Bản án số 268/2025/DS-PT ngày 11/07/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 268/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 268/2025/DS-PT ngày 11/07/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 268/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông T yêu cầu các bị đơn là ông Tạ Quang P, Lê Hồng Q và Hồ Tiến V phải trả lại diện tích đất đã xây dựng nhà văn hóa thôn là 1.111 m2 và diện tích con đường đi là 366 m2. Tổng diện tích là 1.477m2. Nay ông thay đổi bổ sung đơn khởi kiện, cụ thể
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 268/2025/DS-PT
Ngày: 11-7-2025
V/v: “Tranh chấp
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- T phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị My My.
Các Thẩm phán: Bà Đinh Thị Tuyết, ông Nguyễn Văn Hồng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Trang – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Ông
Nguyễn Chí Hiếu - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử công
khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 171/2025/TBTL-TA ngày 25 tháng 3 năm 2025
về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, do Bản án dân sự thẩm số 65/2024/DS -
ST ngày 06/12/2024 của Toà án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk bị kháng
cáo, kháng nghị theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 245/2025/QĐXX-PT ngày
25/5/2025; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Trần Trung T Sinh năm: 1961 (Có mặt).
Địa chỉ: Thôn A, Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (nay Thôn A, Đ, tỉnh Đắk
Lắk).
2. Bị đơn: Ông Tạ Quang P Sinh năm: 1967 (Vắng mặt).
- Ông Lê Hồng Q Sinh năm: 1976 (Vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nông Văn N Sinh năm: 1960
(Có mặt).
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố B, thtrấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. (Nay là xã N, tỉnh
Đắk Lắk).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Trương Ngọc M Sinh năm: 1978 người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập (Vắng mặt).
Địa chỉ: Buôn M, C, huyện B, tỉnh Đắk Lắk (Nay Buôn M, B, tỉnh Đắk
Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trương Ngọc M: Ông Nông Văn N Sinh
năm: 1960 (Có mặt).
2
Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (NayTổ dân phố B,
xã N, tỉnh Đắk Lắk).
- Ủy ban nhân dân huyện N, tỉnh Đắk Lắk.
Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo theo pháp luật: Ông V Văn M - Chủ tịch UBND huyện (Vắng
mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Văn H (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. (Nay Tổ dân
phố 1, xã N, tỉnh Đắk Lắk).
*Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng của Ủy ban nhân dân huyện N - Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân xã Đ, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).
- Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk.
Địa chỉ: Thôn Trung Hòa, Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. (Nay Đ, tỉnh Đắk
Lắk).
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Văn H Chủ tịch UBND xã (Vắng
mặt).
Địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn N, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. (Nay là Tổ dân phố 1,
xã N, tỉnh Đắk Lắk).
- Bà Nguyễn ThS Sinh năm: 1961(Có đơn xin xét xử vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn Đ, G, huyện D, tỉnh Bắc Giang (Nay là thôn Đ, V, tỉnh Bắc
Ninh).
- Ông Hồ Tiến V Sinh năm: 1987 (Vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn A, Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (Nay Thôn A, Đ, tỉnh Đắk
Lắk).
- Ông Lê Văn S Sinh năm: 1981(Vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn Q, T, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (Nay thôn Q, Đ, tỉnh Đắk
Lắk).
- Ông Trần Văn C (Vắng mặt)
Địa chỉ: Thôn M, T, huyện P, tỉnh Đắk Lắk (Nay thôn M, xã P, tỉnh Đắk
Lắk) (Vắng mặt).
4. Người làm chứng:
- Ông Huỳnh Công T, sinh năm 1982 (Vắng mặt).
- Ông Huỳnh Công V, sinh năm 1980 (Vắng mặt).
- Ông Hồ Văn M (Vắng mặt).
- Ông Phùng Quang Đ, sinh năm 1982 (Vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Thôn A, Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk. (Nay là Thôn A, Đ, tỉnh
Đắk Lắk).
5. Người kháng cáo: Các bị đơn ông Tạ Quang P, ông Hồng Q; Người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập: Ông Trương Ngọc M. Viện kiểm sát
nhân dân huyện Krông Năng (Nay Viện kiểm sát nhân dân khu vực 10) kháng nghị.
