, người lao động riêng lẻ tổ chức hợp tác xã, quy định việc nhà nước khuyến khích các nhà tư sản dân tộc hoạt động có lợi cho quốc tế dân sinh, hướng dẫn các nhà tư sản dân tộc đi theo con đường cải tạo xã hội chủ nghĩa, vv. (Điều 9 – 21). Chương III: Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 21 điều và 2 điều về quyền sở hữu, quyền thừa kế (Điều 18, 19). Tất cả các quyền bình đẳng, dân chủ, tự do và nghĩa vụ ở Hiến pháp năm 1946 được đưa vào chương này và thêm quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 29); quyền làm việc, nghĩ ngơi của người lao động (Điều 30, 31); có quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động (Điều 32); có quyền học tập (Điều 33); quyền nghiên cứu khoa học sáng tác văn học nghệ thuật (Điều 34); chú trọng đặc biệt giáo dục thanh niên (Điều 35); có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ tài sản công cộng và đóng thuế theo pháp luật (Điều 40, 41); quy định về bảo hộ quyền lợi chính đáng của Việt kiều (Điều 36). Chương IV – VIII: Tổ chức nhà nước có những sửa đổi bổ sung để mở rộng và nâng cao dân chủ, thực hiện sự phân công rõ hơn Hiến pháp năm 1946 và vẫn dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Điều 43); hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (Điều 80). Thành lập Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội bầu ra. Quy định chủ tịch nước là một chế định, không nằm trong thành phần chính phủ như Hiến pháp năm 1946. Chủ tịch nước có những quyền hạn, nhiệm vụ căn cứ vào quyết định của Quốc hội (Điều 63, 64) và những quyền hạn nhiệm vụ khác do hiến pháp trao, vv. Xác định Hội đồng chính phủ là cơ quan chấp hành nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất (Chương VI); ủy ban hành chính cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân địa phương, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Quy định thành lập tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân thành hai | Từ điển Luật học trang 191 |
| 177 | Hiến pháp năm 1980 | "Được Quốc hội thông qua ngày 18.12.1980, là Hiến pháp thứ ba của Việt Nam, ban hành sau ngày đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1980 gồm 12 chương, 147 điều. Kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp 1959 trong tình hình và nhiệm vụ mới. Nội dung của Hiến pháp năm 1980 có một số điểm mới, bổ sung hoặc sửa đổi: Đặt quốc hiệu là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 1). Xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản (Điều 2). Cộng nhận sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước, lãnh tụ xã hội đồng thời với quy định “các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp” (Điều 4). Xác định Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành viên là chỗ dựa vững chắc của nhà nước (Điều 9). Quy định vai trò của Tổng công đoàn, quyền tham gia công việc của nhà nước (Điều 10). Quy định vai trò của các tập thể nhân dân lao động (Điều 11). Quy định nguyên tắc “nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12). Chương II: Chế độ kinh tế với chủ trương tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quy định hai thành phần kinh tế quốc doanh dựa trên sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã dựa trên sở hữu tập thể (Điều 15 – 18). Quy định việc cải tạo các thành phần kinh tế khác, phạm vi được lao động riêng lẻ (Điều 24). Quy định việc bảo hộ sở hữu và thừa kế của công dân về tư liệu sinh hoạt, những công cụ sinh hoạt và những công cụ sản xuất được dùng trong trường hợp được phép lao động riêng lẻ, vv. (Điều 27). Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, kĩ thuật là chương mới phát triển các Điều 33, 34, 35 của Hiến pháp năm 1959, có các quy định về cách mạng tư tưởng và văn hóa, về nguyên lí giáo dục học đi đôi với hành, về phát triển khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kĩ thuật, văn học nghệ thuật, vv. Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cũng là một chương mới phát triển (Điều 8) của Hiến pháp năm 1959, đáp ứng yêu cầu giáo dục tư tưởng cảnh giác cách mạng và xây dựng lực lượng vũ trang, trong hoàn cảnh hòa bình. Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân có thêm điều về quốc tịch (Điều 53); mối quan hệ quyền và nghĩa vụ của công dân với lợi ích của nhà nước, của tập thể, quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ (Điều 54); quyền tham gia quản lý việc công của nhà nước và xã hội cùng với quyền giám sát của nhân dân đối với nhân viên và cơ quan nhà nước (Điều 56, 8); quyền bình đẳng của phụ nữ được quy định cụ thể hơn (Điều 63); và xác định “gia đình là tế bào của xã hội” và trách nhiệm của cha mẹ, con cái (Điều 64); về chính sách ưu đãi đối với thương binh, gia đình liệt sĩ (Điều 74). Chương VI – X: Bộ máy nhà nước có một số điểm bổ sung hoặc quy định mới, khác với Hiến pháp năm 1959: Thêm quy định làm rõ hơn vị trí và quyền hạn của Quốc hội: “Là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp … thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước” (Điều 82). Thành lập Hội đồng nhà nước, là “cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc hội, là chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 98); có chủ tịch và phó chủ tịch Quốc hội làm những nhiệm vụ có tính chất hành chính của Quốc hội (riêng chủ tịch Quốc hội có quyền tham dự các phiên họp của Hội đồng nhà nước (Điều 89). Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) thành viên của Hội đồng bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân về phần công tác của mình và cùng các thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể (Điều 112). Thêm quy định về thành lập tổ chức luật sư (Điều 133), việc thi hành các bản án và quyết định có hiệu lực pháp luật (Điều 137). Để phù hợp với chủ trương, đường lối chính sách đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng, Quốc hội khóa VIII đã có nghị quyết sửa đổi một số điểm ở lời nói đầu và một số điều hoặc Hiến pháp năm 1980: Nghị quyết kì họp thứ IV (22.12.1988) sửa lời nói đầu, Nghị quyết kì họp thứ V (30.6.1989) sửa các | Từ điển Luật học trang 193 |
| 178 | Hiến pháp năm 1992 | "Được Quốc hội khóa VIII thông qua ngày 15.4.1992 và ban hành vào thời điểm mà công cuộc đổi mới toàn diện theo đường lối của Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành được 6 năm và đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Hiến pháp năm 1992 cũng gồm lời nói đầu, 12 chương và 147 điều như Hiến pháp năm 1980. Ngoài những điều kiện kế thừa và phát triển các hiến pháp trước, so với Hiến pháp năm 1980 có nhiều sửa đổi bổ sung. Lời nói đầu cũng như ở các hiến pháp trước phác lại quá trình phát triển của cách mạng dưới dự lãnh đạo của Đảng nhưng diễn đạt cô đúc ngắn gọn hơn so với Hiến pháp năm 1980. Chương I: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – chế độ chính trị có các điểm mới: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức” (Điều 2). Vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, có nhiệm vụ và quyền hạn tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước (Điều 9). Xác định công đoàn là tổ chức chính trị, xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, vv. (Điều 10). Chương II: Chế độ kinh tế ghi nhận việc “phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế trị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa “dựa trên” chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân trong đó sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều 15). Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển “được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có hiệu quả” (Điều 19). Kinh tế tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức (Điều 20). Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được lựa chọn hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, vv. Kinh tế gia đình được khuyến khích (Điều 21). Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ quy định việc bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tự tưởng đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; có tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vv. Nhưng nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy, vv. (Điều 30 – 34). Quy định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, khoa học và công nghệ giữ vài trò then chốt (Điều 35 – 38), vv. Chương IV: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thêm Điều 47 về xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy tinh nhuệ, vv. Chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong hiến pháp và pháp luật” (Điều 50). Quy định quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu, quyền thừa kế được bổ sung đối với “tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế” (Điều 57, 58). Bảo hộ quyền của người có nhà cho thuê và người thuê nhà (Điều 62). Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân được xác định rõ hơn là “tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý (Điều 53). Ngoài các nghĩa vụ như ở Hiến pháp năm 1980, công dân có nghĩa vụ bảo vệ môi trường, thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh: về nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma túy (Điều 29 và 61). Chương VI – X: Bộ máy nhà nước có một số sửa đổi, quy định tổ chức Ủy ban thường vụ Quốc hội và chủ tịch nước như Hiến pháp năm 1959, với việc tập trung hơn quyền lập pháp v | Từ điển Luật học trang 195 |
| 179 | Hiến pháp thành văn (cg. Hiến pháp viết) | Hiến pháp mà nội dung được quy định trong một văn bản gốc được cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước thông qua một cách trang trọng và có giá trị cao hơn các luật thường. (xt. Hiến pháp không thành văn). | Từ điển Luật học trang 197 |
| 180 | Hiện trạng rừng | là trạng thái rừng tại thời điểm hộ gia đình được giao, được thuê hoặc nhận khoán | 80/2003/TTLT-BNN-BTC |
Thuật ngữ pháp lý