Bản án số 57/2024/DS-ST ngày 25/07/2024 của TAND huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 57/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 57/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 57/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 57/2024/DS-ST ngày 25/07/2024 của TAND huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Hiệp Hòa (TAND tỉnh Bắc Giang) |
Số hiệu: | 57/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | điệp - xuyến |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
Bản án số:57/2024/DS-ST
Ngày: 25-7-2024
V/v “Tranh chấp đòi lại tài sản
là Quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA – BẮC GIANG
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Sự
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Ngọc Trứ
Ông Nguyễn Văn Bào
-Thư ký phiên toà: Bà Vũ Thị Kim Chi - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.
- Đại diện VKSND huyện Hiệp Hòa: Bà Nguyễn Hồng H - Kiểm sát viên
Trong các ngày 27/6/2024 và ngày 25/7/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án
dân sự thụ lý số 319/2024/TLST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh
chấp kiện đòi tài sản là Quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 34/2024/QĐXXST-DS ngày 17/4/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số
48/2024/QĐST-DSST ngày 16/5/2024; Quyết định hoãn phiên tòa số
70/2024/QĐST - DSST ngày 13/6/2024; Quyết định tạm ngừng phiên tòa số
26/2024/QĐST - DSST ngày 27/6/2024 giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: Ông Đào Duy Đ, sinh năm: 1962
Nơi cư trú: Số C, tổ A, KP1, phường T, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo uỷ quyền của của ông Đ: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm
1983
Nơi ĐKHKTT: thôn T, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang
( có mặt)
Nơi ở: Tầng 2, số nhà A, đường V, Tổ dân phố số A, thị trấn T, huyện H,
tỉnh Bắc Giang.
*Bị đơn:Bà Dương Thị X, sinh năm 1972 ( vắng mặt)
Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang;
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Đỗ Thị H1, sinh năm 1968 ( vắng mặt)
Nơi cư trú: Số C, Tổ 18, KP1, phường T, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
- Anh Đào Duy V, sinh năm 1988 ( vắng mặt)
Nơi cư trú: Số C, Tổ 18, KP1, phường T, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
- Chị Đào Thị T1, sinh năm 1990 ( vắng mặt)
Nơi cư trú: Số C, Tổ 18, KP1, phường T, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh.
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HIỆP HÒA
TỈNH BẮC GIANG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà H1, anh V, chị T1: Ông Nguyễn Văn
T, sinh năm 1983
Địa chỉ: Tầng B, số nhà A, đường V, Tổ dân phố số A, thị trấn T, huyện H,
tỉnh Bắc Giang.
-Ông Đỗ Văn T2, sinh năm 1943 ( có đơn xin vắng mặt)
Nơi ĐKHKTT: thôn Đồng Minh, xã Hoàng Thanh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh
Bắc Giang.
Nơi ở: 25/33/16 đường Bùi Quang Là, phường 12, quận Gò Vấp, thành phố
Hồ Chí Minh
-UBND xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang
Do bà Nguyễn Thị T3 - công chức địa chính xã đại diện theo ủy quyền
( có đơn xin vắng mặt)
-UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang
Do ông Hoàng Văn T4 - Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
H, tỉnh Bắc Giang đại diện theo ủy quyền. ( vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/10/2023, bản tự khai tiếp theo nguyên đơn
ông Đào Duy Đ và người đại diện theo ủy quyền của ông Đ trình bày:
Trước đây hộ gia đình ông Đ là chủ sử dụng thửa đất trồng lúa số 148, tờ bản đồ
số 13, có diện tích 204m
2
, toạ lạc tại xứ đồng Sau Ngòi, thôn Đ (nay là thôn Đ),
xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang căn cứ theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số: P 025391; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số:
321.QSDĐ/420/1998/QĐ-UB(H), do UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang cấp ngày
15/7/1999”. Do canh tác không hiệu quả, nên năm 1999 , ông đã nhờ cha vợ mình
là ông Đỗ Văn T2, sinh năm 1943; Căn cước công dân số: 031043002449 do Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 09/3/2022 (dưới đây gọi
tắt là “ông T2”) khoán cho bà Dương Thị X cư trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện H,
tỉnh Bắc Giang (dưới đây gọi tắt là “bà X”) canh tác căn cứ theo “Đơn xin chuyển
khoán ruộng ngày 01/01/1999” được lập giữa ông Đỗ Văn T2 và bà Dương Thị
X và có sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn R là trưởng thôn của thôn Đ tại thời
điểm đó.