3
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn ông Trần Trung T trình bày:
Năm 1995 vợ chồng ông Trần Trung T, Nguyễn Thị S nhận chuyển nhượng
của ông Ma B, ông Y K và ông Âm T (Địa chỉ: Buôn Y, Đ, huyện N) diện tích đất
khoảng 9,5ha. Trong đó có thửa số 33 tờ bản đồ số 72, diện tích 16.810m
2
đã được Ủy
ban nhân dân (Ghi tắt UBND) huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R
598868 ngày 25/12/2000, mang tên hộ ông Trần Trung T.
Quá trình sử dụng đất ổn định từ năm 1995 đến năm 2008 thì Ban tự quản Thôn
A, do ông Tạ Quang P làm Trưởng thôn đã tiến hành san ủi mặt bằng trên một phần
đất thuộc thửa đất số 33 của gia đình ông và sau đó thì xây dựng Nvăn hóa Thôn A.
Khi sự việc xảy ra thì ông được biết ông P đại diện thôn nhận chuyển nhượng đất
của ông Trương Ngọc M từ năm 2005, mục đích để làm nhà văn hóa thôn. Tuy nhiên,
phần đất mà ông P nhận chuyển nhượng từ ông M không phải là đất của ông M, mà là
một phần trong tổng diện tích đất của thửa đất 33; tờ bản đồ số 72 mà ông T đã được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868. Vì vậy, ông T xác định việc ông
M chuyển nhượng đất cho ông P trái quy định của pháp luật, dẫn đến việc lấn chiếm
đất của ông T.
Theo kết quả đo phần đất bị lấn chiếm có diện tích 997,9m
2
, có vị trí tứ cận: Phía
Đông giáp đất ông Huỳnh Công V (Theo trích đo hiện trạng thửa đất lập ngày
14/12/2022 là lối đi đang có tranh chấp); phía Tây và phía Nam giáp phần còn lại của
thửa đất số 33; phía Bắc giáp đường đi.
Tại thời điểm ông Tạ Quang P, ông Hồng Q ông Hồ Tiến V huy động
con trong thôn làm Nvăn hóa thôn thì gia đình ông T đang sống trong thôn ông
P họp dân để bàn việc làm nhà văn hóa thôn, nhưng gia đình ông T không được mời
họp bàn, chỉ khi thôn tiến hành làm nhà văn hóa trên đất của ông T thì ông T mới biết
và đã yêu cầu ông P không được làm nhưng không được chấp nhận.
Tại đơn khởi kiện lần thứ nhất ông T yêu cầu các bị đơn ông Tạ Quang P,
Hồng Q và Hồ Tiến V phải trả lại diện tích đất đã xây dựng nhà văn hóa thôn là 1.111
m
2
diện tích con đường đi 366 m
2
. Tổng diện tích là 1.477m
2
. Nay ông thay đổi
bổ sung đơn khởi kiện, cụ thể: Yêu cầu Tòa án buộc ông Tạ Quang P và ông Lê Hồng
Q trả lại diện tích đất 997,9 m
2
đã sử dụng làm Nhà văn hóa thôn, yêu cầu tháo dỡ các
công trình trên đất (diện tích trên được xác định theo kết quả đo đạc ngày 14/12/2022
của Tòa án). Ông T yêu cầu Tòa án giải quyết theo nội dung tại đơn thay đổi bổ sung
yêu cầu khởi kiện và rút phần yêu cầu khởi kiện đối với phần đất đã mở làm đường đi.
* Tại đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập, quá trình giải quyết vụ án các
bị đơn (ông Tạ Quang P và ông Hồng Q), người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
yêu cầu độc lập (ông Trương Ngọc M) và người đại diện theo ủy quyền của ông
P, ông Q và ông M là ông Nông Văn N trình bày:
Ông Trương Ngọc M cư trú tại, Thôn A từ năm 1996 đến năm 2008. Diện tích đất
mà ông M trực tiếp sử dụng là khoảng 01 ha.
4
Vào năm 2000, Ban tự quản Thôn A, Đ đã tổ chức họp con trong thôn thống
nhất đặt vấn đề tìm đất để nhận chuyển nhượng, mục đích làm Hội trường thôn. Thời
điểm đó Ban tự quản thôn ông Nguyễn Văn T làm Trưởng thôn; ông Tạ Quang P
làm Trưởng Ban Mặt trận thôn. Do ông T thường bận việc gia đình ở xa, nên công tác
hoạt động của thôn chủ yếu do ông P đảm nhiệm. Tại thời điểm đó ông Trương Ngọc
M đang trú và canh tác lô đất diện tích khoảng 01 ha tại Thôn A. Sau cuộc họp
thôn, Ban tquản thôn đã đến gặp ông M, đặt vấn đề mua đất của ông M để làm Hội
trường thôn. Ông M đồng ý chuyển nhượng phần đất xéo của đất, diện tích khoảng
1.000m
2
cho Ban tự quản thôn với gtiền 3.800.000 đồng (Ba triệu tám trăm ngàn
đồng chẵn). Lúc đó, Ban tự quản thôn mới đưa cho ông M được 500.000 đồng (Năm
trăm ngàn đồng) coi như tiền đặt cọc nhưng không lập giấy tờ gì. thời điểm đó,
Ban tự quản thôn chưa huy động nhân dân trong thôn đóng góp được đủ tiền, đất ông
M cũng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên ông M vẫn canh tác
trên diện tích đất này.
Đến năm 2005, Ban tự quản Thôn A huy động được tiền đóng góp đưa dần tiền
bán đất trên cho ông M. Đến ngày 18/8/2005, giữa Ban tự quản thôn ông Trương
Ngọc M lập giấy viết tay về việc chuyển nhượng đất rẫy với diện tích 1.000m
2
trị
giá 3.800.000 đồng. Số tiền nhận chuyển nhượng đất của Ban Tự quản thôn huy
động nhân dân trong thôn đóng góp.
Tại thời điểm ông M bàn giao cắm mốc chđất, đất của ông M với đất ông T
bờ ranh phân chia từ trước, không tranh chấp. Thực tế sau khi hộ ông Trần Trung
T được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868, gia đình ông T không
canh tác trên phần diện tích đất của nhà văn hóa thôn, nhà của ông T cách diện tích
đất nhà văn hóa chỉ khoảng hơn hơn 50m đi lại trên con đường sát Nhà văn hóa
thôn. Từ khi Ban tự quản thôn được ông M giao đủ đất, xây xong nhà cho bà con trong
thôn sinh hoạt, hội họp đến năm 2019 thì gia đình ông Trần Trung T không phát sinh
tranh chấp gì. Gia đình ông T biết việc mua đất của ông M và đóng góp tiền cho thôn
mua đất năm 2005 làm Nvăn hóa; sinh hoạt, hội họp trong Nhà văn hóa của thôn
từ năm 2011 đến m 2019 không hề đcập tranh chấp diện tích đất trên. Quá trình
giải quyết vụ án đại diện UBND Đ (Ông Y T Niê) cũng xác định việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T có sự nhầm lẫn về ranh giới.
Hiện nay phía bị đơn và ông Trương Ngọc M xác định: Diện tích đất tranh chấp
nguồn gốc của ông Trương Ngọc M chuyển nhượng cho Ban tự quản Thôn A.
Việc UBND huyện N cấp cho ông T Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868
đối với thửa số 33; tờ bản đồ số 72 đã chồng lấn lên đất của ông M. vậy, đ nghị
Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, đồng thời phía bị đơn và người
có quyền lợi nghĩa vụ liên quan giữ nguyên yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, đề nghị
hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868, do UBND huyện N cấp ngày
25/12/2000 cho hộ ông Trần Trung T, đối với thửa số 33; tờ bản đồ số 72.
Đối với việc chuyển nhượng đất giữa ông Trương Ngọc M với Ban tự quản Thôn
A thì phía bị đơn không yêu cầu xem xét trong vụ án này.
5
* Quá trình giải quyết vụ án, người đại diện theo pháp luật của UBND xã Đ
là người đại diện theo ủy quyền của UBND huyện N, ông Hoàng Văn H trình bày:
- Đối với việc Ban tự quản Thôn A nhận chuyển nhượng đất và huy động tiền để
xây dựng Nhà văn hóa thôn. Quá trình Thôn A, Đ, huyện N xây dựng nhà văn hóa
thôn thì Ban tự quản thôn có tờ trình gửi UBND xã Đ về việc xin chủ trương cho phép
xây dựng. Sau khi xem xét nội dung tờ trình UBND Đ đã đồng ý về chủ trương và
cho phép Ban tự quản Thôn A chỉ đạo cho nhân dân xây dựng nhà văn hóa thôn, làm
nơi sinh hoạt cho con. Tuy nhiên, việc xây dựng nhà văn hóa thì UBND xã không
phê duyệt phương án cũng như kinh phí xây dựng, mà UBND xã giao cho Ban tquản
Thôn A chủ động thực hiện.
Nguồn đất dùng để xây dựng Nhà văn hóa không thuộc quỹ đất công của UBND
Đ, mà do Ban tquản Thôn A nhận chuyển nhượng từ ông Trương Ngọc M. Việc
Ban tự quản Thôn A nhận chuyển nhượng đất của ông Trương Ngọc M thì UBND
không biết. Tuy nhiên theo quy chế hoạt động của UBND xã về thực hiện qui chế dân
chủ sở, thì Ban tự quản các thôn buôn được phép thực hiện và tự chủ động về kinh
phí tchức thực hiện nhằm mục đích chung. Đất dùng để xây dựng nhà văn hóa
thôn kinh phí dùng để xây dựng là do Ban tự quản Thôn A huy động nhân dân trong
thôn đóng góp để xây dựng.
Việc Ban tquản Thôn A tự chủ động trong việc nhận chuyển nhượng đất của
ông M huy động sự đóng góp của nhân n trong thôn để xây dựng Nvăn hóa
thôn là phù hợp với quy chế hoạt động của UBND xã Đ.
Nay ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các ông P, Quang, phải trả
lại diện ch xây nhà hóa thôn và con đường đi. Quan điểm của UBND xã Đ đề nghị
a án xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.
- Đối với yêu cầu huỷ Giấy chứng nhận quyền sdụng đất số R 598868 do UBND
huyện N cấp 25/12/2000 mang tên hộ ông Trần Trung T đối với thửa đất số 33, tờ bản
đồ số 72, diện tích 16810.0m2, đất màu:
Năm 2000 ông Trần Trung T có đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sdụng
đất đối với diện tích đất 37.510 m
2
, bao gồm các thửa đất: Thửa số 6, diện tích 16.295
m
2
; thửa số 33, diện tích 16.810m
2
và thửa 37, diện tích 4.405 m
2
. Các thửa đất thuộc
tờ bản đồ số 72, được đo đạc năm 1999.
Căn cứ vào hồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, UBND huyện N đã cấp
cho ông T Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868 do UBND huyện N cấp
25/12/2000 mang tên hộ ông Trần Trung T.
Về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T được thực
hiện đúng theo quy định của pháp luật tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Còn việc xác định ranh giới thửa đất để đo đạc làm căn cứ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo chỉ dẫn của người yêu cầu cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
6
Quan điểm của UBND huyện N đề nghị Tòa án xem xét giải quyết trường hợp
giấy chứng nhận cấp sai đối ợng, sai hình thể thì đề nghị giải quyết theo quy định
của pháp luật.
* Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị S trình bày:
Bà và ông Trần Trung T kết hôn và chung sống với nhau từ năm 1979. Đến năm
2016 thì ly hôn theo Quyết định số 118/QĐST HNGĐ ngày 03.10.2016 của Tòa án
nhân dân huyện N, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi ly hôn bà S ông T đã thống nhất phân chia
tài sản, đối với phần của S được chia, đã chuyển nhượng cho người khác. Quá
trình xây dựng Nhà văn hóa thôn bà S đại diện hộ gia đình đã đóng góp các khoản thu
theo yêu cầu và đồng ý hiến 0,5m đất để làm đường đi của thôn. Việc ông T khởi kiện
yêu cầu ông P, Quang, V phải trả lại diện tích đất xây dựng Nvăn hóa thôn con
đường đi bà đề nghị giải quyết theo quy định.
* Quá trình giải quyết vụ án người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Hồ
Tiến V trình bày:
Hiện ông V đang công tác tại Ban tự quản Thôn A, xã Đ, huyện N, ông tham gia
vào Ban tự quản từ năm 2017 cho đến nay.
Về việc ông Trần Trung T khởi kiện yêu cầu ông Qông P phải trả lại diện tích
đất xây nhà văn hóa thôn con đường, đồng thời phải tháo dỡ tài sản trên đất đi thì
ông không đồng ý. Do ông không tham gia vào qtrình mua đất của ông Trương Ngọc
M, cũng như không tham gia vào việc triển khai thực hiện xây dựng nhà văn hóa thôn
trên đất của ông Trần Trung T. Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định.
