Bản án số 96/2025/DS-ST ngày 04/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 2 - Cần Thơ, TP. Cần Thơ về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 96/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 96/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 96/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 96/2025/DS-ST ngày 04/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 2 - Cần Thơ, TP. Cần Thơ về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 2 - Cần Thơ, TP. Cần Thơ |
| Số hiệu: | 96/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 04/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Bà Đ khởi kiện yêu cầu bà M trả lại phần ranh đất đã lấn chiếm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 2 - CẦN THƠ
Bản án số: 96/2025/DS-ST
Ngày: 04/9/2025
“V/v tranh chấp ranh giới giữa
các bất động sản liền kề”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 2 - CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phương Văn Chính
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Ngô Minh Thi.
2. Bà Ngô Thị Út Hậu.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Ngọc Anh – Thư ký Tòa án nhân dân khu vực
2 - Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 2 – Cần Thơ tham gia phiên
tòa: Bà Trần Cẩm Tú – Kiểm sát viên.
Trong ngày 04 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân khu vực 2 - Cần
Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 202/2024/TLST-DS ngày 24 tháng
10 năm 2024 về việc “Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 168/2025/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 8 năm
2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Quan Anh Đ, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khu vực 4,
phường Tân An, thành phố Cần Thơ.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Phúc Khánh T, sinh năm 1985. Địa
chỉ: Số XX, đường số 15, khu NCĐT, phường An Khán, quận Ninh Kiều, thành
phố Cần Thơ (nay là Số XX, đường số 15, khu NCĐT, phường Tân An, thành phố
Cần Thơ); Bà Ngô Thị C, sinh năm 1961; Ông Quan Ngọc Ph, sinh năm 1983.
Cùng địa chỉ: Khu vực Thới Trinh C, phường Thới An, quận Ô Môn, thành phố
Cần Thơ (nay là Khu vực Thới Trinh C, phường Ô Môn, thành phố Cần Thơ).
(Giấy ủy quyền 12/11/2024) (Có mặt)
- Bị đơn: Bà Ngô Thị M, sinh năm 1958. Địa chỉ: Khu vực Thới Trinh B,
phường Thới An, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ (nay là Khu vực Thới Trinh B,
phường Ô Môn, thành phố Cần Thơ).
Đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Th L, sinh năm 1964. Địa chỉ: Khu vực
Thới Xương 1, phường Thới Long, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ (nay là Khu
2
vực Thới Xương 1, phường Thới Long, thành phố Cần Thơ); Bà Ngô Thị Sm, sinh
năm 1963. Địa chỉ: Số AB, đường 13 khu tái định cư Thới Nhựt, phường An
Khánh, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (nay là Số AB, đường 13 khu tái định
cư Thới Nhựt, phường Tân An, thành phố Cần Thơ); Bà Ngô Thị B, sinh năm
1965. Địa chỉ: Số AB, đường 13 khu tái định cư Thới Nhựt, phường An Khánh,
quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (nay là Số AB, đường 13 khu tái định cư Thới
Nhựt, phường Tân An, thành phố Cần Thơ); Ông Ngô Văn Th, sinh năm 1967.
Địa chỉ: Khu vực Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, thành phố Cần
Thơ (nay là Khu vực Thới Trinh B, phường Ô Môn, thành phố Cần Thơ). (Giấy ủy
quyền 23/4/2024 và Giấy ủy quyền 23/7/2025) (Có mặt)
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Phúc Khánh T,
sinh năm 1985. Địa chỉ: Số XX, đường số 15, khu NCĐT, phường An Khán, quận
Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ (nay là Số XX, đường số 15, khu NCĐT, phường
Tân An, thành phố Cần Thơ); (Có mặt).
- Người làm chứng: Ông Ngô Văn Kh, sinh năm 1953 và ông Ngô Văn Đg,
sinh năm 1951 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: Khu vực Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, thành
phố Cần Thơ (nay là Khu vực Thới Trinh B, phường Ô Môn, thành phố Cần Thơ).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 13/5/2024 và quá trình giải quyết, nguyên đơn
bà Quan Anh Đ (Có ông Nguyễn Phúc Khánh T là đại diện theo ủy quyền) trình
bày:
Bà là người sử dụng đất diện tích 2.270m
2
, thửa số 127, tờ bản đồ số 5, tọa
lạc tại khu vực Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, Tp. Cần Thơ theo
Giấy chứng nhận QSD đất số (vào sổ) CH03924 do UBND quận Ô Môn cấp ngày
15/05/2014 cho bà Quan Anh Đ đứng tên người sử dụng đất.
Thửa đất số 127 của bà giáp ranh với thửa đất số 126 của bà Ngô Thị M
(thửa 126 trên tờ bản đồ số 5, giấy chứng nhận QSD đất số CH03908 do UBND
quận Ô Môn cấp ngày 06/05/2014 cho bà Ngô Thị M đứng tên người sử dụng đất).
Đầu năm 2024, bà chuẩn bị làm giấy điều chỉnh biến động đất đai để lấy số
đo thực tế thửa đất 127 nêu trên thì phát hiện bà M tự ý cắm mốc ranh giới lấn sang
phần đất của bà khoảng 0,7m Cều ngang, chạy dài tạm tính 125m trên thửa đất 127,
tự ý đo đạc để lập thủ tục đăng ký biến động đất đai xin cấp lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của bà M đang sử dụng (tại thửa đất 126) mà chưa trao đổi với
bên bà, người tham gia cắm mốc là ông Ngô Văn Th (em ruột bà M).
Khi phát hiện sự việc, gia đình bà đã yêu cầu phía hai bên cùng đo đạc đối
Cếu ranh đất theo bản vẽ trong bằng khoán, cụ thể vào lúc 14h00p đến 16h00p
ngày 24/02/2024 hai bên đã cùng đến ranh đo đạc lại; bên bà có bà, chồng bà, mẹ
ruột bà, chị dâu; bên bà M có bà M, ông Th, bà Tám B em bà M, chồng bà Tám B.
3
Sau khi đo phần đất của bà M đã lấn sang phần đất của bà khoảng 0,7m ngang phía
mặt tiền đất.
Bà yêu cầu phía gia đình bà M trả lại phần đất lấn sang để hai bên tiến hành
cắm lại cột mốc nhưng bà M, ông Th không đồng ý trả. Sau nhiều lần nói chuyện,
nhắn tin nhưng phía bà M vẫn không trả lại phần đất lấn Cếm. Qua tìm hiểu, ông
Th thay mặt bà M đã tự ý cắm mốc, đo đạc và làm thủ tục cấp lại bằng khoán mới,
thủ tục đang được cơ quan chức năng tiếp nhận hồ sơ (có bản vẽ sau đo đạc, có sự
chứng kiến của cán bộ khu vực).
Do bên bà M có ý muốn lấn Cếm đất của bà nên vụ việc đã được đưa ra hòa
giải ở phường Thới An vào ngày 28/03/2024 nhưng không thành bởi bà M không
chịu đo đạc lại mà chỉ khẳng định ranh đất hiện tại là ranh đất giữa hai bên.
Nay bà có yêu cầu bà Ngô Thị M trả lại phần đất lấn Cếm Cều ngang 0,7m
chạy dài tạm tính là 125m trên thửa đất 127, tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại khu vực
Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ theo Giấy chứng
nhận QSD đất số (vào sổ) CH03924 do UBND quận Ô Môn cấp ngày 15/05/2014
cho bà Quan Anh Đ đứng tên người sử dụng đất. Qua đo đạc thực tế diện tích tranh
chấp là 45,6m
2
tại vị trí A theo Trích đo địa chính số 26-2025 ngày 30/6/2025 của
Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Cần Thơ.
Tại bản tự khai đề ngày 12/11/2024, ngày 28/7/2025 và quá trình giải quyết,
bị đơn bà Ngô Thị Mảnh (có ông Phạm Th L, ông Ngô Văn Th, bà Ngô Thị Sm, và
bà Ngô Thị B là đại diện theo ủy quyền) trình bày:
Nguồn gốc các thửa đất đang tranh chấp: thửa đất số 126, tờ bản đồ số 5,
diện tích 1762m
2
tọa lạc khu vực Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, Tp.
Cần Thơ thuộc Giấy chứng nhận số BT132482, được UBND quận Ô Môn, Tp. Cần
Thơ cấp ngày 06/5/2014 cho bà Ngô Thị M và thửa đất số 127, tờ bản đồ số 5, diện
tích 2270m
2
tọa lạc tại khu vực Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, Tp.
Cần Thơ theo Giấy chứng nhận số BT132546, được UBND quận Ô Môn, Tp. Cần
Thơ cấp ngày 15/5/2014 cho bà Quan Anh Đ. Các thửa đất trên trước đây là của
ông Ngô Văn Dậu (ông nội của bị đơn), ông Ngô Văn Dậu có 02 người con trai là
ông Ngô Văn Long và ông Ngô Văn Ẩn sau khi chết ông Dậu để lại các thửa đất
trên cho con cháu.
Thửa đất 127 trước đây được ông Ngô Văn Long (bác của bị đơn) canh tác,
còn thửa đất 126 do ông Ngô Văn Ẩn (cha của bị đơn) quản lý sử dụng. Lúc còn
sinh thời, vào năm 1964 ông Long và ông Ẩn thống nhất Đ mương, cấm trụ Ca
mương nước ra ½ để làm ranh giới phân định 02 thửa đất, đồng thời mương nước
này được các bên sử dụng chung để tưới tiêu cho cây trồng của các bên. Việc Đ
mương có sự chứng kiến của ông Ngô Văn Đg (con của ông Long) đại diện bên sử
dụng đất của ông Long và ông Ngô Văn Kh (con ông Ẩn) đại diện bên sử dụng đất
4
của ông Ẩn. Sau khi mương ranh được hình thành phần đất của ai thì người đó sử
dụng, việc sử dụng ổn định, lâu dài cho đến khi phát sinh tranh chấp vào năm
2024.
Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp: Năm 2012, bị đơn có đăng ký đo đạc để
tách 01 phần thửa đất cho người cháu là ông Ngô Minh Khải, khi đo đạc có sự
chứng kiến của vợ chồng ông Hoàng, bà C, vào thời điểm này vợ chồng bà C
thống nhất với ranh giới đất như hiện tại.
Tuy nhiên, do phần đất không đủ diện tích tối thiểu để tách thửa nên thủ tục
không thể tiếp tục thực hiện. Năm 2023, bị đơn có mong muốn tiếp tục tách một
phần diện tích của thửa đất 126 cho anh Khải. Tuy nhiên, thửa đất 126 không có số
đo cụ thể về Cều ngang, Cều dài mà chỉ thế hiện tổng diện tích T bộ thửa đất, nên
khi thực hiện thủ tục tách thửa thì Cơ quan đăng ký đất đai yêu cầu phải tiến hành
đo đạc lại thửa đất và cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì mới được tiến
hành tách thửa tặng cho.
Theo hướng dẫn, bị đơn đã đăng ký đo đạc tại Văn phòng đăng ký đất đai
quận Ô Môn, việc đo đạc có cán bộ địa chính là anh Nam thực hiện, khi đo đạc các
chủ đất giáp ranh đều chứng kiến, phần đất giáp ranh thửa 127 do bà Ngô Thị C
chỉ ranh và ký xác nhận. Đối với phần thửa đất 126 bị đơn đã xác định diện tích
như hiện trạng đang sử dụng, phần mương ranh bà C cũng thống nhất lấy ở giữa
mương làm chuẩn theo sự hình thành lâu đời và sử dụng ổn định của 02 thửa đất.
Tại giữa mương có trụ đá làm ranh nhưng chảy qua thời gian dài sử dụng nên đã bị
sụp lún sâu, bị đơn đã cậm lại trụ cao hơn mặt nước để cho địa chính dễ tiến hành
đo đạc, việc này bà C cũng không phản đối. Khoảng tháng 02/2024, giữa bị đơn và
bà Đ, ông T (chồng nguyên đơn) cùng nhau thỏa thuận, thống nhất cậm lại trụ ranh
ở điểm cuối cùng của thửa đất, phần này dời qua thửa đất 126 khoảng 1m, nhưng
bị đơn cũng đồng ý nhường cho nguyên đơn, đồng thời trụ đá ở điểm đầu thửa đất
các bên cũng thống nhất.
Khi có mảnh trích đo, không hiểu lý do vì sau bị đơn chưa được cung cấp
nhưng phía nguyên đơn đã nhận trước, căn cứ vào mảnh trích đo, nguyên đơn có
đến gặp em trai của bị đơn là ông Ngô Văn Th để hỏi chuyện. Diện tích bề ngang
của chú là bao nhiêu? - ông Th trả lời: diện tích khoảng 12m, không rõ. Sau đó,
nguyên đơn cho rằng, diện tích thể hiện trên mảnh trích đo là 12,3m nên yêu cầu
ông Th phải trả lại phần đất bề ngang 0,3m cho nguyên đơn. Bị đơn không đồng ý,
sau đó nguyên đơn tiến hành khởi kiện bị đơn ra Tòa.
Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
buộc bị đơn giao trả phần đất lấn Cếm là không có cơ sở. Bởi, thửa đất 127 được
UBND quận Ô Môn cấp năm 2014 trên giấy chứng nhận không thể hiện diện tích
Cều ngang, Cều dài chỉ thể hiện tổng diện tích đất là 1762m
2
, phần đất này bị đơn
5
sử dụng ổn định, lấy mương ranh làm mốc giới, không có hành vi lấn Cếm qua
phần đất của nguyên đơn, đối với các thửa đất liền kề khác các bên cũng đã thống
nhất ranh giới từ lâu không có tranh chấp. Bên cạnh đó, thửa đất 127 trước đây là
của bà C, sau này bà C tặng cho con gái là bà Đ, việc tặng cho, cấp đổi sổ mới năm
2014 cũng không thực hiện việc đo đạc, xác nhận lại ranh giới, khi làm thủ tục
đăng ký biến động bà C cũng không thông báo cho bị đơn là thửa đất liền kề hay
biết, thửa đất 126 cũng không rõ diện tích Cều ngang, Cều dài. Do đó, việc ông Th
không nắm rõ diện tích Cều ngang thực tế là hoàn T bình thường, hơn thế nữa, ông
Th cũng không phải là chủ sở hữu quyền sử dụng tại thửa 126. Mặt khác, bị đơn
cũng tiến hành đo lại diện tích thửa đất 126 thì phần diện tích đang sử dụng cũng bị
hụt so với giấy chứng nhận. Nên việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả đất là không
đúng, bị đơn không có lấn Cếm đất của nguyên đơn.
Nay bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xác định ranh
giới là mương nước đã có từ các chủ sử dụng trước, phần đất của ai người đó sử dụng.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Phúc Khánh T trình
bày: Ông là chồng của nguyên đơn bà Quan Anh Đ. Ông thống nhất với ý kiến trình
bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông không yêu cầu gì trong vụ án này.
Tại bản tự khai đề ngày 12/02/2025, ngy 28/7/2025 Người làm chứng ông
Ngô Văn Kh trình bày: Trước đây cha ông là ông Ngô Văn Ẩn (đã chết) và bác ruột
ông là ông Ngô Văn Long (đã chết) được ông bà nội cho mỗi người một miếng đất
để canh tác, bao gồm thửa l26 cho cha ông và thửa 127 cho bác ông. Trong quá trình
sử dụng cha ông và bác ông có Đ một cái mương chung để lấy nước sử dụng, đồng
thời phân định ranh dất của 2 thửa 126 và 127 kể trên là giữa mương. Mương được
Đ khoảng năm 1964, người Đ là ông Tư Điểm và ông Tám Thẹo (ở khu vực Thới
Phong, phường Thới An (nay là phường Ô Môn). Hai người Đ mương hiện đã chết.
Từ dó đến nay hai bên vẫn dùng chung đến khi bác ông mất, gia đình bác ông bán
lại cho bà Ngô Thị C sử dụng, còn đất của cha ông sau khi ông mất thì chuyển cho
em ông là Ngô Thị M canh tác cho đến tận hôm nay. Từ xưa đến nay hai bên đất ai
người nấy sử dụng và ranh đất vẫn là giữa mương không thay đổi.
Cho đến gần đây, bà Ngô Thị C cho con gái là Quan Anh Đ thửa hưởng thửa
127. Sau đó, bà Quan Anh Đ cho rằng thửa 127 bị thiếu đất, kiện đòi bị đơn Ngô Thị
M (chủ thửa 126) trả Cều ngang 0,7m dài tạm tính 125m. Ông nhận thấy lý do đòi
phần đất trên của bà Quan Anh Đ là hoàn T vô căn cứ, không đúng sự thật, không
có cơ sở pháp lý cụ thể. Ông sinh ra và lớn lên tại vùng đất này, ông hiểu rất cụ thể
ranh đất giữa cha ông là Ngô Văn Ẩn và bác ông là Ngô Văn Long là giữa mương.
Hơn nữa em ông Ngô Thị M đã được Ủy ban nhân dân quận Ô Môn cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 126 diện tích 1762m
2
tọa lạc khu vực Thới
6
Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, Tp. Cần Thơ nay là phường Ô Môn, TP.
Cần Thơ từ năm 2002 thuộc Giấy chứng nhận số 03874 ngày 11/7/2002, và được
cấp lại ngày 06/5/2014 thửa 126 diện tích 1762m
2
tờ bản đổ số 5 là hoàn T đúng
pháp luật.
Ông xin hoàn T chịu trách nhiệm về những lời khai của mình và biết rõ từ
xưa đến nay phần đất của Ngô Thị M sử dụng đúng mục đích, đúng diện tích,
không lấn Cếm của ai và ranh đất là ½ mương.
Tại bản tự khai đề ngày 12/02/2025, ngày 28/7/2025 Người làm chứng ông
Ngô Văn Đg trình bày: Trước đây cha ông là ông Ngô Văn Long và chú ông là ông
Ngô Văn Ẩn được ông bà nội cho mỗi người một phần đất để canh tác, cha ông là
thửa l27 và chú ông là thửa 126. Quá trình sử dụng cha ông và chú ông có thống
nhất Đ một cái mương chung để lấy nước sử dụng, đồng thời phân định ranh đất là
1/2 mương, mương được Đ khoảng năm 1964, người Đ là ông Tư Điểm, ông Tám
Thẹo ở khu vực Thới Phong, phường Thới An, nay là phường Ô Môn (hai ông nay
đã chết). Sau khi cha ông chết, gia đình bán mảnh đất lại cho bà Ngô Thị C (là con
ruột của chú ông) tiếp tục sử dụng canh tác, còn đất của chú ông sau khi ông chết
thì chuyển cho con ruột của chú là bà Ngô Thị M canh tác cho đến nay. Khi đó đến
nay, hai bên đất ai người nấy sử dụng, ranh đất vẫn thống nhất là giữa mương.
Sau này, ông được biết bà Ngô Thị C cho thửa 127 của bà cho con ruột là bà
Quan Anh Đ sử dụng. Gần đây, bà Đ kiện đòi bà Ngô Thị M (chủ thửa 126) trả
Cều ngang 0.7m dài tạm tính 125m vì cho rằng bà M lấn ranh đất. Ông nhận thấy
đây là một việc làm hoàn T sai, vô căn cứ, không phù hợp pháp lý. Ông sinh ra và
lớn lên mấy chục năm ở đại Ph, nhà cha ông và chú ông gần nhau và hai phần đất
cũng gần nhau ông hiểu rất cụ thể về ranh đất giữa hai thửa 126 và 127 là giữa
mương không thay đổi. Hơn nữa bà Ngô Thị M cũng đã được Ủy ban nhân dân
quận Ô Môn (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 126, tờ bản đồ số 5,
diện tích 1762m
2
tọa lạc khu vực Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô Môn, Tp.
Cần Thơ - nay là phường Ô Môn, Tp. Cần Thơ thuộc Giấy chứng nhận số
BTI32482, cấp ngày 06/5/2014 là hoàn T đúng pháp luật.
Với tư cách là con của ông Ngô Văn Long (chủ thửa 127 cũ) và là cháu ruột
ông Ngô Văn Ẩn (chủ thửa 126 cũ) ông đã trình bày rõ ràng về ranh giới của hai
phần đất đang tranh chấp. Ông xin hoàn T chịu trách nhiệm về những lài khai của
mình trước pháp luật.
Tại phiên tòa, đai diện nguyên đơn trình bày: giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Yêu cầu bị đơn giao trả lại cho nguyên đơn phần đất có diện tích 45,6m
2
tại vị trí A
theo bản trích đo địa chính số 26-2025 ngày 30/6/2025.
7
Đai diện bị đơn trình bày: không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân khu vực 2 – Cần Thơ phát biểu quan điểm:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa:
thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Nguyên
đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi xem xét các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua lời
trình bày của các đương sự tại phiên tòa cho thấy: phần diện tích đất các bên tranh
chấp là con mương lấy nước tưới tiêu cho hai miếng vườn của nguyên đơn và bị
đơn đã hình thành từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, qua đo đạc thực tế thì diện tích
đất của nguyên đơn bị thiếu 944,9m
2
và bị đơn bị thiếu 317,8m
2
. Trong khi phần
đất tranh chấp chỉ có 45,6m
2
, trường hợp giao phần đất này cho nguyên đơn thì đất
của nguyên đơn cũng không đủ diện tích theo giấy được cấp và phía bị đơn lại có
có đường nước để tưới tiêu cho miếng vườn hiện tại đang trồng sầu riêng.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Về C phí tố tụng và án phí: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Phần đất tranh chấp lần lượt được xác định là các
phần đất liền kề giữa thửa 127 của nguyên đơn bà Quan Anh Đ với thửa 126 của bị
đơn bà Ngô Thị M, đất tọa lạc tại khu vực Thới Trinh B, phường Thới An, quận Ô
Môn, thành phố Cần Thơ – Nay là khu vực Thới Trinh B, phường Ô Môn, thành
phố Cần Thơ. Quá trình sử dụng, bà Đ cho rằng bà M lấn Cếm đất và có đơn khởi
kiện. Do đó, quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ranh giới giữa các bất
động sản liền kề” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản
9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 1
Điều 203 Luật đất đai năm 2013 sửa đổi, bổ sung 2018 (Luật nội dung có hiệu lực
tại thời điểm Tòa án thụ lý vụ án ngày 24/10/2024).
[2] Về nội dung vụ án:
Hội đồng xét xử, nhận thấy:
8
Theo Trích đo địa chính số 26-2025 ngày 30/6/2025 của Văn phòng Đăng ký
đất đai thành phố Cần Thơ thì diện tích thực tế và diện tích theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của các đương sự có chênh lệch, như sau:
- Diện tích đất do bà Quan Anh Đ quản lý, sử dụng tại thửa 127, diện tích
2.270m
2
(theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng đo đạc thực tế là
1.325,1m
2
(chênh lệch thiếu 944,9m
2
).
- Diện tích đất do bà Ngô Thị M quản lý, sử dụng tại thửa 126, diện tích
1.762m
2
(theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nhưng đo đạc thực tế là
1.444,2m
2
(chênh lệch thiếu 317,8m
2
).
- Diện tích tranh chấp giữa bà Đ với bà M là 45,6 m
2
tại vị trí A theo Trích
đo địa chính.
Theo hồ sơ trích lục của C nhánh Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
quận Ô Môn xác định: việc cấp Giấy cho bà Đ (năm 2014) căn cứ vào hồ sơ tặng
cho quyền sử dụng đất từ bà Ngô Thị C, khi thực hiện việc cấp Giấy không lập
Bản mô tả ranh giới mốc giới thửa đất, cấp Giấy cho bà C căn cứ vào hồ sơ chuyển
nhượng quyền sử dụng từ ông Ngô Văn Th cho bà Ngô Thị C (năm 2012) đối với
trọn thửa đất số 127; việc cấp Giấy cho bà M (năm 2014) căn cứ vào hồ sơ địa
chính quyền sử dụng đất, bà M được cấp Giấy lần đầu vào ngày 11/7/2002 theo
Giấy CNQSD đất số 03874, khi thực hiện việc cấp Giấy đối với thửa 126 không
lập Bản mô tả ranh giới mốc giới thửa đất; cấp Giấy cho bà M căn cứ vào hồ sơ
chuyển nhượng quyền sử dụng từ ông Ngô Văn Ẩn cho bà Ngô Thị M (năm 2002)
đối với trọn thửa đất số 126.
Theo đó, nguyên nhân có sự chênh lệch giữa diện tích thực tế và diện tích
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì:
+ Đối với thửa 127, dẫn Cếu đến hồ sơ gốc tại thửa 127 của ông Ngô Văn
Th (đã chuyển nhượng cho bà Ngô Thị C) là do trên cơ sở kê khai, đăng ký vào
thời điểm ngày 22/12/2005.
+ Đối với thửa 126, dẫn Cếu đến hồ sơ gốc là hình thành từ thửa 126 của
ông Ngô Văn Ẩn, không có lập Biên bản đo đạc, thẩm tra xác minh, mô tả thửa
đất. Sau đó chuyển nhượng hết thửa 126 cho bà Ngô Thị M, do chuyển nhượng hết
thửa nên không đo đạc thực tế.
+ Theo đó, diện tích thực tế là đúng hiện trạng sử dụng đất của đương sự.
Đồng thời, các đương sự cũng thống nhất từ trước đến nay các bên sử dụng
trên thửa đất được cơ quan Nhà nước cấp không có đo đạc lại và thống nhất với
diện tích thực tế sử dụng không có khiếu nại gì. Từ đó cho thấy diện tích đất thực tế
9
các đương sự sử dụng có sự chênh lệnh so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
do thời điểm cơ quan cấp giấy đất cho các đương sự chỉ dựa theo tờ khai mà các
đương sự cung cấp như công văn của UBND quận Ô Môn phúc đáp là có cơ sở.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Tại phiên tòa, nguyên đơn thừa nhận và theo các tài liệu chứng cứ cũng thể
hiện: phần đất tại thửa 127 của nguyên đơn có quá trình sử dụng liên tục lâu dài,
đương sự nối tiếp sử dụng đất cố cựu tại địa Ph. Bởi theo Trích lục hồ sơ địa chính
thì: nguồn gốc sử dụng thửa đất trên được cấp Giấy cho bà Ngô Thị C (là mẹ
nguyên đơn) vào thời điểm ngày 15/8/2012 (không thiết lập bản mô tả ranh giới
mốc giới thửa đất); còn khi ông Th thực hiện thủ tục tặng cho quyền sử dụng cho
bà C là tặng cho trọn thửa đất 127, diện tích 2.270m
2
nên khi cấp Giấy mới không
đo đạc lại. Như vậy, đối với nguyên đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất
(ranh giới giữa các bất động sản liền kề) phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Trong khi, bà Đ
không chứng minh được bà M đã lấn ranh đất của bà như thế nào.
Mặc dù, đất nguyên đơn tại thửa 127 thiếu 944,9 m
2
so với Giấy được cấp;
phần đất của bà M khi đo đạc có tổng diện tích cũng thiếu so với Giấy được cấp là
317,8 m
2
.
Hơn nữa, các đương sự đều khẳng định về hình thể thửa đất, mương ranh đất
từ trước đến nay là đường thẳng, không khác so với hình thể thửa đất thể hiện trên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà các bên được cấp. Đối Cếu với Trích đo
địa chính số 26-2025 ngày 30/6/2025 thì hình thể thửa đất và ranh đất mà bị đơn
xác định phù hợp với hình thể thửa đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
được cấp cho bị đơn.
Đồng thời, tại phiên tòa các đương sự đều thừa nhận phần đất tranh chấp là
con mương lấy nước từ rạch phía trước vào tưới tiêu cho hai miếng vườn (của
nguyên đơn và bị đơn) từ lâu đời nay. Nếu con mương này bồi đắp thì không có
đường nước nào khác để lấy nước tưới tiêu và nếu giáo con mương này cho một
trong các bên sử dụng thì bên còn lại cũng không có đường nước đề tưới tiêu cho
M vườn.
Như đã phân tích trên, phần đất tại vị trí A theo Trích đo địa chính là con
mương giữa hai phần đất của bà Đ và bà Mảnh, được hai gia đình sử dụng làm
đường nước để phục vụ tưới tiêu chung nên cần thiết giữ nguyên hiện trạng.
Hơn nữa, cho đến nay cơ quan có thẩm quyền không có bất kỳ sự điều chỉnh
hay thu hồi nào đối với phần đất đã được cấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
10
đất cho các bên nên vẫn còn nguyên giá trị theo quy định tại Điều 688 Bộ luật dân
sự.
Đối với các thửa đất có diện tích chênh lệch so với Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất được cấp cần điều chỉnh tổng diện tích thửa đất theo quy định pháp luật.
Từ những phân tích trên, thấy rằng: Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân khu vực 2 – Cần Thơ về việc giải quyết vụ án là phù hợp. Yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn không có căn cứ chấp nhận.
[4] Về C phí thẩm định, định giá tài sản và lệ phí trích đo địa chính: Do yêu
cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu T bộ C phí
này, bao gồm: C phí thẩm định, định giá tài sản là 4.000.000 đồng và lệ phí trích
đo địa chính là 2.837.340 đồng – đã thực hiện xong.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không
được chấp nhận nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 9 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 156; Điều
157; Điều 158; Điều 164; Điều 165; Điều 166; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và
Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Điều 166 và Điều 175 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Điều 166 Luật đất đai năm 2013 sửa đổi, bổ sung năm 2018;
- Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Quan Anh Đ về việc
buộc bị đơn bà Ngô Thị M giao trả phần đất có diện tích 45,6 m
2
tại vị trí A theo
bản trích đo địa chính số 26-2025 ngày 30/6/2025 của Văn phòng đăng ký đất đai –
Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Cần Thơ.
Các đương sự được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để đăng ký và điều
chỉnh diện tích sử dụng theo quy định của pháp luật.
Kiến nghị cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh diện tích đất theo hiện trạng.
(Kèm Trích đo địa chính số 26-2025 ngày 30/6/2025 của Văn phòng đăng ký
đất đai – Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Cần Thơ).
11
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp số tiền 300.000 đồng (Ba
trăm nghìn đồng), khấu trừ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002126 ngày
21/10/2024 của C cục Thi hành án dân sự quận Ô Môn – Nay là Phòng Thi hành
án dân sự khu vực 2 - Cần Thơ thành án phí.
- Về C phí thẩm định, định giá tài sản và lệ phí trích đo địa chính: Nguyên
đơn phải chịu 6.837.340 đồng (Sáu triệu tám trăm ba mươi bảy nghìn ba trăm bốn
mươi đồng), đã thực hiện xong.
Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt
được quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét
xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; Điều 7; Điều 9
Luật thi hành án dân sự và Điều 7a, 7b Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND KV2 – Cần Thơ;
- Phòng THADS KV2 - Cần Thơ;
- TAND TP. Cần Thơ;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Ph Văn Chính
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 05/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 11/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 09/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 24/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 14/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm