Thuật ngữ pháp lý Thuật ngữ pháp lý

a b c d e f g h i k l m n o p q r s t u v w x y z all
Hiển thị 1-20 trong 507 thuật ngữ
SttThuật ngữMô tả / Định nghĩaNguồn
381Hội nghị Bình ThanHội nghị quân sự của các vương hầu, quan lại do vua Trần Thánh Tông triệu tập năm 1282 họp ở Bình Than để bàn “kế sách đánh, phòng và chia quân đóng giữ nơi hiểm yếu” nhằm chống quân Nguyên xâm lược. (Bình Than là một bến ở nơi hợp lưu sông Lục Đầu và sông Đuống thuộc xã Trần Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương, nay thuộc 2 làng Tiểu Than và Bình Than, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh). Sau Hội nghị Bình Than, vua Trần phong Chiêu minh vương Trần Quang Khải làm Thượng tướng thái sư, Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn là Quốc công tiết chế thống lĩnh tất cả các quân. Mùa thu năm 1284, Trần Quốc Tuấn điều khiển các sắc quân của vương hầu mở cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu (một bến trên sông Hồng nay là phố Hàng Than, nơi trước đây quân dân Việt Nam đã mở đợt phản công đánh bật quân Mông Cổ ra khỏi thành Thăng Long). Ở cuộc duyệt binh, Trần Quốc Tuấn đã đọc Hịch tướng sĩ, Hội nghị quân sự Bình Than là một sinh hoạt dân chủ của nhà nước phong kiến trung ương tập quyền thời Trần, nói lên tinh thần đoàn kết chống xâm lược của nhân dân Việt Nam, tính chất chặt chẽ của thiết chế quân đội nhà Trần. Cùng với hội nghị Diên Hồng, Hội nghị Bình Than là một trong những yếu tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên năm 1285 và 1288 (Việt sử thông giám cương mục – Tập V – Nhà xuất bản văn sử địa, 1958)Từ điển Luật học trang 227
382Hội nghị chính trị đặc biệtLà hội nghị của chủ tịch và phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, thủ tướng Chính phủ và những người hữu quan khác để xem xét những vấn đề lớn của đất nước (Điều 67 – Hiến pháp năm 1959). Những ý kiến của Hội nghị này được chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa chuyển đến Quốc hội, Hội đồng chính phủ hoặc các cơ quan hữu quan khác để thảo luận và ra quyết định. Đầu năm 1964, trước tình hình đế quốc Mĩ tăng cường chiến tranh xâm lược ở Miền Nam và có nhiều biểu hiện mở rộng chiến tranh bằng không quân ra Miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Hội nghị đã lên án tội ác xâm lược của đế quốc Mĩ và thể hiện sự nhất trí về chủ trương đường lối chống Mĩ cứu nước của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.Từ điển Luật học trang 227
383Hội nghị Diên Hồng (1279 – 1314)"(cg. Hội nghị bô lão) Là cuộc hội nghị đặc biệt do vua Trần Nhân Tông triệu tập họp tại điện Diên Hồng để bàn nên hòa hay đánh, trước áp lực xâm lăng của quân Nguyên, Hội nghị đồng thanh khánh chiến. Với quyết tâm đó của nhân dân, vua Trần càng quyết tâm khách chiến. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Hội nghị Diên Hồng đã vận dụng được ý chí toàn dân vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Đây cũng là một hình thức “Trưng cầu dân ý”, một hình thức “quốc dân đại hội” lần đầu tiên ở Việt Nam. Qua đó cũng có thể khẳng định rằng chỗ dựa vững chắc, mạnh mẽ của nhà nước thời Trần không phải duy nhất chỉ có lực lượng vương hầu mà còn có cả một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi; thể hiện sinh động một tư tưởng lớn, một nguyên tắc trị nước vững chắc của các vua Trần: “Quốc dĩ dân vi bản”. Hội nghị Diên Hồng nói lên ý thức dân tộc, tinh thần đoàn kết, quyết tâm chống xâm lược của nhân dân Việt Nam đồng thời cho thấy tính chất thân dân của nhà nước phong kiến thời Trần. Cùng với Hội nghị quân sự Bình Than, đây là một trong các yếu tố của chiến công chống quân Nguyên Mông lần thứ II (1285) và lần thứ III (1288). Hội nghị Diên Hồng được coi là biểu tượng lịch sử của tinh thần yêu nước và đoàn kết dân tộc trong truyền thống của nhân dân Việt Nam. (Việt sử thông giám cương mục – tập V – Nhà xuất bản văn sử địa, 1958)."Từ điển Luật học trang 227
384Hội nghị hiệp thươngHội nghị thảo luận, thương lượng về các vấn đề chính trị, kinh tế… liên quan đến các bên. Hội nghị hiệp thương có thể đưa đến sự thỏa thuận giữa hai bên, hoặc nhiều bên về một giải pháp, một hành động chung… hoặc đưa đến kí kết một hiệp ước, một hiệp nghị…. Ở Việt Nam, hội nghị hiệp thương thường được tiến hành giữa Mặt trận tổ quốc Việt Nam với các thành viên cùng cấp để thống nhất ý kiến về các hoạt động chung: giới thiệu người ra ứng cử đại biểu quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân….Từ điển Luật học trang 228
385Hội nghị liên hợp quốc về thương mại và phát triển (Unctad)Cơ quan thường trực của Liên hợp quốc được thành lập năm 1964 nhằm những mục đích: thúc đẩy thương mại quốc tế, khuyến khích việc xác lập, phát triển các quan hệ thương mại giữa các nước có chế độ chính trị xã hội và trình độ phát triển khác nhau, nghiên cứu xác lập và thực thi những nguyên tắc phát triển thương mại quốc tế. Tất cả các thành viên Liên hợp quốc và các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc đều là thành viên của UNCTAD. Việt Nam là thành viên của UNCTAD. Trụ sở UNCTAD đặt tại Giơnevơ (Thụy Sĩ).Từ điển Luật học trang 228
386Hội nghị, hội thảo quốc tếLà các hội nghị, hội thảo, toạ đàm có sự tham gia hoặc tài trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, được tổ chức tại Việt Nam.180/QĐ-UBDT
387Hối phiếuTờ mệnh lệnh đòi trả tiền vô điều kiện được sử dụng trong giao dịch thương mại, do một người kí phát cho một người khác với nội dung yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu hoặc đến một ngày cụ thể nhất định phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc trả cho người cầm phiếu. Những người liên quan trong một hối phiếu gồm có: 1. Người kí phát hối phiếu là người bán hay người xuất khẩu. 2. Người trả tiền hối phiếu là người mà hối phiếu gửi đến, là người mua hoặc nhập khẩu. 3. Người hưởng lợi hố phiếu là người kí phát hối phiếu hay là một người khác do người kí phát chuyển, nhượng cho.Từ điển Luật học trang 216
388Hối phiếulà chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.17/1999/PL-UBTVQH10
389Hối phiếu đòi nợlà giấy tờ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.49/2005/QH11
390Hối phiếu nhận nợlà giấy tờ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.49/2005/QH11
391Hội quốc liênMột tổ chức quốc tế quy định ở phần I Hòa ước Vecxây năm 1919 và tồn tại sau Chiến tranh thế giới I đến trước Chiến tranh thế giới II. Hiến chương Hội quốc liên được soạn thảo tại Hội nghị hòa bình Pari có 44 nước kí tên, trong đó 31 thành viên ban đầu là những nước đồng minh chống phát xít Đức và 13 nước không tham gia chiến tranh (Quốc hội Hoa Kì không phê chuẩn hiến chương này). Nội dung của hiến chương Hội quốc liên tập trung nói về việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, tăng cường sự hợp tác giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, Hiến chương không có điều khoản về cấm dùng chiến tranh để giải quyết tranh chấp quốc tế, mà chỉ có một số quy định về chế tài đối với các nước gây chiến tranh xâm lược, trong đó chủ yếu là các chế tài về kinh tế. Về bộ máy tổ chức, cơ quan chính của Hội quốc liên là Đại hội đồng họp vào tháng 9 hằng năm, Ban thư kí đứng đầu là tổng thư kí. Hội đồng gồm 4 hội viên là Anh, Pháp, Italia, Nhật và 4 hội viên không thường trực được bầu với thời hạn nhất định. Trụ sở của Hội quốc liên là Giơnevơ (Thụy Sĩ), 2 ngôn ngữ chính thức được dùng là tiếng Anh và tiếng Pháp. Do tình hình quốc tế phức tạp, Hội quốc liên đã không hoàn thành được nhiệm vụ và các mục tiêu đặt ra lúc ban đầu. Hội quốc liên giải tán vào tháng 4.1946 và được coi là một sự thể nghiệm cho việc xây dựng cơ chế quốc tế để duy trì hòa bình, an ninh quốc tế của Liên hợp quốc.Từ điển Luật học trang 229
392Hội thẩm nhân dânMột chế định quan trọng thể hiện tính chất dân chủ trong hoạt động xét xử của các tòa án Việt Nam. Chế định này được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 và tiếp tục được khẳng định trong các hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và được cụ thể hóa trong Bộ luật tố tụng hình sự và trong Pháp lệnh ngày 14.5.1993 về thẩm phán và hội thẩm toà án nhân dân. Hội thẩm tham gia vào hoạt động xét xử của tòa án là biểu hiện của việc nhân dân thực hiện quyền lực của mình, tham gia trực tiếp vào quản lý công việc của nhà nước và của xã hội. Điều 129 – Hiến pháp năm 1992 và Điều 4 – Luật tổ chức tòa án nhân dân đã quy định rõ: “Việc xét xử của tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của tòa án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán”. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Hội thẩm nhân dân chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ sai phạm và hậu quả mà bị xử lí kỉ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Pháp lệnh ngày 14.5.1993 quy định cụ thể tại Chương IV về nhiệm vụ, quyền hạn của hội thẩm nhân dân, chế độ đối với hội thẩm, tiêu chuẩn hội thẩm, thủ tục bầu cử, miễn nhiễm, bãi nhiệm hội thẩm.Từ điển Luật học trang 229
393Hồi tịThuật ngữ cũ, nay Bộ luật tố tụng hình sự gọi là “thay đổi người tiến hành tố tụng”. Điều 28-33 của Bộ luật tố tụng hình sự quy định những trường hợp phải thay đổi người tiến hành tố tụng, về quyền đề nghị thay đổi thủ tục, thay đổi người tiến hành tố tụng.Từ điển Luật học trang 214
394Hồi tố(cg. Hiệu lực hồi tố) Hiệu lực hồi tố của đạo luật hình sự là hiệu lực của một văn bản pháp luật hình sự mới, được áp dụng đối với những hành vi xảy ra trước ngày ban hành văn bản pháp luật đó. Nguyên tắc chung là “bất hồi tố”, tức là không áp dụng đối với những hành vi đã xảy ra trước khi có văn bản pháp luật mới. Theo Điều 2- Bộ luật hình sự, chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo Điều 7 – Bộ luật hình sự thì điều luật áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành khi hành vi ấy được thực hiện. Như vậy hành vi phạm tội phải được quy định trong Bộ luật hình sự, phải xảy ra sau khi đạo đức luật hình sự đã có hiệu lực thi hành và trước khi đạo luật đó mất hiệu lực. Cụ thể là Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.1986 cho nên mọi hành vi phạm tội xảy ra từ ngày 1.1.1986 trở về sau đều bị xử lí theo quy định của Bộ luật hình sự, ngược lại những hành vi nào mà Bộ luật hình sự không quy định là tội phạm thì không được đưa ra truy tố xét xử. Từ nguyên tắc chung về áp dụng pháp luật hình sự, Khoản 2 – Điều 7 – Bộ luật hình sự quy định: Điều luật quy định một tội phạm mới hoặc một hình phạt nặng hơn không áp dụng đối với hành vi phạm tội đã được thực hiện khi điều luật đó được ban hành, trừ trường hợp luật quy định khác. Như vậy, Khoản 2 chỉ liên quan đến trường hợp luật đặt ra một tội phạm mới hoặc một hình phạt nặng hơn. Tuy nhiên, điều luật mới nếu có lợi cho bị cáo thì có hiệu lực hồi tố, cụ thể theo Khoản 3 – Điều 7 – Bộ luật hình sự thì những hành vi trước đây bị coi là tội phạm, nay Bộ luật hình sự không quy định là tội phạm, nếu xảy ra trước ngày 1.1.1986 thì không được đưa ra truy tố, xét xử.Từ điển Luật học trang 214
395Hỗn hợp chấtlà tập hợp của hai hoặc nhiều chất mà giữa chúng không xảy ra phản ứng hóa học trong điều kiện bình thường06/2007/QH12
396Hôn khếLà một chế định pháp lí về tài sản giữa vợ chồng và có thể làm thành khế ước (hợp đồng). Khế ước này được gọi là hôn khế. Tác dụng của hôn khế là: a) Chứng minh tài sản mà vợ, chồng mang về gia đình khi kết hôn. b) Xác định những tài sản giữa vợ chồng cho nhau hoặc được người khác cho. c) Xác định chế độ tài sản giữa vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Nếu vợ chồng không làm hôn khế thì chế độ tài sản giữa vợ chồng được thực hiện theo chế độ tài sản chung. Dưới thời chính quyền Sài Gòn ở Miền Nam trước đây, Bộ luật hôn nhân ngày 2.1.1959 và Bộ luật dân sự năm 1972 cũng có quy định về chế định hôn khế. Hôn khế được làm trước khi làm giá thú và là cơ sở để thanh toán tài sản của vợ chồng khi li thân hoặc li hôn. Luật hôn nhân và gia đình và Bộ luật dân sự của Việt Nam không quy định về hôn khế mà chỉ quy định về tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng. Đối với tài sản chung thì vợ, chồng có quyền ngang nhau. Đối với tài sản riêng thì người có tài sản có quyền nhập hay không nhập vào khối tài sản chung. (Xt. Tài sản của vợ chồng).Từ điển Luật học trang 230
397Hôn nhânSự liên kết giữa một người đàn ông chưa vợ và một người đàn bà chưa chồng dựa trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng và tự nguyện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nhằm xây dựng một gia đình dân chủ, hạnh phúc và bền vững. Hôn nhân được ghi nhận bằng văn bản đăng kí theo quy định của pháp luật tại nơi đăng kí kết hôn.Từ điển Luật học trang 230
398Hôn nhânlà quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn22/2000/QH10
399Hôn nhân có nhân tố nước ngoàiLà hôn nhân mà một bên là công dân Việt Nam và một bên là người có quốc tịch nước ngoài. Theo Nghị định số 12/HĐBT ngày 1.2.1989 của Hội đồng bộ trưởng về thủ tục kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tiến hành trước cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì người nước ngoài muốn kết hôn với công dân Việt Nam phải có đủ những điều kiện để kết hôn theo pháp luật của nước mà người đó là công dân (người có quốc tịch nước ngoài) hoặc theo pháp luật của nước mà người đó thường trú (người không có quốc tịch) đồng thời cũng phải tuân theo những quy định về tuổi kết hôn, nguyên tắc tự nguyện kết hôn và những trường hợp cấm kết hôn theo pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp người nước ngoài là công dân nước đã kí kết hiệp định tương trợ tư pháp với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì tuân theo những quy định của hiệp định đó. Cơ quan Nhà nước Việt Nam có thẩm quyền công nhận việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc cấp tương đương.Từ điển Luật học trang 230
400Họplà một hình thức của hoạt động quản lý nhà nước, một cách thức giải quyết công việc, thông qua đó thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hoạt động trong việc giải quyết các công việc thuộc chức năng, thẩm quyền của cơ quan mình theo quy định của pháp luật.114/2006/QĐ-TTg