* Quá trình giải quyết vụ án người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Văn
S trình bày:
Năm 2021, ông thỏa thuận nhận chuyển nhượng của ông Trần Trung T diện tích
đất 37.510 m
2
, bao gồm các thửa đất: 6, 33, 37; tbản đồ số 72 đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ ông Trần Trung T. Hai bên chỉ mới lập hợp đồng
đặt cọc và ông đã trả tiền ông T đang nợ Ngân hàng để rút Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất về. Hiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868 do UBND huyện
N cấp 25/12/2000 mang tên hộ ông Trần Trung T ông T đang quản lý. Đối với tranh
chấp giữa các bên đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
* Quá trình giải quyết vụ án ông Huỳnh Công T, ông Huỳnh ng V ông
Phùng Quang Đ đều trình bày:
Gia đình các ông đều sống tại Thôn A, Đ thì gia đình canh tác đất rẫy
giáp ranh với con đường đi của Thôn A mà hiện ông Trần Trung T đang khởi kiện tại
Tòa án.
Nguồn gốc lô đất là do nhận chuyển nhượng của người đồng bào tại chỗ vào năm
1998, đến năm 1999 thì đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì gia đình các ông đã canh
tác sử dụng ổn định từ đó đến nay và không có tranh chấp gì.
7
Việc ông T khởi kiện yêu cầu ông P, ông Q và ông V phải trả lại diện tích đất xây
dựng Nvăn hóa thôn và con đường đi, chúng tôi đề nghị Tòa án giải quyết theo quy
định.
Tại Bản án dân sự thẩm s65/2024/DS - ST ngày 06/12/2024 của Toà án
nhân dân huyện Krông Năng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 10), tỉnh Đắk Lắk
đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 2, khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 147, khoản
1 Điều 157; Điều 165; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 Khoản 1 Điều 273
Bộ luật tố tụng dân sự; điều 105, Điều 107 Luật đất đai 2003; các Điều 5, Điều 26,
Điều 166 Điều 170 Luật đất đai 2013; Các Điều 158, Điều 163, Điều 164, Điều 166
Điều 175 của Bộ luật dân snăm 2015; Điều 26 điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị
quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Trung T, đối với yêu cầu Tòa án
buộc ông Tạ Quang P và ông Lê Hồng Q trả lại diện tích đất 997,9 m
2
.
Buộc ông Tạ Quang P và ông Lê Hồng Q phải trả lại cho ông Trần Trung T diện
tích đất 997,9 m
2
vị trí như sau: Phía Đông giáp đất ông Huỳnh Công V (Theo trích
đo hiện trạng thửa đất lập ngày 14/12/2022 lối đi đang tranh chấp), phía Nam giáp
phần còn lại của thửa đất số 33, phía Bắc giáp đường đi. Diện tích đất phải trả lại thuộc
một phần của thửa đất số 33; tờ bản đồ số 72, diện tích 16.810m
2
đã được UBND huyện
N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868 ngày 25/12/2000, mang tên
Hộ ông Trần Trung T. (Vị trí đất chiều dài cạnh thửa của diện tích đất phải trả lại
được xác định theo bản sao, Bản vẽ hiện trạng đất tranh chấp lập ngày 14/12/2022,
đính kèm bản án).
Buộc ông Tạ Quang P và ông Lê Hồng Q phải tháo dỡ, di dời toàn bộ công trình,
vật kiến trúc và cây trồng trên đất phải trả lại.
- Đình chỉ phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Trung T về yêu cầu buộc ông Tạ
Quang P, Lê Hồng Q Hồ Tiến V phải trả lại con đường đi có diện tích theo kết quả
đo đạc là 788,6m
2
.
- Về chi phí tố tụng: Buộc ông Tạ Quang P ông Hồng Q phải nộp
12.800.000đ (Mười hai triệu tám trăm ngàn đồng) tiền chi phí xem xét thẩm định
định giá tài sản (Mỗi người nộp 6.400.000 đồng).
Hoàn trả cho ông Trần Trung T 12.800.000đ (Mười hai triệu tám trăm ngàn đồng)
sau khi thu được từ ông Tạ Quang P và ông Lê Hồng Q.
- Về án phí:
- Ông Tạ Quang P ông Lê Hồng Q phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng)
tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả cho ông Trần Trung T số tiền 750.000đ đã nộp tạm ứng án phí tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện N theo biên lai số 0008863 ngày 03/3/2022.
8
Ngoài ra Bản án sơ thẩm n tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng o
cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 17/12/2024, bị đơn ông Tạ Quang P, ông Hồng Q đơn kháng cáo toàn
bộ bản án, đnghị Toà án cấp phúc thẩm hủy Bản án thẩm chuyển vụ án cho Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 20/12/2024, người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan (ông Trương Ngọc M) là ông Nông Văn N đơn kháng cáo toàn bộ Bản án,
đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 18/12/2024 Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng (Nay là Viện kiểm
sát nhân dân khu vực 10) Kháng nghị phúc thẩm đề nghị Toà án cấp phúc thẩm hủy
Bản án sơ thẩm số 65/2024/DSST ngày 06/12/2024 của Tòa án nhân n huyện Krông
Năng chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục
sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm về việc giải
quyết vụ án: Về tố tụng, Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư Tòa án, các đương sự
đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng
xét xử: Căn cứ khoản 3 Điều 308; Điều 310 Bluật tố tụng dân sự năm 2015. Chấp
nhận Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS ngày 18 tháng 12 năm 2024 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng (Nay Viện kiểm sát nhân dân khu
vực 10). Chấp nhận đơn kháng cáo của ông Tạ Quang P, ông Hồng Q ông Trương
Ngọc M.
Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 06/12/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Krông Năng (Nay là Tòa án nhân dân khu vực 10), tỉnh Đắk Lắk,
giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân khu vực 10, tỉnh Đăk Lăk giải quyết lại theo thủ tục
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được xem xét tại phiên tòa
và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quyết định kháng nghị số 01/QĐ-VKS-DS ngày 18 tháng 12 năm
2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng (Nay Viện kiểm
sát nhân dân khu vực 10) ban hành trong thời hạn luật định đúng theo quy định của quy
định của pháp luật.
Đơn kháng cáo của ông Tạ Quang P, ông Hồng Q ông Trương Ngọc M nộp
trong thời hạn quy định đã nộp tiền tạm ứng án phí nên được xem xét giải quyết
theo thủ tục phúc thẩm.
[1.1] Về tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án:
Qua lời khai của nguyên đơn, bị đơn người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đều khẳng định các hộ dân Thôn A đã góp tiền mỗi hộ dân đóng góp 80.000 đồng để
mua đất xây dựng Nhà văn hóa thôn (trong đó gia đình ông Trần Trung T). Như
vậy, đất xây dựng Nhà văn hóa thôn hiện đang tranh chấp được hình thành từ đóng góp
9
của các hộ dân Thôn A và thuộc đồng sở hữu của những hộ dân Thôn A đã đóng góp,
không phải cá nhân ông P, ông Q tự bỏ tiền cá nhân để mua. Cấp thẩm xác định ông
Tạ Quang P, ông Hồng Q bị đơn trong vụ án là chưa chính xác khi không có tài
liệu, chứng cứ chứng minh sủy quyền của các hộ n Thôn A. Cấp thẩm
cũng không tiến hành triệu tập những hộ dân Thôn A đã đóng góp tiền mua đất để lấy
lời khai và đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án là thiếu sót.
[1.2] Về trách nhiệm nghĩa vụ buộc phải thực hiện:
Cấp thẩm buộc ông Tạ Quang P ông Hồng Q trả lại đất cho ông Trần
Trung T, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy:
Nhà văn hóa thôn xây dựng trên cơ sở ý chí tự nguyện, thỏa thuận đóng góp của
những người dân trong Thôn A, đại diện Ban Tự quản thôn là ông Tạ Quang P đã làm
tờ trình gửi UBND Đ về việc xin chủ trương cho phép xây dựng, UBND Đ đã
đồng ý về chủ trương cho phép Ban Tự quản Thôn A chỉ đạo cho nhân dân xây dựng
Nvăn a thôn, làm nơi sinh hoạt cho người dân trong thôn, UBND xã không phê
duyệt phương án ng như kinh phí xây dựng, mà UBND giao cho Ban Tự quản
Thôn A chủ động thực hiện. Quỹ đất dùng để xây dựng nhà văn hóa không thuộc quỹ
đất công của UBND Đ. Theo quy chế hoạt động của UBND vthực hiện quy chế
dân chủ sở, thì Ban Tự quản các thôn buôn được phép thực hiện tự chủ động
về kinh phí và tổ chức thực hiện nhằm mục đích chung. vậy, ông Tạ Quang P
ông Lê Hồng Q chỉ là đại diện cho Ban tự quản thôn đứng ra làm các thủ tục mua đất,
xây dựng quản lý. Việc cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Tạ Quang P và ông Lê Hồng Q
phải trả lại diện tích diện tích đất 997,9 m² cho ông T tháo dỡ, di dời toàn bộ công
trình, vật kiến trúc, cây trồng trên đất tuyên về chi phí tố tụng buộc ông P, ông Q
phải chịu không thể thi hành án được. Bởi lẽ, tài sản tranh chấp là tài sản chung của
toàn thể người dân Bình An đóng góp nên họ đều quyền quản , sử dụng chung.
nhân ông P và ông Q cũng chỉ có một phần quyền, nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng và
sở hữu chung tài sản không toàn quyền quyết định, định đoạt đối với tài sản này.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Về nguồn gốc đất:
Năm 2000 ông Trần Trung T đơn yêu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất 37.510m
2
, bao gồm các thửa đất: Thửa số 6, diện tích
16.295m
2
; thửa số 33, diện tích 16.810m
2
thửa 37, diện tích 4.405m
2
. Các thửa đất
thuộc tờ bản đồ số 72, được đo đạc năm 1999. Ngày 25/12/2000 ông T đã được UBND
huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868 mang tên hộ ông Trần
Trung T. Ông T khai nhận đất có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Ma B, ông
Y Kông Ama T diện ch đất 9,5 ha. Diện tích đất ông T được cấp theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất là 37.510m
2
. Tại phiên Tòa phúc thẩm ngày 30/01/2024, ông
T khai diện tích đất của ông T trên 70. 000 m
2
. Như vậy, diện tích đất đã được cấp
không trùng khớp với diện tích đất ông T nhận chuyển nhượng nhưng cấp thẩm
không tiến nh xác M đối với ông Ma B, ông Y K và ông Ama T để xác định diện
tích đất tranh chấp phải diện tích ông Ma B, ông Y K và ông Ama T đã chuyển
nhượng cho ông T hay không.
10
Ông Y T Niê, nguyên Chủ tịch UBND Đ; ông Hoàng Văn Hoan người đại
diện cho UBND xã xác định về trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông T được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Nhưng tại thời điểm
cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất chỉ tiến hành đo đạc dựa trên sự chỉ dẫn của
người đề nghị cấp đất, không xác M thực trạng quản sử dụng đất của ông T
các hộ liền kề cũng không biên bản giáp ranh các hộ liền kề đất của ông T. Ngoài
ra, ông Y Téo còn khẳng định quá trình kê khai và cấp đất cho ông T “có sự nhầm lẫn
về ranh giới liền kề”.
[2.2]. Quá trình sử dụng đất:
Ông T và gia đình sử dụng đất từ năm 1995 đến năm 2000 được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Liền kề với đất ông T đất ông M nhưng không có tranh
chấp đất. Năm 2005, ông M bán đất cho Thôn A để xây dựng Nhà văn hóa thôn, năm
2010 Nhà văn hóa thôn được xây dựng làm đường đi của thôn vào năm 2016. Với
suốt thời gian dài ông T vẫn gần tiếp giáp với Hội trường thôn, gia đình ông T có
tham gia họp thôn và có đóng góp xây dựng nhưng cũng không có ý kiến gì, không có
tranh chấp gì, ông T đã thừa nhận đất xây Hội trường thôn là do người dân trong thôn
góp tiền mua đất của ông M để xây cũng chính bà Nguyễn Thị S (là vợ của ông T
đã ly hôn vào năm 2017) xác định tại thời điểm năm 2008-2010, gia đình không có
ý kiến về việc xây Nhà văn hóa thôn, nhân dân trong thôn thống nhất như thế nào
thì gia đình nhất trí như vậy. Ranh giới giữa đất ông M đất ông T đều sử dụng ổn
định không có sê dịch, tranh chấp. Ông T khai, ông T có viết đơn gửi UBND xã Đ về
việc không đồng ý xây dựng hội trường thôn nhưng không được giải quyết nhưng ông
T không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Về phía UBND và các Cơ quan có
thẩm quyền của huyện N đều không nhận được bất cứ đơn thư nào của ông T. Ông T
cho rằng, không thể khởi kiện được vì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang được
thế chấp tại ngân hàng. Tuy nhiên năm 2000 ông T được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số R 598868 thuộc một phần trong thửa đất số 33, tờ bản đồ 72, diện tích
16.810m² nhưng đến năm 2007 tức 7 năm sau ông mới vay ngân hàng Nông nghiệp L,
hợp đồng số 541/07 cho đến ngày 25/4/2011 thì xóa thế chấp sau đó ông đã vay lại
ngân hàng và tiếp tục nhiều lần xóa thế chấp khác như ngày 07/5/2012; 15/5/2013,
21/3/2014, 19/3/2016. Bản thân ông T vào ngày 22/6/2018 viết giấy biên nhận thuê
Hội trường Thôn A để làm văn phòng hoạt động hợp tác nông nghiệp P. Do đó, ông
T cho rằng đất ông M chuyển nhượng cho ông P xây dựng Nhà văn hóa thôn không
phải là đất của ông M, mà là một phần trong tổng diện tích đất của thửa đất 33; tờ bản
đồ số 72 ông T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R 598868
không có căn cứ.
[3] Từ những phân tích, nhận định trên; Hội đồng xét xử xét thấy, cấp sơ thẩm vi
phạm thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự
khi thi hành án sẽ không thể thi nh được nên Toà án cấp phúc thẩm không thể
khắc phục. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Tạ Quang P, ông Lê Hồng
Q, Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng (Nay là Viện kiểm sát
nhân dân khu vực 10, tỉnh Đắk Lắk), kháng cáo của người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Trương Ngọc M. Hu Bn án dân s sơ thm s 65/2024/DS - ST ngày
11
06/12/2024 ca Toà án nhân dân huyện Krông Năng (NayTòa án nhân dân khu vc
10, tnh Đắk Lk), giao h sơ cho Toà án cấp sơ thẩm gii quyết li th tc chung.
[4.]. Về án phí và chi phí tố tụng:
[4.1]. Về án phí dân ssơ thẩm và chi phí tố tụng: Do hủy toàn bộ bản án sơ thẩm
nên chi phí tố tụng án phí Dân sự thẩm sẽ được quyết định khi vụ án được giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
[4.2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do được chấp nhận kháng cáo nên bị đơn ông
Tạ Quang P, ông Hồng Q người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trương
Ngọc M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ khoản 3 Điều 308, khoản 1 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chp nhn kháng cáo ca b đơn ông Tạ Quang P, ông Hồng Q, kháng nghị
của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng (Nay Vin kim sát nhân dân khu
vc 10, tỉnh Đắk Lk), kháng cáo ca người quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông
Trương Ngọc M.
Hu Bn án dân s thẩm s 65/2024/DS - ST ngày 06/12/2024 ca Toà án nhân
dân huyện Krông Năng (Nay Tòa án nhân dân khu vc 10 Đắk Lk), giao h sơ
cho Toà án cấp sơ thẩm gii quyết li theo th tc chung.
[2]. Về chi phí tố tụng và án phí:
[2.1]. Về chi phí ttụng án phí dân sự sơ thẩm: Do hủy toàn bộ bản án sơ thẩm
nên chi phí ttụng án phí dân sthẩm sẽ được quyết định khi vụ án được giải
quyết lại theo quy định của pháp luật.
[2.2]. Về án phí dân sự phúc thẩm:
Bị đơn ông Hồng Q, ông Tạ Quang P người quyền lợi, nghĩa vliên quan
ông Trương Ngọc M không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, mỗi người được nhận
lại số tiền 300.000 đồng tạmng án phí đã nộp theo các Biên lai t0011969, 0011970,
0011971 do ông Nông Văn N nộp ngày 27/12/2024 tại Chi cục Thi hành án dân s
huyện N.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa phúc thẩm- TAND
tối cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND khu vực 10 – Đắk
Lắk;
- THADS khu vc 10;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(Đã ký)
Nguyễn Thị My My
12
Tải về
Bản án số 268/2025/DS-PT Bản án số 268/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 268/2025/DS-PT Bản án số 268/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất