Thuật ngữ pháp lý Thuật ngữ pháp lý

a b c d e f g h i k l m n o p q r s t u v w x y z all
Hiển thị 1-20 trong 507 thuật ngữ
SttThuật ngữMô tả / Định nghĩaNguồn
201Hiệu lực pháp luật của di chúc"Giá trị bắt buộc phải thi hành, tuân theo di chúc. Di chúc có hiệu lực pháp luật là các di chúc hợp pháp, tức là làm theo các hình thức luật định do người có đủ điều kiện lập, do vợ chồng lập chung, nội dung không trái pháp luật, đạo đức xã hội và những di chúc có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực có hiệu quả từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần khi người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc cùng một thời điểm với người lập di chúc. Nếu có nhiều thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến người nào chết trước hoặc cùng thời điểm với người lập di chúc là không có hiệu lực pháp luật; cơ quan tổ chức được di chúc chỉ định là thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế; di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế, nếu chỉ còn một phần, thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực pháp luật. Nếu di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác thì chỉ phần không hợp pháp là không có hiệu lực pháp luật. Trường hợp một người để lại nhiều bản di chúc, thì bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật."Từ điển Luật học trang 203
202Hiệu lực trong không gian1. Hiệu lực của pháp luật trong không gian là hiệu lực của pháp luật đối với một lãnh thổ, một địa phương nhất định. 2. Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực trong cả nước và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam, trừ trường hợp văn bản có quy định khác. 3. Văn bản quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân có hiệu lực trong phạm vi địa phương. 4. Văn bản quy phạm pháp luật cũng có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức, người nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam hoặc điều ước Quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác.Từ điển Luật học trang 203
203Hiệu lực về đối tượng áp dụngVăn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước trung ương có hiệu lực đối với: Mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam, trừ trường hợp văn bản có quyết định khác. Cơ quan, tổ chức, người nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật của Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác (Điều 79 – Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).Từ điển Luật học trang 203
204Hiệu lực về thời gianVăn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực từ thời điểm ghi trong văn bản ấy, hoặc theo nguyên tắc của hiệu lực về thời gian, được quy định ở Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 12.11.1996. Theo nguyên tắc quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có hiệu lực từ ngày đăng trên “Công báo”. Văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, thủ tướng, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày kí hoặc muộn hơn nếu được quy định tại văn bản đó: các văn bản quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp có thể quy định ngày có hiệu lực sớm hơn (Điều 75). Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản được ban hành sau (Điều 80 – Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực khi có văn bản quy phạm pháp luật khác thay thế, hủy bỏ, bãi bỏ (Điều 78 – Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Văn bản quy phạm pháp luật bị ngưng hiệu lực, nếu có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ thi hành để xem xét tính hợp pháp. Nếu không bị hủy bỏ, bãi bỏ thì lại tiếp tục có hiệu lực từ sau khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận và văn bản được ban hành đúng pháp luật (Điều 77 – Luật đất đai). (Xt. Hiệu lực về trước của văn bản quy phạm pháp luật).Từ điển Luật học trang 204
205Hiệu lực về trước của văn bản quy phạm pháp luật(cg. Hiệu lực hồi tố) Theo nguyên tắc chung, văn bản quy phạm pháp luật chỉ có hiệu lực về sau tức là thời điểm sau khi văn bản ra đời được ghi trên văn bản ấy hoặc theo nguyên tắc đã được quy định (x. Hiệu lực về thời gian). Trường hợp thật cần thiết văn bản quy phạm pháp luật được quy định hiệu lực trở về trước ghi rõ trong văn bản. “Những quy định của bộ luật này được áp dụng đối với các hợp đồng lao động. Thỏa ước tập thể và những thỏa thuận hợp pháp khác đã giao kết trước ngày bộ luật có hiệu lực ….” (Điều 196 – Bộ luật lao động năm 1994. Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 1.1.1995 theo Điều 197). Không được quy định hiệu lực trở về trước trong trường hợp: quy định trách nhiệm pháp lí đối với hành vi trước đó không bị coi là vi phạm pháp luật. Quy định trách nhiệm pháp luật nặng hơn. Trước đây là trách nhiệm hành chính nay nâng lên trách nhiệm hình sự. Được áp dụng trở về trước, nếu văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp luật nhẹ hơn (Điều 76, 80 – Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật).Từ điển Luật học trang 204
206Hình pháp học"Khoa học nghiên cứu về các dấu vết của tội phạm như dấu bàn chân, vân tay; dấu vết hung khí để lại trên người nạn nhân như ám khói, thuốc súng, vết đạn, vết đâm, vết chém, vv. Từ những dấu vết thu nhập được, hình pháp học sẽ giúp các cơ quan điều tra các vụ tội phạm, xác định được loại hung khí, hình dạng, tung tích người gây án, thủ đoạn, hành động của người gây án, thời gian xảy ra vụ án, tung tích nạn nhân, vv. Với những thành tựu của khoa học kĩ thuật hiện đại, khả năng và tác dụng của hình pháp học ngày càng lớn, đa dạng, giúp cho việc khám phá các vụ án nhanh chóng và chính xác hơn trước rất nhiều."Từ điển Luật học trang 205
207Hình phạtBiện pháp cưỡng chế do nhà nước quy định trong luật hình sự, được tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm. Hình phạt không chỉ nhằm ngừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.Từ điển Luật học trang 205
208Hình phạt bổ sung"Là hình phạt không thể được tuyên độc lập mà chỉ được tuyên kèm theo hình phạt chính phù hợp với tính chất và đặc điểm của một số loại tội phạm và nhân thân người phạm tội. Các hình phạt bổ sung gồm có: cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tước danh hiệu quân nhân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính. Đối với một tội phạm cụ thể, tòa án có thể chỉ tuyên hình phạt chính mà không kèm theo một hình phạt bổ sung nào, nhưng cũng có thể có một hoặc nhiều hình phạt bổ sung, nếu trong điều luật có ghi rõ có thể tuyên phạt hình phạt bổ sung. Việc quy định hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt có tác dụng hỗ trợ và tăng sức mạnh cưỡng chế và giáo dục của hình phạt chính, làm cho hình phạt được thực hiện một cách triệt để, đạt được mục đích của hình phạt, giúp cho cơ quan có thẩm quyền thực hiện được nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt, đảm bảo công bằng xã hội và pháp chế xã hội chủ nghĩa."Từ điển Luật học trang 205
209Hình phạt cảnh cáođược áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.15/1999/QH10
210Hình phạt chính"Hình phạt được tuyên độc lập. Đối với người phạm tội, phải áp dụng và chỉ có thể áp dụng một trong những hình phạt chính được quy định tại Điều 21 – Bộ luật hình sự. Trong phần tội phạm của Bộ luật hình sự, hình phạt chính được quy định trong điều luật về tội phạm cụ thể. Đối với một tội cụ thể chỉ có một loại hình phạt chính hoặc nhiều hình phạt chính để tòa án lựa chọn. Tòa án không thể áp dụng các hình phạt chính nào không được quy định trong điều luật về tội phạm, trừ trường hợp chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo Khoản 3 – Điều 38 – Bộ luật hình sự trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo; phạt tiền, cải tạo không giam giữ, cải tạo ở đơn vị kỉ luật của quân đội; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình."Từ điển Luật học trang 206
211Hình phạt phụLà tên gọi cũ nay gọi là hình phạt bổ sung. (xt. Hình phạt bổ sung).Từ điển Luật học trang 206
212Hình sự hóaViệc chuyển đổi các hành vi vi phạm pháp luật chỉ ở mức độ xử phạt hành chính thành tội phạm hình sự và tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Luật hình sự. Hình sự hóa là con đẻ của chính sách hình sự của chế độ độc tài, chuyên chế, của nhà nước khi đã rơi vào sự khủng hoảng và đánh mất đi sự ủng hộ của nhân dân.Từ điển Luật học trang 206
213Hình thư thời lýQua các thư tịch cổ thì Hình như thời Lý là bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử pháp chế Việt Nam, được ban hành vào tháng 10 năm Nhâm Ngọ, đời Lý Thái Tông (1042) gồm 3 quyển (theo Phan Huy Chú – Lịch triều hiến chương loại chí – Văn tịch chí). Trong sách Đại Việt sử kí toàn thư, sử gia Ngô Sĩ Liên viết: trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cố làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biến thành điều khoản, làm thành sách hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu, sách làm xong xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo. Bộ Hình thư thời Lý nay không còn, chỉ được nhắc lại trong sử sách mà thôi.Từ điển Luật học trang 206
214Hình thư thời Trần."Nhằm củng cố chế độ nhà nước trung ương tập quyền, triều đại nhà Trần rất quan tâm tăng cường hoạt động pháp chế của mình. Cũng như thời Lý, các văn bản pháp luật thời Trần đã bị thất lạc, chúng ta chỉ có thể tìm hiểu nền pháp luật đó thông qua bộ sử cũ. Nhà Trần đã xây dựng được 5 bộ luật quan trọng, trong đó có bộ “Hình thư”, còn gọi là “Hình luật thư” gồm 1 quyển do Trương Hán Siêu và Nguyễn Trung Ngạn biên soạn theo chỉ định của vua Trần Dụ Tông và ban hành năm Tân Tị (1341). Bốn bộ luật kia gồm: “Quốc triều thường lễ” 10 quyển (1230); “Quốc triều thông chế” 20 quyển (1230); “Hoàng triều đại điển” 10 quyển (1341) và “Năm công văn cách thức” 1 quyển (1290). Đánh giá chung và so sánh luật pháp hai thời Lý – Trần, sử gia lỗi lạc Phan Huy Chú trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” có nhận xét: “Hình của nhà Lý lỗi ở khoan dung, hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc”."Từ điển Luật học trang 207
215Hình thức kế toánlà các mẫu sổ kế toán, trình tự, phương pháp ghi sổ và mối liên quan giữa các sổ kế toán03/2003/QH11
216Hình thức pháp luật."Trên thế giới có 3 hình thức pháp luật được công nhận: 1. Hình thức pháp luật tập quán (cg. Tập quán pháp, tục lệ pháp) gồm các phong tục, tập quán được thừa nhận, công nhận là pháp luật ở các nhà nước chủ nô, phong kiến trước kia và ở một vài nhà nước hiện nay. 2. Hình thức pháp luật tiền lệ (x. Tiền lệ pháp) ở Anh, Mĩ và một số nước chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Anh, Mĩ: thực tiễn xét xử; quản lý được coi là pháp luật. 3. Hình thức pháp luật bằng văn bản (x. Luật thành văn) là hình thức phổ biến hiện nay. Các văn bản pháp luật (văn bản quy phạm pháp luật) có nhiều hình thức cụ thể hợp thành hệ thống pháp luật thành văn, vd. Hiến pháp, bộ luật, luật, vv."Từ điển Luật học trang 207
217Hình thức trả lương"Cách thức mà người sử dụng lao động trả lương cho người lao động theo quy định trong Bộ luật lao động năm 1994. Người sử dụng lao động có quyền chọn các hình thức trả lương: theo thời gian (giờ, ngày, tuần, tháng), trả sau giờ, ngày, tuần làm việc hoặc trả gộp do hai bên thỏa thuận. Nhưng ít nhất 15 ngày phải trả gộp 1 lần, trả lương cả tháng một lần hoặc nữa tháng một lần; trả theo sản phẩm, theo khoán, theo sự thỏa thuận của hai bên. Nếu sản phẩm hoặc việc khoán phải làm trong nhiều tháng thì mỗi tháng được tạm ứng lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng (Điều 58 – Bộ luật lao động năm 1994)."Từ điển Luật học trang 207
218Hình thức trả lương theo sản phẩmHình thức trả lương căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm của người lao động trong sản xuất. Theo Bộ luật lao động, người lao động hưởng lương theo sản phẩm thì được trả lương theo thỏa thuận, nếu công việc phải làm trong nhiều tháng thì hàng tháng được tạm ứng lương theo khối lượng công việc đã làm trong tháng.Từ điển Luật học trang 208
219Hình thức trả lương theo thời gian"Hình thức trả lương theo độ dài thời gian làm việc (giờ, ngày, tuần, tháng). Theo Bộ luật lao động, người lao động hưởng lương theo giờ, ngày, tuần thì được trả lương sau giờ, ngày, tuần làm việc ấy hoặc được trả gộp nhưng ít nhất 15 ngày phải được trả gộp một lần; nếu hưởng lương tháng thì được trả lương cả tháng một lần hoặc nữa tháng một lần."Từ điển Luật học trang 208
220Hình thức xử phạt hành chính"Gồm có: 1. Hình phạt chính: cảnh cáo, phạt tiền. 2. Hình phạt bổ sung; tước quyền sử dụng giấy phép (vd. Tước bằng lái các phương tiện giao thông, phương tiện vận tải, giấy phép kinh doanh hoặc các loại giấy phép khác); tịch thu tang vật phương tiện vi phạm. Ngoài những hình thức xử phạt hành chính đã nêu, những người vi phạm còn có thể bị buộc phải: a) Khôi phục lại tình trạng đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. b) Bồi thường thiệt hại trực tiếp do vi phạm hành chính gây ra. c) Thiêu hủy các văn hóa phẩm đồi trụy, vật phẩm có thể gây hại cho tinh thần, tư tưởng hoặc sức khỏe con người. d) Đình chỉ hoạt động gây ô nhiễm môi trường sống, lây lan dịch bệnh, gây náo động làm mất sự yên tĩnh chung và yêu cầu thực hiện biện pháp khắc phục."Từ điển Luật học trang 208