Đến ngày 06/11/2006, hộ gia đình ông đã đổi thửa ruộng trên cho ông
Dương Ngô K để lấy ruộng tại vị trí khác (thửa đất số 152, tờ bản đồ số 10, diện
tích 204 m
2
, tại xứ đồng N, thôn M (nay là thôn Đ), xã H, huyện H, tỉnh Bắc
Giang). Việc đổi ruộng này giữa các bên đã hoàn tất và đã được Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất huyện H, tỉnh Bắc Giang chứng nhận và đăng ký biến động
trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hai bên theo quy định. Sau khi đổi
ruộng ông đã giao ruộng mới đổi của ông Dương Ngô K cho bà X tiếp tục sử dụng
theo Đơn xin chuyển khoán ruộng ngày 01/01/1999 nêu trên.
Đến tháng 10 năm 2013, hết thời hạn khoán ruộng, ông đã nhiều lần trực tiếp và
nhiều lần nhờ ông T2 yêu cầu bà X phải trả lại ruộng đã nhận khoán, nếu bà X có
nhu cầu tiếp tục sử dụng thì phải trả phí nhận khoán. Tuy nhiên, bà X không trả
ruộng cho ông mà vẫn tiếp tục canh tác và không trả phí. Do đi làm ăn xa, không
3
có ở nhà để đôn đốc bà X trả lại ruộng, nên mãi đầu năm 2020, ông cùng với ông
T2 mới về quê gặp bà X đòi lại ruộng thì bà X có nói là sẽ trả cho ông và ông T2
ruộng ở vị trí khác, nên ông và ông T2 không đồng ý và có giải thích với bà X là
ruộng của ông và ông T2 đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận, có số thửa, số
tờ bản đồ rõ ràng, nên không thể nhận ruộng khác mà chưa được Nhà nước cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nghe ông và ông T2 nói vậy, bà X ngay lập
tức tuyên bố không trả và thách thức ông và ông T2 đưa sự việc ra pháp luật để
giải quyết.
Nay ông khởi kiện buộc bà Dương Thị X trả cho hộ ông Đào Duy Đ thửa đất
số: 152, tờ bản đồ số 10, diện tích 204m
2
, tại xứ đồng N, thôn M (nay là thôn Đ),
xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang.
Về kết quả thẩm định, định giá tài sản ngày 21/3/2024 người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn nhất trí, không có ý kiến gì
Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của ông Đ giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện. Buộc bà Dương Thị X trả cho hộ ông Đào Duy Đ thửa đất số: 152, tờ
bản đồ số 10, diện tích 204m
2
, tại xứ đồng N, thôn M (nay là thôn Đ), xã H, huyện
H, tỉnh Bắc Giang.
* Bị đơn bà Dương Thị X được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bà đều từ
chối nhận và không lên Tòa án làm việc và từ bỏ quyền lợi của mình.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đỗ Thị H1, anh Đào Duy Điệp,
chị Đào Thị T1 đều nhất trí với phần trình bày của ông Đào Duy Đ và đều ủy
quyền cho ông Nguyễn Văn T đại diện theo ủy quyền.
*Ông Đỗ Văn T2 trình bày:
Anh Đ là con rể ông, trước đây hộ anh Đ là chủ sử dụng thửa đất trồng lúa số 148,
tờ bản đồ số 13, có diện tích 204m
2
, toạ lạc tại xứ đồng Sau Ngòi, thôn Đ (nay là
thôn Đ), xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang căn cứ theo “Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số: P 025391; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số:
321.QSDĐ/420/1998/QĐ-UB(H), do UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang cấp ngày
15/7/1999”.
Do canh tác không hiệu quả, nên năm 1999 anh Đ đã nhờ ông khoán cho chị X
canh tác căn cứ theo “Đơn xin chuyển khoán ruộng ngày 01/01/1999” được lập
giữa ông và chị X, khi lập văn bản khoán ruộng có sự chứng kiến của ông Nguyễn
Văn R là trưởng thôn của thôn Đ tại thời điểm đó.
Đến ngày 06/11/2006, hộ gia đình anh Đ đã đổi thửa ruộng trên cho ông
Dương Ngô K để lấy ruộng tại vị trí khác. Việc đổi ruộng này giữa các bên đã
hoàn tất và đã được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện H, tỉnh Bắc
Giang chứng nhận và đăng ký biến động trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho hai bên theo quy định. Sau khi đổi ruộng anh Đ đã giao ruộng mới đổi của
ông Dương Ngô K cho chị X tiếp tục sử dụng theo Đơn xin chuyển khoán ruộng
ngày 01/01/1999 nêu trên.
Đến tháng 10 năm 2013, hết thời hạn khoán ruộng, ông đã nhiều lần yêu cầu chị
X phải trả lại ruộng đã nhận khoán của ông và anh Đ, nếu chị X có nhu cầu tiếp
tục sử dụng thì phải trả phí nhận khoán. Tuy nhiên, chị X không trả ruộng cho ông
và anh Đ và vẫn tiếp tục canh tác, không trả phí.
4
Do anh Đ đi làm ăn xa, không có ở nhà để đôn đốc chị X trả lại ruộng, nên mãi
đầu năm 2020 ông cùng với anh Đ mới đến nhà chị X gặp chị X đòi lại ruộng thì
chị X có nói là sẽ trả cho ông và anh Đ ruộng ở vị trí khác, nên ông và anh Đ
không đồng ý và có giải thích với chị X là ruộng của chúng tôi đã được Nhà nước
cấp giấy chứng nhận, có số thửa, số tờ bản đồ rõ ràng, nên không thể nhận ruộng
khác mà chưa được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nghe ông
và anh Đ nói vậy, chị X ngay lập tức tuyên bố không trả và thách thức ông và anh
Đ đưa sự việc ra pháp luật để giải quyết.
Do đó, ông đã khởi kiện chị X ra Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà yêu cầu Toà
án giải quyết buộc chị X phải trả lại cho ông toàn bộ thửa ruộng đã nhận khoán.
Sau khi thụ lý giải quyết Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà đã chấp nhận đơn khởi
kiện của ông, buộc chị X phải trả lại cho ông toàn bộ thửa ruộng đã nhận khoán.
Còn anh Đ đến nay mới làm thủ tục khởi kiện chị X.
Do đó, ông đề nghị Toà án nhân dân huyện Hiệp Hoà xem xét chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của anh Đ nêu trên. Do ông tuổi cao, đi lại khó khăn, nên ông
đề nghị Toà án không đưa ông vào tham gia tố tụng trong vụ án này. Đề nghị Tòa
án nhân dân huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang xem xét, giải quyết theo quy định
của pháp luật.
* UBND xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang
Do bà Nguyễn Thị T3 - công chức địa chính đại diện theo ủy quyền
Về nguồn gốc: Trước đây, hộ gia đình ông Đào Duy Đ là chủ sử dụng thửa
đất trồng lúa số 148, tờ bản đồ 13, diện tích 204.0m
2
, tại xứ đồng N, thôn M (nay
là thôn Đ), xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang căn cứ theo “Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số: P 025391; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số:
321.QSDĐ/420/1998/QĐ-UB(H), do UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang cấp ngày
15/7/1999. Do gia đình ông Đào Duy Đ canh tác không hiệu quả, nên năm 1999
gia đình ông T2 đã khoán cho bà Dương Thị X canh tác, khi khoán ruộng hai bên
có lập “Đơn xin chuyển khoán ruộng ngày 01/01/1999” và có sự chứng kiến của
ông Nguyễn Văn R là trưởng thôn của thôn Đ tại thời điểm đó. Sau khi nhận đủ
tiền khoán ruộng, ông Đ đã bàn giao ruộng cho bà X canh tác. Đến ngày
06/11/2006, hộ gia đình ông Đ đã đổi thửa ruộng trên cho hộ ông Dương Ngô K
để lấy thửa ruộng số 152, tờ bản đồ số 10, diện tích 204 m
2
, tại xứ đồng N, thôn
M (nay là thôn Đ), xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang. Việc đổi ruộng này có được
sự đồng ý của các thành viên hộ gia đình ông Đ và các thành viên hộ gia đình ông
K và việc đổi ruộng giữa các bên đã hoàn tất, đã được Văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất huyện H, tỉnh Bắc Giang chứng nhận và đăng ký biến động trên Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc chuyển nhượng ruộng giữa hộ gia đình ông
Đ và ông Dương Ngô K là đúng quy định. Sau khi đổi ruộng ông Đ đã giao thửa
ruộng số 152 cho bà X tiếp tục sử dụng với các điều kiện theo Đơn xin chuyển
khoán ruộng ngày 01/01/1999 mà hai bên đã ký. Đến tháng 10 năm 2013, hết thời
hạn khoán ruộng, ông Đ đã yêu cầu bà X phải trả lại cho ông thửa ruộng đã nhận
khoán, nếu bà X có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì phải trả phí nhận khoán cho ông
Đ. Tuy nhiên, bà X không trả ruộng cho ông Đ mà vẫn tiếp tục canh tác và không
trả phí. Do đó, ông Đ có đơn đề nghị giải quyết tranh chấp gửi lên UBND xã H.
UBND xã đã thành lập hội đồng hòa giải và tổ chức hòa giải 2 lần vào ngày
5
18/10/2023 và ngày 24/10/2023, tuy nhiên cả 2 lần hòa giải đều không thành. Vì
vậy đến thời điểm hiện tại ông Đ đã có đơn khởi kiện bà Dương Thị X ra tòa án
nhân dân huyện Hiệp Hòa, buộc bà X trả lại cho hộ ông Đ thửa đất số: 152, tờ bản
đồ số 10, diện tích 204 m
2
, tại xứ đồng N, thôn M (nay là thôn Đ), xã H, huyện H,
tỉnh Bắc Giang. UBND xã H không có ý kiến gì thêm.
*UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang
Do ông Hoàng Văn T4 - Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
H, tỉnh Bắc Giang đại diện theo ủy quyền.
Nguồn gốc thửa ruộng số 148, tờ bản đồ số 13, diện tích 204 m
2
của hộ gia
đình ông Đ được UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang cấp GCNQSDĐ số P 025391
đối với thửa đất trên. Ngày 06/11/2006, Chi nhánh Văn phòng Đ2 hộ ông Đào
Duy Đ chuyển cho ông Dương Ngô K, mục đích sử dụng trồng lúa nước. Hộ gia
đình ông Đào Duy Đ nhận của ông Dương Ngô K thửa ruộng số 152, tờ bản đồ
số 10, diện tích 204 m
2
, mục đích sử dụng trồng lúa nước. Việc bà Dương Thị X
nhận khoán ruộng của ông Đỗ Văn T2 ( là bố vợ ông Đào Duy Đ) là thỏa thuận
giữa các bên. Nội dung đề nghị của ông Đào Duy Đ đòi lại tài sản là Quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 152, tờ bản đồ số 10, diện tích 204 m
2
, tại xứ đồng
N, thôn M (nay là thôn Đ), xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang là có căn cứ.
* Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa phát biểu quan
điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Hội
đồng xét xử, thẩm phán, thư ký phiên tòa là đảm bảo. Tại phiên tòa nguyên người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chấp hành chưa đúng.
Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 163, Điều 164 Bộ luật dân sự; các Điều 166, 170, 179,
202, 203 của Luật đất đai;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đào Duy Đ, buộc bà Dương
Thị X trả lại thửa đất số 152, tờ bản đồ số 10, diện tích 204m
2
tại xứ đồng N, thôn
Đ, xã H, huyện H cho hộ ông Đào Duy Đ.
Về chi phí thẩm định, án phí, quyền kháng cáo đương sự đề nghị giải quyết
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền: Vụ án Tranh chấp “Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất giữa”
ông Đào Duy Đ với bà Dương Thị X thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân theo Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Hiệp
Hòa, Bắc Giang thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại
Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
vắng mặt lần thứ hai, không có lý do và có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội
đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy
định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:
Gia đình ông Đào Duy Đ là chủ sử dụng thửa đất trồng lúa số 148, tờ bản
đồ số 13, có diện tích 204m
2
, toạ lạc tại xứ đồng Sau Ngòi, thôn Đ (nay là thôn
6
Đ), xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang căn cứ theo “Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số: P 025391; vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số:
321.QSDĐ/420/1998/QĐ-UB(H), do UBND huyện H, tỉnh Bắc Giang cấp ngày
15/7/1999”. Do canh tác không hiệu quả, nên năm 1999 , ông đã nhờ cha vợ mình
là ông Đỗ Văn T2, sinh năm 1943; Căn cước công dân số: 031043002449 do Cục
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 09/3/2022 (dưới đây gọi
tắt là “ông T2”) khoán cho bà Dương Thị X cư trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện H,
tỉnh Bắc Giang (dưới đây gọi tắt là “bà X”) canh tác căn cứ theo “Đơn xin chuyển
khoán ruộng ngày 01/01/1999” được lập giữa ông Đỗ Văn T2 và bà Dương Thị
X và có sự chứng kiến của ông Nguyễn Văn R là trưởng thôn của thôn Đ tại thời
điểm đó. Đơn xin chuyển khoán ruộng có các nội dung sau:
“- Thời hạn khoán: Sử dụng ruộng khoán đúng mục đích đến khi hết thời hạn sử
dụng theo Nghị định 64/CP của Chính Phủ (10/2013);
- Hết thời hạn sử dụng phải trả lại ruộng cho tôi và anh Đ1;
- Bà X phải có nghĩa vụ nộp tất cả các loại thuế, phí liên quan trong quá trình sử
dụng đất, như: thuế nông nghiệp, thuỷ lợi phí và các khoản phụ vụ cho đồng ruộng
phải đóng góp theo quy định của xóm và Nhà nước;
- Ngoài ra chúng tôi còn thống nhất bên ngoài về số tiền khoán ruộng là 100.000
đồng/01 sào và thu một lần”
Đến ngày 06/11/2006, hộ gia đình ông đã đổi thửa ruộng trên cho ông Dương
Ngô K để lấy ruộng tại vị trí khác là số 152, tờ bản đồ số 10, diện tích 204m
2
tại
xứ đồng N, thôn Đ, xã H, huyện H cho hộ ông Đào Duy Đ. Việc đổi ruộng này
giữa các bên đã hoàn tất và đã được Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện
H, tỉnh Bắc Giang chứng nhận và đăng ký biến động trên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho hai bên theo quy định. Sau khi đổi ruộng ông đã giao ruộng mới
đổi của ông Dương Ngô K cho bà X tiếp tục sử dụng theo Đơn xin chuyển khoán
ruộng ngày 01/01/1999 nêu trên.
Đến tháng 10 năm 2013, hết thời hạn khoán ruộng, ông đã nhiều lần yêu cầu
bà X phải trả lại ruộng đã nhận khoán, nhưng bà X không trả ruộng cho ông mà
vẫn tiếp tục canh tác và không trả phí.
Căn cứ vào Đơn xin chuyển khoán ruộng ngày 01/01/1999 mà hai bên đã
ký, và với trưởng thôn, ông Dương Ngô K là người đổi ruộng, đại diện UBND xã
đều xác định giữa ông Đ với bà X là đổi ruộng cho nhau, và hiện nay thửa ruộng
số 152, tờ bản đồ số 10, diện tích 204m
2
, tại xứ đồng N, thôn M (nay là thôn Đ),
xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang do bà X đang sử dụng canh tác. Do vậy, ông Đ có
đơn khởi kiện đòi bà X phải trả cho gia đình ông thửa ruộng trên là có căn cứ, cần
được chấp nhận theo Điều 166, Điều 170, khoản 1 Điều 203 - Luật đất đai.
[4] Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản hết 2.100.000 đồng, phía nguyên
đơn xin chịu cả. Xác nhận ông Đ đã nộp đủ.
[5] Về án phí:
Bà Dương Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự không có giá ngạch
theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ông Đào Duy Đ được miễn tạm ứng án phí.
7
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định
tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 26; Điều 35; Điều 39; Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều
273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 105; Điều 115; khoản 1 Điều 163, Điều 164 Bộ luật dân sự;
Các Điều 166, 170, 179, 202, 203 của Luật đất đai
Khoản 2 - Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử:
1. Về yêu cầu khởi kiện:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Buộc bà Dương Thị X phải trả cho hộ ông Đào Duy Đ thửa ruộng số 152,
tờ bản đồ số 10, diện tích 204 m
2
, tại xứ đồng N, thôn M (nay là thôn Đ), xã H,
huyện H, tỉnh Bắc Giang.
2. Về án phí:
Bà Dương Thị X phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự không có giá ngạch
theo khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ông Đào Duy Đ được miễn tạm ứng án phí.
3.Về chi phí tố tụng:
Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản hết 2.100.000 đồng, phía nguyên
đơn xin chịu cả. Xác nhận ông Đ đã nộp đủ.
4. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án.
Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và
Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Bắc Giang; THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
- VKSND huyện Hiệp Hòa;
- CCTHADS huyện Hiệp Hòa;
- Các đương sự;
- Lưu hs.
Nguyễn Thị Sự
8
Tải về
Bản án số 57/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 57/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 24/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 08/11/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 22/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 15/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 14/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 13/09/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm